Quốc hiệu đầu tiên của nước ta là gì năm 2024

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đất nước ta từng có nhiều tên gọi. Và bắt đầu từ triều Nguyễn [1804], nước ta mang quốc hiệu Việt Nam. Như thế có phải hai chữ Việt Nam là do nhà Nguyễn đặt ra không? Rất kỳ lạ và lý thú là không phải!

Ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập,

khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tháng 2, năm Giáp Tý [1804], vua Gia Long chính thức đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Sự kiện đổi quốc hiệu được diễn ra rất nghiêm trang. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục đệ nhất kỷ, quyển 23, mặt khắc 12, 13 có khắc: “Ngày Đinh Sửu, vua đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong, vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Lại hạ chiếu báo các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, khiến cho đều biết”.

Ý định ban đầu của vua Gia Long cho đổi tên nước là Nam Việt.

Sự kiện vua Gia Long công bố cho đổi quốc hiệu Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng lúc bấy giờ. Đó là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta”, trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước khác.

Mộc bản triều Nguyễn khắc về việc vua Gia Long cho đổi quốc hiệu Việt Nam vào năm 1804.

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách là quốc hiệu và được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, theo các cứ liệu lịch sử thì hai từ Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có bộ sách với nhan đề “Việt Nam thế chí” do Học sĩ viện Hàn lâm Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết đầu thế kỷ 15 cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam. Điều này còn được đề cập rõ trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 - 17 như bia chùa Bảo Lâm [1558] ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ [1590] ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh [1664] ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình [1670] ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” [đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc].

Dưới vương triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam tồn tại trong suốt 34 năm [1804 - 1838]. Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng ít hơn kể từ khi vua Minh Mạng lên nối ngôi và cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước trong các tác phẩm và các tổ chức chính trị, như: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử [1905], Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên [1925] và Hội Việt Nam độc lập đồng minh [1941]… Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.

11. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ [1945-1975].

12. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tên nước ta từ năm 1976 đến nay.

1. Xích Quỷ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương:

Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân [tên húy là Sùng Lãm]. Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra các vua Hùng.

2. Văn Lang - Tên nước ta thời các Vua Hùng:

Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu.

Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa.

Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671 năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.

3. Âu Lạc - Tên nước ta thời vua An Dương Vương:

Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương [An Dương Vương], liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc [tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt]. Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN.

4. Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô:

Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân [Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân], khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đại Trung Quốc [từ năm 602]. Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.

5. Đại Cồ Việt - Tên nước ta thời nhà Đinh:

Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt [Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn]. Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.

Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm [968-1054] trải qua suốt đời Ðinh [968-979], Tiền Lê [980-1009] và đầu thời Lý [1010-1053].

6. Đại Việt - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần:

Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý [Lý Thái Tông] liền cho đổi tên nước thành Đại Việt [nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định], và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.

7. Đại Ngu - Tên nước ta thời nhà Hồ:

Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu [“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”]. Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ [tháng 4/1407].

8. Đại Việt - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn:

Sau 10 năm kháng chiến [1418-1427], cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt [lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế]. Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê [1428-1787] và thời Tây Sơn [1788-1802].

Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆT của nước ta tồn tại 748 năm [1054-1804].

9. Việt Nam - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884:

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 [1804], tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.

Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam.

10. Thời kỳ pháp thuộc, Pháp đô độ 3 nước Việt Nam, Campuchia và Lào, gọi chung là INDOCHINE [Liên bang Đông Dương] xóa bỏ tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Thời kỳ đó để phân biệt với người Campuchia và Lào thì người Việt Nam gọi là nước mình là AN NAM hoặc Việt Nam.

Sau 1945, nước Việt Nam được tái lập và chính thức trở thành VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA. và trở thành CHXHCN VIỆT NAM từ 1976 tới nay !

Ai là người đầu tiên đặt tên nước là Việt Nam?

Năm 1428, Lê lợi lên ngôi, đặt lại tên nước là Đại Việt [lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế]. Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê [1428-1787] và thời Tây Sơn [1788-1801]. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam.

Quốc hiệu của nước ta là gì?

Quốc hiệu của quốc gia Việt Nam là “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14.

Năm 938 Việt Nam gọi là gì?

Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.

Nước Việt Nam thời Ngô Quyền tên là gì?

Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô.

Chủ Đề