Phát triển bền vững và bảo vệ môi trường có quan hệ như thế nào

Đâu là khái niệm đúng của Sinh học

Môn sinh học giúp chúng ta những gì

Hình ảnh dưới đây, thể hiện ngành khoa học nào

Các nhà nghiên cứu sinh học nghiên cứu về

Nhận định nào sai về các lĩnh vực nghiên cứu của sinh học

Các lĩnh vực nghiên cứu sinh học chia thành bao nhiêu loại chính

Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng không thể kết hợp được với nhau.

Đâu các lĩnh vực của ngành sinh học

Di truyền học là lĩnh vực nghiên cứu về:

Hình ảnh dưới đây, thể hiện lĩnh vực nào của sinh học

Những hiểu biết về bộ não đã mang lại lợi ích gì cho con người?

Con người có thể giải quyết những vấn đề môi trường không?

Có bao nhiêu nhận định nói về vai trò của môn sinh học?  

1, Môn Sinh học giúp chúng ta hiểu rõ được sự hình thành và phát triển của thế giới sống, các quy luật của tự nhiên đế từ đó giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ

2, Có thái độ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên; ứng xử với thiên nhiên phù hợp với sự phát triển bền vững.

3, Hiểu biết hơn về cấu tạo các vật chất và năng lượng xung quanh

4, Hình thành và phát triển năng lực sinh học, gồm các thành phần năng lực như: nhận thức sinh học

5, Tìm hiểu thế giới sống; vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào thực tiễn.

6, Rèn luyện thế giới quan khoa học, tinh thần trách nhiệm, trung thực và nhiều năng lực cần thiết.

Đâu là thành tựu ứng dụng sinh học trong y học

Sinh học ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến :

Nhận định nào không đúng khi nói về vai trò của sinh học

Hình ảnh dưới đây biểu diễn vai trò nào của sinh học

Ở thế kỉ XXI, có nhiều ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp [tạo ra các chế phẩm nông nghiệp; các cây trồng, vật nuôi chống chịu bệnh,..], trong y học [vaccine, kháng thể, hormone,...], trong bảo vệ môi trường [tạo ra các loại nhựa phân hủy sinh học, nhiên liệu sinh học,...]...Người ta gọi thế kỉ XXI là thế kỉ của ngành

Trong tương lai, hướng nghiên cứu của sinh học sẽ như thế nào

Đâu là các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam

Phát triển bền vững và việc bảo vệ môi trường có mối quan hệ như thế nào?

Phát triển bền vững là sự kết hợp giữa các hệ:

Một thí nghiệm như thế nào được cho là vi phạm đạo đức sinh học?

Ví dụ thể hiện mối quan hệ giữa sinh học với những vấn đề xã hội là:

Thế nào là phát triển bền vững?

Phát triển bền vững ảnh hưởng đến

Đâu là ví dụ về vai trò của sinh học trong phát triển kinh tế

Nêu vai trò của sinh học trong phát triển bền vững kinh tế và xã hội.

Đâu là vai trò của sinh học trong bảo vệ môi trường

Kính hiển vi thường được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu nào

Loại dụng cụ dưới đây được dùng để?

Loại dụng cụ nào sau đây cso độ phóng đại lên đến 50 triệu lần.

Dụng cụ dưới đây được sử dụng để:

1356 Lượt xem - 27-01-2021 09:03

Sự tồn tại của con người có mối quan hệ mật thiết với môi trường sinh thái. Từ xa xưa, nhân loại chủ yếu dựa vào các giá trị môi trường để duy trì sự sống. Phạm trù môi trường khá rộng bao gồm môi trường kinh tế, môi trường chính trị- xã hội. Trong đó môi trường sinh thái là phạm trù rộng lớn được xem xét và nghiên cứu trên nhiều đối tượng khác nhau.

Chính vì thế, bảo vệ và xử lý môi trường ô nhiễm, giữ cân bằng sinh thái là điều kiện bắt buộc mà mỗi quốc gia phải làm để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế bền vững!

Môi trường quyết định đến sự ổn định của xã hội

Tất cả sự sống trên Trái Đất đều góp phần kiến tạo nên môi trường sống lý tưởng. Vai trò của môi trường không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên vô tận như khoáng sản, rừng, nước, thảm thực vật - động vật,… thì cũng là nơi chứa đựng chất thải của con người.

Thế nhưng, môi trường sinh thái dần bị bao trùm bởi mảng màu đen tối, nhuộm thẫm màu tiêu điều, xơ xác bởi ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm không ngừng lan rộng, chúng gặm nhấm và phá hủy hệ sinh thái, đa dạng sinh học và thu hẹp diện tích sống của con người. Nguy hiểm hơn cả thế chiến thứ 2, ô nhiễm diễn ra rầm rộ trên toàn thế giới, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người, tác động đến quá trình phát triển kinh tế.

Để ổn định phát triển, hàng loạt hội nghị, hội thảo của các quốc gia trên thế giới, với  những đề xuất, luật lệ, hiệp ước trong khu vực và quốc tế. Nhiều tổ chức phi chính phủ, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đề bạt các nghiên cứu về môi trường, thí nghiệm nhờ sự hỗ trợ đắc lực của nền khoa học – công nghệ hiện đại.

Xem thêm bài viết: Xử lý nước thải ô nhiễm!

Môi trường là của toàn nhân loại, không thuộc sở hữu của bất kỳ ai vì thế mà BVMT thực sự trở thành vấn đề toàn cầu. Dần nâng cao nhận thức, con người cũng chủ động hơn trong việc thực hiện chương trình và áp dụng giải pháp hạn chế tác hại của ô nhiễm.

Luật BVMT ở nước ta cũng đã thay đổi 3 lần theo các năm 1993, 2005, 2014 và một Luật BVMT sửa đổi sắp được thi hành để phù hợp hơn với nhu cầu CNH – HĐH. Với nhu cầu ứng dụng công nghệ mới giúp thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm, tăng cường xử lý tái chế chất thải, bảo tồn đa dạng sinh học hoặc tránh khai thác tài nguyên quá mức.

Nhà nước và người dân cũng dần hoàn thiện dự án BVMT, xây dựng chương trình nâng cao nhận thức, ý thức và thay đổi hành vi BVMT. Không thiếu những ý kiến bức xúc về tình trạng ô nhiễm tràn lan ở khu vực đô thị và nông thôn. Bên cạnh đó cũng không thiếu những lời phê phán đối với cá nhân, tổ chức thiếu trách nhiệm trong quá trình quy hoạch và chưa có kế hoạch phòng ngừa ô nhiễm.

Trách nhiệm của xã hội đối với BVMT

Thời kỳ đổi mới, nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh luôn đi kèm với việc khôi phục hiện trạng môi trường. Các mục tiêu phát triển bền vững cũng được xây dựng từ đây với công cuộc xây dựng lối sống kinh tế - xã hội ở miền Bắc, miền Trung và khôi phục, xây dựng công trình thủy lợi ở ĐBSCL.

Cho đến công cuộc CNH – HĐH tác động rõ nét với chiến lược phát triển bền vững bao gồm hoạt động thiết thực như xóa đói giảm nghèo, trồng rừng, trùng tu, kiến tạo nhiều danh lam thắng cảnh và phát triển vùng du lịch sinh thái.

Chiến lược phát triển bền vững dần trở thành mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Điều thể hiện sự khác biệt giữa tốc độ đô thị hóa với nền công nghiệp lạc hậu. Một bên nổi bật với xu hướng phát triển khẩn trương xây dựng KCN – CCN với trang thiết bị hiện đại, còn một bên vẫn tồn tại nền kinh tế lạc hậu, gây thiệt hại đáng kể đến nhiều giá trị môi trường.

Đối với doanh nghiệp cần tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Vấn đề then chốt ở đây là thay vì phát triển sản phẩm nhanh và rẻ thì cần chú trọng đến quy trình sản xuất và tính bền vững của sản phẩm.

Xem thêm dịch vụ xử lý khí thải của Hợp Nhất!

Kỳ 1: Xu hướng phát triển bền vững

1. Khái niệm, nội dung và nguyên tắc phát triển bền vững

Thuật ngữ Phát triển bền vững [PTBV – Sustainable Development] lần đầu tiên được sử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” [World Conservation Strategy] do IUCN đề xuất [1980]. Mục tiêu tổng thể của chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” [Our Common Future], Uỷ ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển [WCED] lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là “sự phát triển đáp ứng đuợc nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của chính họ”. Định nghĩa của WCED về PTBV được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.

 Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio - 92 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg - 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và BVMT”.

Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hoà về cả ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ mai sau.

Phát triển bền vững không chỉ là vấn đề BVMT: Phát triển bền vững có nghĩa là cả ba khía cạnh chủ yếu liên quan tới đời sống của nhân loại là kinh tế, xã hội và môi trường phải được tổng hòa, kết hợp, lồng ghép khi có thể và được cân đối một cách có hiệu quả qua các chính sách, cơ chế, công cụ và qua quá trình thực hiện chính sách.

Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà: Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: Kinh tế - Xã hội - Môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong tương lai.

Hay nói một cách khác: Muốn phát triển bền vững thì phải đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: [1] Phát triển có hiệu quả về kinh tế; [2] Phát triển hài hòa các mặt xã hội, nâng cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư và [3] Cải thiện môi trường, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau.

BVMT là cơ sở có tính quyết định cho mô hình phát triển bền vững, một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết. Con người luôn cần có môi trường sống tức là không gian sống, bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có tác động trực tiếp đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Môi trường cho ta không khí để thở, đất để xây dựng, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên, khoáng sản cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng. Với các chức năng của mình, môi trường có vai trò nền tảng quyết định đối với cuộc sống của con người và sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mọi quốc gia trên trái đất. Sự suy thoái tài nguyên, ô nhiễm và thảm họa môi trường ngày nay tác động tiêu cực trực tiếp đến sản xuất và đời sống của hàng triệu người, hạn chế, thậm chí gây tổn thất lớn về kinh tế, đồng thời kéo theo nhiều thiên tai, dịch bệnh, sự bất ổn định xã hội... Chính vì vậy, cân bằng giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế với yêu cầu BVMT là cơ sở đầu tiên để bảo đảm phát triển bền vững. Đó là yêu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, cũng là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở nước ta.

Nguyên tắc phát triển bền vững

Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janerio, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống nhất về quan điểm PTBV; coi đó là trách nhiệm chung của các quốc gia, của toàn nhân loại; đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio gồm 27 nguyên tắc cơ bản về PTBV và CTNS 21 về xác định các hành động cho sự PTBV của toàn thế giới trong thế kỷ thứ 21.

Mục tiêu của phát triển bền vững

Phát triển bền vững không chỉ là một chiến lược, một lối sống, một quan niệm đạo đức mà là một quá trình hoà nhập sự phát triển mọi mặt của con người, xã hội loài người với thiên nhiên. Tại Hội nghị Thượng đỉnh năm 2000, các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ/PTBV cũng đã đạt đuợc sự nhất trí với 8 mục tiêu sẽ đuợc thực hiện vào trước năm 2015 là: i] Xoá tình trạng nghèo đói cùng cực; ii] Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; iii] Khuyến khích bình đẳng giới và nâng cao địa vị của phụ nữ; iv] Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; v] Nâng cao sức khoẻ sinh sản; vi] Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; viii] Bảo đảm bền vững về môi truờng; và ix] Phát triển quan hệ đối tác toàn cầu phục vụ hoạt động phát triển.

2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam [Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam]

Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 [CTNS 21]. Năm 1992, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Tráiđất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro [Braxin] đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi trường và phát triển, CTNS 21 toàn cầu, cam kết xây dựng Chiến lược PTBV quốc gia và CTNS 21 địa phương. Năm 2004, Việt Nam đã phê chuẩn Chiến lược quốc gia về BVMT đến 2010 và định hướng đến 2020. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế nhằm BVMT và phát triển xã hội, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.

Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/TTg về “Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam [Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam]”. Nội dung của Quyết định này bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên, những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV ở Việt Nam.

Hội đồng PTBV quốc gia cũng đã được thành lập theo Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và sau đó chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng đã được điều chỉnh theo Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009.

  1. a] Những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong PTBV của Việt Nam

CTNS 21 của Việt Nam là khung chiến lược để xây dựng các chương trình hành động. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển của Việt Nam dưới góc độ bền vững, CTNS đã đưa ra những nguyên tắc PTBV, mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, các lĩnh vực hoạt động ưu tiên, phương tiện và giải pháp nhằm đạt được sự PTBV trong thế kỷ 21.

Quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 được Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT”; “Phát triển Kinh tế - Xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.

Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI [năm 2011] thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2011- 2020, trong đó xác định quan điểm “phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược”, “phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững”. Phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phải phát triển bền vững về kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội .

Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT.

Mục tiêu cụ thể BVMT trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 được ghi rõ là cải thiện chất lượng môi trường:

- Đến 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%;

- Hầu hết dân cư được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh;

- Các cơ sở kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải, 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh cũ đạt tiêu chuẩn về môi trường;

- Các đô thị loại 4 trở lên, các khu chế xuất, khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải  tập trung;

- 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn;

- Cải thiện và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm nặng;

- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, nước biển dâng.

  1. b] Tám nguyên tắc chính cho phát triển bền vững của Việt Nam

- Con người là trung tâm của phát triển bền vững;

- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới;

- Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển;

- Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại đối với cuộc sống của thế hệ tương lai;

- Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, thúc đẩy phát triển  nhanh mạnh và bền vững đất nước;

- Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ ngành và  địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và  mọi người dân;

- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước;

- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT với bảo đảm quốc  phòng, trật tự và an ninh xã hội.

5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển kinh tế bao gồm:

- Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu  quả, hàm lượng khoa học - công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải  thiện môi trường;

- Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hòa và gần gũi với thiên nhiên;

- Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”;

- Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất theo yêu cầu của thị trường, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm đồng thời vẫn bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên như: đất, nước, không khí, rừng và đa dạng sinh học;

- PTBV vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương PTBV.

5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển xã hội bao gồm:

- Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm, tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, chính trị, phát triển kinh tế và BVMT;

- Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, và BVMT;

- Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm PTBV các đô thị, phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và BVMT bền vững ở các địa phương;

- Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước;

- Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.

9 lĩnh vực ưu tiên trong sử dụng tài nguyên & BVMT bao gồm:

- Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất;

- BVMT nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước;

- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; BVMT biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển;

- Bảo vệ và phát triển rừng;

- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp;

- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại;

- Bảo tồn đa dạng sinh học;

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai.

 Anh Quân/Tri thức Xanh số 79-21

Video liên quan

Chủ Đề