Tính phi ngã của văn học trung đại

– Sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người trong thi pháp văn học trung đại:

 + Sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người trong thi pháp văn học trung đại [tính phi ngã] là sự cảm thụ và diễn tả hiện thực khách quan không bởi con mắt quan sát của cá nhân người nghệ sĩ và không phải bằng hình ảnh ngôn từ, nhịp điệu, tình tiết do nghệ sĩ đó sáng tạo nên mà bằng một hệ thống ước lệ nghệ thuật có tính chất phi ngã.

+ Nguyên nhân: Thời trung đại, ý thức cá nhân, cá thể chưa có điều kiện phát triển.

+ Biểu hiện của tính phi ngã trong văn học trung đại: 

  •  Tranh vẽ, thơ vịnh cảnh đều có sự quy định sẵn theo công thức.
  •  Nhân vật, cốt truyện, luật phối thanh bằng trắc của thơ phú cũng có quy định chặt chẽ.
  •  Hình ảnh, những ngôn từ ước lệ phi ngã. 

+ Ý thức chống phi ngã trong văn học trung đại: Nhiều cây bút lớn thời trung đại có ý thức khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của mình.

– Cảm tưởng:

+ Sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người là sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến. 

+ Hệ quả đáng tiếc: Nhân vật của văn học trung đại chưa được sống như một cá thể sinh động, vậy nên thiếu đi tính hấp dẫn; giá trị nhân bản của các sáng tác văn học trung đại ít nhiều bị hạn chế.

+ Nhưng cũng đáng mừng, đáng trân trọng khi nhiều nhà thơ, nhà văn đã dám phá cách để vượt lên khỏi khuôn khổ chật hẹp mà tính phi ngã đưa đến. 

 Bài làm

Hàng ngàn năm văn học trung đại đã trôi qua nhưng một trong những dấu ấn đậm nét mà thời kì này để lại chính là sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người trong thi pháp. Đây là một trong những đặc điểm nổi, mang tính đặc trưng cho văn học trung đại Việt Nam.

Nói đến sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người trong thi pháp văn học trung đại [còn gọi là “phi ngã”] là sự cảm thụ và diễn tả hiện thực khách quan không bởi con mắt quan sát của cá nhân người nghệ sĩ và không phải bằng hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu, tình tiết do nghệ sĩ đó sáng tạo nên mà  bằng một hệ thống ước lệ nghệ thuật có tính chất phi ngã. Từ cơ sở xã hội phong kiến, chúng ta có thể lý giải rõ hơn về điều này.

Trong xã hội phong kiến, ý thức cá nhân, cá thể chưa có điều kiện phát triển. Giá trị của một cá nhân cũng như cách đánh giá của xã hội đối với cá nhân đó không căn cứ trong phẩm giá của chính cá nhân ấy mà được xác định dựa trên việc cá nhân ấy thuộc dòng họ nào, đẳng cấp nào, có địa vị gì trong bậc thang xã hội. Cũng trong xã hội phong kiến, con người cá nhân không được sống như bản thân mình mong muốn, họ không có tình yêu đích thực, không được tự do lựa chọn người yêu, bạn đời theo tình cảm cá nhân.

Hôn nhân được xây dựng trên tương quan giữa người cùng đẳng cấp, khi được sự nhất trí của cha mẹ. Văn chương ca ngợi luyến ái tự do là vô đạo. Người có văn hóa, có giáo dục phải là người biết thu nhỏ, hạ thấp cái “tôi” cá nhân của mình xuống. Trên cơ sở coi nhẹ sự biểu hiện cá tính con người đó, văn chương nghệ thuật tự hình thành cho mình hệ thống ước lệ nghệ thuật có tính chất phi ngã.

 Nghệ thuật nói chung và văn thơ nói riêng đều có những quy định sẵn theo công thức. Trong thi ca vịnh cảnh, nói đến thiên nhiên thì phải là tứ quý, xuân lan, thu cúc.. hoa điểu, tùng hạc, liên á, tiêu tương, sơn thủy. Nói đến người thì phải là ngư, tiều, canh, mục. Nói đến thời gian thì buổi chiều có chim bay về tổ, mục đồng thổi sáo dắt trâu về, người lữ thứ vội bước trên đường, chuông chùa giục giã.. Cảnh tršng khuya thì có thuyền gối bãi, thuyền chở trăng, đêm thì có tiếng dế nỉ non, giọt ba tiêu thánh thót.. Luật phối thanh bằng trắc của thơ phú cũng có quy định chặt chẽ khiến cho người làm thơ phải diễn tả thế giới bằng thính giác “phi ngã” của cộng

đồng tao nhân mặc khách…

Trong truyện, những nhân vật lí tưởng phải là giai nhân tài tử, trai anh hùng, gái thuyền quyên. Thiếu nữ thì phải “mặt hoa da phấn”, làn thu thủy nét xuân sơn, lưng ong, gót sen; anh hùng thì phải râu hùm hàm én; đấng trượng phu, bậc quân tử thì như cây tùng cây bách.. Cốt truyện trong các truyện trung đại thường theo công thức gặp gỡ – ly biệt – đoàn viên…

Để tuân thủ tính phi ngã, người viết văn, làm thơ phải có một kho điển cố, kho thi liệu, văn liệu chung, phải biết vận dụng những hình ảnh, ngôn từ ước lệ phi ngã. Nói chuyện tri âm, tri kỉ thì mốt xanh chẳng để đi vào, nói tình yêu lỡ dở thì có chuyện Thôi — Trương, nói đàn bà tài hoa thì có nàng Ban, ả Tạ, cha mẹ là “huyên đường”, nghĩa vợ chồng là “tao khang”, nhớ quê hương thì trông áng mây Tân…

Hệ thống ước lệ nghệ thuật có tính chất phi ngã đó đã chi phối hầu hết các sáng tác trong văn học trung đại. Những tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhất trong thời kì văn học này như thơ văn Nguyễn Trãi, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, thơ ca Nguyễn Khuyến, Tú Xương.. cũng đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính phi ngã trong thi pháp trung đại. Tuy nhiên, văn học chân chính thời nào cũng có và ở thời nào nó cũng là hoạt động sáng tạo, nghĩa là chống công thức và chống phi ngã. Cũng chính ở các sáng tác ấy, chúng ta lại bắt gặp một sức sáng tạo dồi dào của những người nghệ sĩ không chịu bó mình trong một khuôn khổ chật hẹp nào. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến Tú Xương.. đã không ngại ngần khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của mình. Một Thúy Kiều có vẻ đẹp lí tưởng làn thu thủy, nét xuân sơn, cầm kỳ thi họa đủ mùi ca ngâm cũng chính là nàng Kiều được Nguyễn Du trao cho một đời sống nội tâm phong phú lúc trao duyên, hay khi ở lầu Ngưng Bích hay trong những ngày tủi nhục triển miên ở chốn lầu xanh:

– Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,

Giật mình, mình lại thương mình xót xa. ‘

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Hay cũng chính trong Truyện Kiêu, bên cạnh hệ thống những nhân vật lí tưởng, Nguyễn Du cũng xây dựng một tuyến nhân vật đối lập và không ngại ngần bóc trần bản chất xấu xa của chúng bằng những ngôn từ tả thực sinh động:

 – Đắn đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

 [tả Mã Giám Sinh]

– Thoát trông lờn lợt màu da,

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao.

[tả Tú Bà]

– Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng.

[tả Sở Khanh]

Hoặc với Hồ Xuân Hương, khi miêu tả thiên nhiên, nữ sĩ thường ưa thích những khung cảnh đầy sức sống và sử dụng ngôn từ hết sức nôm na:

 Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Khen di khéo tạc cảnh cheo leo. 

Của con đỏ loét tùm hum nóc,

Hòn đá xanh rì lún phún rêu. 

[Đèo Ba Dội]

Rồi cũng có khi nữ sĩ tự xưng tên chính mình — một điều tối kỵ trong văn học trung đại: .

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

[Mời trầu]

Có thể ví những sáng tạo, những sự phá cách trên đây như luồng gió mới, một hơi thở ấm áp thổi vào văn học phong kiến vốn ngàn năm coi nhẹ biểu hiện cá tính con người..Và điều đó thực đáng trân trọng.

Như vậy, có thể thấy sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người là sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến. Đặc trưng thi pháp này đã chi phối suốt mười thế kỉ văn học trung đại. Hiển nhiên, nó đã đưa đến nhiều hệ quả đáng tiếc mà điển hình là nhân vật văn học [đối tượng chủ yếu của văn chương mọi thời đại] thời trung đại chưa được sống như một cá thể sinh động, chưa được quan tâm sâu sắc ở phương diện đời sống tâm lí tình cảm. Bởi vậy nên giá trị nhân bản của các sáng tác văn học trung đại ít nhiều bị hạn chế. Nhưng cũng thật đáng mừng, đáng trân trọng khi nhiều nhà thơ, nhà văn đã dám phá cách để vượt lên khỏi khuôn khổ chật hẹp mà tính phi ngã đưa đến. 

Cuối cùng, phải thấy rằng dẫu mang tính ràng buộc, khuôn khổ nhưng sự coi nhẹ cá tính con người trong thi pháp văn học trung đại cũng đã góp phần mang đến một diện mạo đặc trưng cho văn học thời kì này.

  Soạn bài online- Văn học Trung Đại VN

ĐẶC TRƯNG THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM – PHẦN 1

A. ĐẶC TRƯNG THI PHÁP: HỆ THỐNG ƯỚC LỆ THẨM MỸ CỔ ĐIỂN:

      1. Ước lệ trong văn học nói chung:  

    a. Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước lệ là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích qui ước và đúng với cách hiểu của cả cộng đồng. 

    b. Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, một dòng văn học nhất định.

      2. Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam: 

    a. Ước lệ, một đặc trưng thi pháp:

         – Văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của văn học. 

         – Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.

      b. Ước lệ bao gồm ba tính chất:

         – Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ.

         b.1: Tính uyên bác và cách điệu hóa cao đô: 

        – Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mênh danh là văn chương bác học [Văn học dân gian gọi là văn học bình dân]. Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.

        – Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:   

                                            Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết

                                                   Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?

        – Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.

                                          Trước sau nào thấy bóng người

                                   Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông    

                                                                             [Nguyễn Du]  

                                        Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

                                        Dân gìau đủ khắp đòi phương.  

        – Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa, “văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.

            Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi, trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:

                                          Hài văn lần bước dặm xanh 

                                    Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

                                        Chàng Vương quen mặt ra chào

                                       Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa

    Tạo vật TN đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,… 

                                          Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

                                          Dặm liễu sương sa khách bước dồn

                                                                         [Bà Huyện Thanh Quan] 

        – Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:

                                          Thoắt trông nhờn nhợt màu da 

                                         Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?

                                          
Con người Bùi Kiệm máu dê 

                                       Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu !

                 Người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của chúng, mới tả thực.

           – Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa.

        – Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,… 

        – Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu gía trị.

        – Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống với không gian mà không sống cùng thời gian. 

         Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân.  

        – Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.

            – Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà,… Chỉ có điều, do tính qui phạm NT; nên sự khác biệt trong tư tưởng và phong cách NTt của các cây bút ấy chỉ là những biến thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng VH bấy giờ mà thôi.


Xem tiếp Phần 2, Phần 3, Phần 4

Video liên quan

Chủ Đề