So sánh đặc điểm loại hình tiếng Việt và tiếng Nhật

So sánh ngữ âm tiếng Nhật với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [288.88 KB, 30 trang ]

So sánh ngữ âm tiếng Nhật với tiếng Việt - sự khác biệt cấu tạo của âm
tiết
  Tiểu luận Học phần LIN6013: Các vấn đề ngữ âm học và âm vị học

Học viên: Washizawa Takuya

I. Mở đầu
Như chúng ta đã biết hai ngôn ngữ tiếng Nhật và tiếng Việt vừa có điểm tương
đồng vừa có sự khác nhau về nhiều mặt. Những mặt đó bao gồm mặt ngữ âm, từ
vựng, cú pháp và ngữ dụng. Riêng ở lĩnh vực ngữ âm, hai ngôn ngữ này có đặc
điểm ngữ âm hoàn toàn khác nhau và người nói ngôn ngữ này cảm thấy phát âm
ngôn ngữ kia thật khó.
Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh và phân tích ngữ âm của hai ngôn ngữ này thì
cũng có thể tìm ra được một số đặc trưng chung. Thông qua những đặc điểm chung
đó, chúng ta biết được hai ngôn ngữ này khác nhau về điểm gì một cách chính xác
hơn.
Nói cụ thể, hai ngôn ngữ này có hệ thống phụ âm cuối âm tiết gần nhau và đều
có phụ âm cuối âm tiết thay đổi dựa vào bối cảnh.
Tiểu luận này xin giới thiệu về hệ thống ngữ âm và âm vị tiếng Nhật. Đồng thời
so sánh, đối chiếu với tiếng Việt và phân tích những điểm giống và khác nhau giữa
tiếng Nhật và tiếng Việt một cách sâu sắc. Tôi mong muốn rằng thông qua tiểu luận
này có cơ hội để suy nghĩ không những về sự khác biệt của ngữ âm tiếng Nhật và
tiếng Việt mà còn về sự khác biệt của hai ngôn ngữ nói chung và tiến tới tìm hiểu
sự khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam.


Trước hết, tôi giới thiệu đơn giản về ngữ âm và cấu trúc âm tiết của tiếng Nhật
và tiếng Việt ở phần 1. Sau đó ở phần 2, tôi so sánh những đặc điểm về hệ thống
ngữ âm và âm vị của hai ngôn ngữ đó và đặt vấn đề. Ở phần 3 tôi phân tích và so
sánh, đối chiếu một cách chính xác về các mặt ngữ âm giữa tiếng Nhật và tiếng
Việt. Cuối cùng, trong phần kết luận tôi xem xét, đánh giá những phân tích này để


hiểu sự khác biệt của hai ngôn ngữ.

II. Nội dung
1. Nhập môn: Giới thiệu về âm tiết của tiếng Nhật và tiếng Việt
Tiếng Nhật và tiếng Việt thường được coi là hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau,
[Washizawa: tại sao phần mở đầu, câu đầu lại nói là có cả điểm giống và điểm
khác????] cả về ngữ âm, từ vựng, cú pháp, và ngữ dụng. Ở tiểu luận này tôi thảo
luận về ngữ âm và âm vị, mà chỉ về mặt này cũng có thể tìm ra được nhiều điểm
khác nhau trong hai ngôn ngữ, khiến cho nhiều người nói thứ tiếng này gặp khó
khăn khi học tiếng kia.
Không ít người nói rằng điểm khác nhau giữa hai ngôn ngữ chủ yếu nằm ở cấu
trúc âm tiết. Người nói tiếng Nhật học tiếng Việt cảm thấy cấu trúc âm tiết của
tiếng Việt rất phức tạp và gặp khó khăn về việc khu biệt một số nguyên âm và phụ
âm cuối âm tiết. Trong khi đó, người nói tiếng Việt học tiếng Nhật gặp khó khăn về
việc khu biệt đặc điểm ngắn và dài của nguyên âm và có hay không có “xúc âm
[促音]” cuối âm tiết.
Trên thực tế, nếu chúng ta so sánh sơ đồ âm vị của hai ngôn ngữ, có thể tìm ra
được nhiều điểm gần nhau. Phụ âm đầu âm tiết của hai ngôn ngữ gần nhau, và cả
hai ngôn ngữ có phụ âm cuối âm tiết gần nhau, so với tiếng Anh mà hầu hết phụ


âm đầu cũng có thể trở thành phụ âm cuối âm tiết, hoặc tiếng Trung Quốc hiện đại
chỉ có 2 phụ âm /n/, /ŋ/ và /ɽ/ [hoặc /ʐ/] ở cuối âm tiết. Và cả tiếng Nhật và tiếng
Việt đều có cuối âm tiết biến đổi dựa vào bối cảnh: trong tiếng Nhật, “bát âm [ 撥
音]” [là /N/ → [n], [m], [ŋ], [ɴ]] và “xúc âm” [là /Q/ → [t], [p], [k]] biến đổi dựa
vào âm đầu của âm tiết tiếp theo; trong tiếng Việt, âm cuối âm tiết [ŋ], [ɲ], [ŋ͡m], và
[k], [c], [k͡p] biến đổi dựa vào nguyên âm trước.
Vì vậy, ngữ âm tiếng Nhật và tiếng Việt có nhiều điểm gần nhau. Tuy nhiên, do
lý do dưới đây, người ta cảm thấy ngữ âm tiếng Nhật và tiếng Việt hoàn toàn khác
nhau: đơn vị cơ bản của âm vị trong tiếng Nhật và tiếng Việt khác nhau. Trong khi

tiếng Việt coi âm tiết là đơn vị cơ bản và nếu chia tách thì làm âm đầu và vần,
trong tiếng Nhật thì đơn vị cơ bản là “mora”. Bát âm /N/, xúc âm /Q/ và nguyên
âm thứ hai của nguyên âm đôi và trường âm đều được coi là một mora, và nếu một
âm tiết bao gồm những yêu tố này thì được coi là có nhiều đơn vị.
Trong tiếng Nhật, đơn vị mora này rất quan trọng về tất cả mọi mặt phát âm, các
luật âm vị, từ pháp, và ngữ nghĩa, khiến người học gặp khó khăn. Nhưng nói một
cách khác, nếu chúng ta hiểu rõ sự khác biệt về đơn vị cơ bản này thì dễ hơn nhiều
để hai bên hiểu cách phát âm của ngôn ngữ bên kia.
2. Mô tả: So sánh và đối chiếu hệ thống ngữ âm của tiếng Nhật và tiếng Việt
2.1. Phụ âm đầu
2.1.1 Phụ âm đầu trong tiếng Việt
Danh sách âm vị của phụ âm đầu âm tiết của tiếng Việt là:
[/p/] /b/ /m/ /f/ /v/ /t/ /t‘/ /d/ /n/ /l/ /s/ /z/ [/r/]


[/ʈ/ /ʂ/ /ʐ/ ] /c/ /ɲ/ /k/ /ŋ/ /x/ /ɣ/ /h/ /Ɂ/ 1
Ở đây, 3 âm vị /ʈ/, /ʂ/, và /ʐ/ được tìm ra ở các phương ngôn miền Trung và miền
Nam và đối ứng với các chữ “tr-”, “s-” và “r-”, nhưng không được tìm ra trong hội
thoại hàng ngày ở nhiều phương ngôn miền Bắc. Ở miền Bắc, các âm vị này được
phát âm giống như /c/, /s/, và /z/, đối ứng các chữ “ch-”, “x-” và “d-/gi-”. Tuy
nhiên, có nhiều trường hợp mà người ta phát âm chữ “tr-” như [ʈ-], “s-” như [ʂ-],
“gi-” như [ʐ-] và “r-” như [r-] đặc biệt ở nhà trường để phân biệt các ngữ âm này
với các âm vị /c/, /s/, và /z/.2 Có âm vị /Ɂ/ trong tiếng Việt hay không là điểm có
tranh luận.3
Âm tố /p/ chỉ được tìm ra trong một số từ vay mượn từ tiếng nước ngoài, và ở
nhiều trường hợp không phân biệt với âm vị /b/ hay /f/. Âm vị /r/ cũng xuất hiện
trong một số từ vay mượn và những trường hợp đặc biệt nêu trên. 4
Tôi cũng đề cập đến bán nguyên âm trước âm chính của tiếng Việt. Bình thường
bán nguyên âm này được bao gồm trong “vần” tiếng Việt và được phân tích cùng
với nguyên âm. Nhưng khi so sánh với ngữ âm tiếng Nhật, phân tích bán nguyên

âm cùng với phụ âm thì tiện hơn.
Các từ “oanh”, “uyên”, “quý”, “khỏe”, “hoặc”, “luật” v.v. có bán nguyên âm /w/,
và âm đầu và bán nguyên âm của các từ này có thể viết như /Ɂw-/, /Ɂw-/, /kw-/,
/xw-/, /hw-/, /lw-/.
Nhiều phương ngôn miền Trung và miền Nam có bán nguyên âm [j] đối ứng các

Các âm vị xuất hiện mang ngữ âm như theo [“~” có nghĩa là có thể thay đổi tùy
theo từng phương ngôn hay sự khác biệt cá nhân]:
/b/ → [b] ~ [ɓ] ; /t‘/ → [tʰ] ; /d/ → [d] ~ [ɗ] ; /ʈ/ → [ʈ͡ʂ] ;
/ʐ/ → [ʐ] ~ [ɽ] ~ [r] ; /c/ → [c] ~ [t͡ɕ]
2
Đ. T. Thuật, tr. 159-160.
3
Đ. T. Thuật, tr. 155-156.
4
Đ. T. Thuật, tr. 157.
1


chữ “d-”, “gi-” hoặc “v-”.5
Tóm tắt lại, chúng ta có thể làm được sơ đồ âm vị như dưới :

Vô thanh,
Tắc

Môi

Răng

[Quặt


Ngạc

Ngạc

Họng

[p]

lợi
t

lưỡi]
[ʈ]

cứng
c

mềm
k

[Ɂ]

không bật hơi
Vô thanh,
Bật hơi
Hữu thanh

Mũi
Xát Vô thanh

Hữu thanh
Bên
Bán nguyên âm
[Rung]

t‘
b
m
f
v

d
n
s
z
l

ɲ
[ʂ]
[ʐ]

ŋ
x
ɣ

h

w
[r]


Ở đây, “[ ]” có nghĩa là âm vị đó không xuất hiện trong từ gốc thuần Việt và từ
Hán Việt hoặc trong hội thoại hàng ngày ở Hà Nội và nhiều tỉnh phía Bắc.

Và sơ đồ của tất cả ngữ âm bao gồm biến thể phương ngôn chủ yếu là như dưới:

Vô thanh,
không bật hơi
Tắc
5
H. T. Châu, tr. 147-9.

Môi

Răng

Quặt

[Lợi

Ngạc

Ngạc

Họng

lưỡi
ʈ

Ngạc]


p

lợi
t

cứng
c

mềm
k

[Ɂ]


Vô thanh,
Bật hơi
Hữu thanh
Mũi
Xát Vô thanh
Hữu thanh
Bên
Bán nguyên âm
Tắc – Xát
Rung
Hút vào

t‘
b
m
f

v

d
n
s
z
l

ɲ
ʂ
ʐ

w

h

j
ʈ͡ʂ

ɓ

ŋ
x
ɣ

t͡ɕ

r
ɗ


Với sơ đồ này, chúng ta có thể biết được không những ngữ âm mà một người
nói tiếng Việt phát âm mà còn ngữ âm quen biết mà người ta thường xuyên nghe
người sinh ra ở địa phương khác phát âm.

2. 1. 2 Phụ âm đầu trong tiếng Nhật
Danh sách âm vị của phụ âm đầu âm tiết trong tiếng Nhật là :
/p/ /b/ /m/ /w/ /t/ [/c/] /d/ /n/ /s/ /z/ /j/ /r/ /k/ /g/ /h/
Số lượng của chúng không nhiều, nhưng các phụ âm này xuất hiện với ngữ âm
đa dạng theo quy tắc.
a. Ngạc hóa
/s/ → [ɕ] [[ʃ]] / ___ /i/, /j/

[/sj/ → [ɕ] dưới cũng thế]

Ví dụ: /isi/ → [iɕi] [いし, 石,6 “đá”]
6

Bên tay trái là chữ viết thuần biểu âm trong tiếng Nhật, và bên tay phải bao gồm


/isja/ → [iɕa] [いしゃ, 医者, “bác sĩ”]
/t/ → [t͡ɕ] [[t͡ʃ]] / ___ /i/, /j/
Ví dụ: /kuti/ → [kut͡ɕi] [くち, 口, “miệng”]
/otja/ → [ot͡ɕa] [おちゃ, お茶, “trà”]
/h/ → [ç] / ___ /i/, /j/
Ví dụ: /hito/ → [çito] [ひと, 人, “người”]
/hjaku/ → [çaku] [ひゃく, 百, “trăm”]

b. Tắc-xát hóa [của âm tắc]
/t/ → [t͡s] / ___ /u/

Ví dụ: /natu/ → [nat͡su] [なつ, 夏, “mùa hè”]

c. Môi hóa
/h/ → [ɸ] / ____ /u/7
Ví dụ: /huku/ → [ɸuku] [ふく, 服, “quần áo”]

Âm vị /z/ [[+Hữu thanh], [+Lưỡi], [-Tắc], [-Môi]] có liên quan đến hiện
tượng ngạc hóa và tắc xát hóa, và xuất hiện với 4 ngữ âm [d͡z], [z], [d͡ʑ] [[d͡ʒ]], và
[ʑ] [[ʒ]]. Nếu /z/ đặt giữa nguyên âm thì phát âm với âm xát, và nếu là đầu âm của
từ hay là sau âm tiết đóng thì phát âm với âm tắc-xát.
/d/ → /z/ / ___ V {+cao}

[nghĩa là không có kết hợp âm /di/ và /du/]

chữ Hán, là cách viết thông thường.
7
Trong lịch sử, âm vị /h/ từng có ngữ âm [ɸ], và sau khi biến đổi thành ngữ âm [h]
cũng còn lại âm [ɸ] trước /u/ và /w/.


/z/ → [z] / V___ /a/, V___/u/, V___/e/, V___/o/
[ʑ] / V___/i/, V___/j/
[d͡z] / [w ___, C____ và ___/a/, ___/u/, ___/e/ , ____/o/
[d͡ʑ] / [w ___, C____ và ___/i/, ___/j/

Ví dụ: /hiza/ → [çiza] [ひざ, 膝, “đầu gối”]
/zaseki/ → [d͡zaseki] [ざせき, 座席, “chỗ ngồi”]
/azi/ → [aʑi] [あじ, 味, “mùi vị”]
/bizjo/ → [biʑo] [びじょ, 美女, “đẹp gái”]
/ziko/ → [d͡ʑiko] [じこ, 事故, “tai nạn”]

/zjama/ → [d͡ʑama] [じゃま, 邪魔, “phiền hà”]

Có một số nhà nghiên cứu đặt âm vị /c/ [{-Hữu thanh}, {+Tắc xát}, {+Lưỡi}]
cho ngữ âm [t͡ɕ] và [t͡s] để viết quy tắc như
/t/ → /c/ / _V {+cao}
Nhưng âm vị /c/ này là điểm đang tranh luận. Trong từ vựng thuần Nhật và từ Hán
Nhật thì không có kết hợp âm vị [ti], [tj] và [tɯ], nên không cần đặt âm vị /c/ và có
thể giải thích bằng quy tắc biến đổi. 8 Nhưng trong từ vựng mượn từ tiếng nước
ngoài thì có những kết hợp âm vị này, nên khi thảo luận chính xác thì chúng ta phải
sử dụng âm vị /c/ này.
Có nhiều người phát âm âm vị /g/ như [ŋ] nếu không phải là âm đầu từ và khu
8

Ví dụ nổi tiếng là Hattori [1960:288].


biệt với [g] ở đầu từ nên có một số nhà nghiên cứu đặt âm vị /ŋ/ độc lập với /g/.9
Ví dụ: /gogatu/ → [goŋat͡sɯ] [ごがつ, 五月, “tháng năm”]
Nhưng số người phát âm như thế càng ngày càng ít đi và trường hợp mà hai âm vị
này là đôi tối tiểu khu biệt cũng rất ít, nên nhiều nhà nghiên cứu phản đối ý kiến
này.
Âm vị /p/ xuất hiện ở bối cảnh rất hạn chế trong từ vựng thuần Nhật và từ Hán
Nhật, hầu hết là chỉ sau âm tiết đóng [sau âm /N/ hay /Q/, xem 2.3.2.]. Phần lớn
trường hợp mà âm vị này xuất hiện là trong từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài và
từ tượng thanh, chính giống như âm vị /p/ trong tiếng Việt.
Ví dụ: /jaQpari/ → [jappaɾi] [やっぱり, “như tôi đã nghĩ”]
/siNpai/ → [ɕimpai] [しんぱい, 心配, “lo lắng”]
/pazjama/ → [paʑama] [パジャマ, “áo pijama”]

Âm vị /r/ được phát âm như [ɾ] [âm vỗ] giữa từ và như [ɺ] [âm bên vỗ] ở đầu từ

hay sau /N/. Trong từ vựng thuần Nhật, hầu hết /r/ được tìm ra giữa từ, và /r/ ở đầu
từ được tìm ra trong từ vựng Hán Nhật và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.
Ví dụ: /tori/ → [toɾi] [とり, 鳥, “con chim”]
/rijuu/ → [ɺijuː] [りゆう, 理由, “lý do”]
/kaNri/ → [kanɺi] [かんり, 管理, “quản lý”]
/razio/ → [ɺaʑio] [ラジオ, “ra-đi-ô, máy phát thanh”]

9

Ví dụ nổi tiếng là Hattori [1960:338].


Bán nguyên âm /j/ có thể kết với tất cả phụ âm. Nhưng cụm phụ âm như thế rất
ít trong từ thuần Nhật và tìm được nhiều trong từ Hán Nhật và trong từ mượn từ
tiếng nước ngoài để biểu đạt các âm [ʃ], [ʒ], [tʃ], [dʒ], [ç], [ɲ] v.v. Hầu hết bán
nguyên âm /j/ bình thường được đặt trước các nguyên âm /a/, /u/, và /o/. Chúng ta
tìm ra cách kết hợp /je/ chủ yếu trong từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài. Cách kết
hợp /ji/ không tồn tại.
Ví dụ: /kjaku/ → [kʲaku] [きゃく, 客, “khách”]
/gjuunjuu/ → [gʲuːnʲuː] [hay [gʲuːɲuː]][ぎゅうにゅう,牛乳, sữa]
/bjoosja/ → [bʲoːɕa] [びょうしゃ, 描医, “miêu tả”]
/sjuuto/ → [ɕɯːto] [シュ医ト, “sút bóng”]
< “shoot [ʃuːt]” tiếng Anh
/beezju/ → [beːʑɯ] [ベ医ジュ, “màu be”]
< “beige [bɛːʒ]” tiếng Pháp
/tjooku/ → [t͡ɕoːku] [チョ医ク, “phấn viết”]
< “chalk [tʃɔːk]” tiếng Anh
/zjuusu/ → [d͡ʑɯːsɯ] [ジュ医ス, “nước hoa quả]
< “juice [dʒuːs]” tiếng Anh
/konjaQku/ → [konʲakku] [コニャック, “cognac”]

Chủ Đề