Phân tích những nguyên nhân chung dẫn đến sự phát triển của kinh tế Mĩ Tây Âu Nhật Bản 1950 1970

Skip to content

  • Bước sang những năm 60 của thế kỉ XX, khi Mĩ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Nhật Bản có cơ hội mới để đạt được sự tăng trưởng “thần kì”, vượt qua Tây Âu, vươn lên đứng hàng thứ hai trong thế giới tư bản.
  • Về tổng sản phẩm quốc dân, năm 1950 Nhật Bản chỉ mới đạt 20 tỉ USD, nhưng đến năm 1968 đã đạt tới 183 tỉ USD…
  • Năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người đạt 23796 USD, vượt qua Mĩ và đứng thứ hai trên thế giới.
  • Về công nghiệp, trong những năm 1950-1960, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15%, những năm 1961-1970 là 13,5%…
  • Về nông nghiệp, trong những năm 1967-1969, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại, đã cung cấp được hơn 80% nhu cầu lương thực trong nước…..
  • Kết quả là từ những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính của thế giới
  • Khách quan: sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
  • Những thành tựu tiến bộ của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại…
  • Chủ quan:
    • Truyền thống văn hóa, giáo dục lâu đời của người Nhật- Sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
    • Hệ thống tổ chức quản lí có hiệu quả của các xí nghiệp, công ti Nhật Bản.
    • Vai trò quan trọng của nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng.
    • Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo, có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỉ luật và coi trọng tiết kiệm.

[Tổng: 6 Trung bình: 3.3]

Soạn bài online – Ôn thi lịch sử thế giới

Câu 63. Phân tích những yếu tố thúc đẩy Mĩ, Nhật Bản và Tây Âu trở thành ba trung tâm kinh tế – tài chính hàng đầu thế giới nửa sau thế kỉ XX. Từ đấy, anh/chị hãy cho biết nhận thức của mình về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại. 

Hướng dẫn làm bài 

1. Những yếu tố thúc đẩy Mĩ, Nhật Bản và Tây Âu trở thành ba trung tâm kinh tế – tài chính hàng đầu thế giới nửa sau thế kỉ XX. 

a. Mĩ : Trong khoảng 20 năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ vươn lên trở thành trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới. Sở dĩ kinh tế Mĩ có được sự phát triển và sức mạnh to lớn như vậy là do một số yếu tố sau : 

– Lãnh thổ nước Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu khá thuận lơi, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ kĩ thuật cao. 

– Mĩ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai muộn hơn, tổn thất ít hơn so với các nước khác. Hơn nữa, Mĩ còn lợi dụng chiến tranh, thu nhiều lợi nhuận từ việc buôn bán vũ khí. 

– Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại của thế giới. Việc áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng này đã cho phép Mĩ nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất. 

– Trong chiến tranh, đất nước có điều kiện hoà bình, không bị chiến tranh tàn phá, đồng thời Mĩ đã có nhiều biện pháp để thu hút những nhà khoa học – kĩ thuật lỗi lạc trên thế giới làm xảy ra hiện tượng “chảy chất xám” ở các nước nghèo Á, Phi, Mĩ Latinh. Vì vậy, nhiều nhà khoa học và phát minh khoa học được tiến hành nghiên cứu và ứng dụng tại Mĩ. 

– Trình độ tập trung tư bản và sản xuất cao. Các tổ hợp công nghiệp – quân sự, các công ty và tập đoàn tư bản lũng đoạn Mĩ (như Giênêran, Môtơ, Pho, Rốccơphelơ…) có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và hiệu quả ở cả trong và ngoài nước. 

– Các chính sách và biện pháp điều tiết của Nhà nước có vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển. 

b. Nhật Bản : Về tự nhiên Nhật Bản không được ưu đãi như Mĩ, hơn nữa sau Thế chiến thứ hai lại là nước bại trận, kinh tế kiệt quệ nhưng đã vươn lên đứng vững và ngày càng phát triển vì: 

– Người dân Nhật Bản với truyền thống văn hóa giáo dục, đạo đức lao động tốt, tiết kiệm, tay nghề cao và có nhiều khả năng sảng tạo là nhân tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế. Con người được coi là vốn quý nhật, đồng thời là “công nghệ cao nhất”. 

– Nhà nước quản lý kinh tế một cách hiệu quả, có vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô. 

– Các công ty Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt. Chế độ làm việc suốt đời, chế độ lương theo thâm niên và chủ nghĩa nghiệp đoàn xí nghiệp là “ba kho báu thiêng liêng” làm cho các công ty Nhật có sức mạnh và tính cạnh tranh cao. 

– Nhật luôn luôn áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. 

– Chi phí quốc phòng của Nhật Bản ít (Hiến háp quy định không vượt quá 1% GDP), nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư kinh tế. 

– Nhật Bản biết tận dụng các yếu tố bên ngoài như tranh thủ các nguồn viện trở của Mĩ sau chiến tranh, dựa vào Mĩ về mặt quân sự (nằm trong “ô bảo vệ hạt nhân” của Mĩ), lợi dụng các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950 – 1953) và Việt Nam (1954 – 1975) để làm giàu. 

c. Tây Âu : Từ năm 1950 – 1970, kinh tế Tây Âu phát triển nhanh chóng. Đến đầu thập niên 70, trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới với trình độ khoa học – kĩ thuật cao. Sở dĩ các nước Tây Âu phát triển kinh tế nhanh như vậy là dO một số yếu tố sau : 

– Các nước Tây Âu đã phát triển và áp dụng thành công những thành tựu khoa học – kĩ thuật để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. 

– Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước có hiệu quả. 

– Sự nỗ lực của nhân dân lao động trong từng nước. 

– Các nước tư bản ở Tây Âu đã biết tận dụng tốt các cơ hội bên ngoài như: viện trợ Mĩ; nguồn nguyên liệu rẻ của các nước thế giới thứ ba, hợp tác có hiệu quả trong khuôn khổ EC…

2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại : Qua việc tìm hiểu những yếu tố dẫn đến sự phát triển kinh tế Mĩ, Nhật và Tây Âu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có thể nhận thức một số nét cơ bản về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại :

* Mặt tiến bộ : Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đạt nhiều thành tựu to lớn dẫn đến bước nhảy vọt về năng suất lao động và trình độ sản xuất xã hội , làm cho đời sống vật chất, tinh thần của con người không ngừng được nâng cao…Văn hóa, giáo dục, văn học nghệ thuật có sự phát triển đáng kể…

* Mặt hạn chế : Luôn tồn tại những mâu thuẫn xã hội và những tệ nạn xã hội mà chủ nghĩa tư bản không thể nào khắc phục được…

* Nhận xét : Chủ nghĩa tư bản hiện đại – bên cạnh sự phồn vinh, phát triển về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật vẫn tồn tại những hạn chế không sao khắc phục được… CNTB hiện đại thay đổi về hình thái nhưng không thay đổi về bản chất bóc lột, do đó vẫn chưa phải là một hình thái xã hội lý tưởng và mẫu mực cho nhân loại…

Trình bày và phân tích nguyên nhân của sự phát triển kinh tế của Mĩ và Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ đấy, anh/chị hãy phát biểu nhận thức của mình về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

(Đề thi HSG Quốc gia, bảng A, năm 1997)

Tóm tắt mục II. Nhật Bản khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh

Mục 1

1. Biểu hiện của sự phát triển kinh tế

- Về tổng sản phẩm quốc dân: năm 1968 đạt 183 tỉ USD, vươn lên đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ). Năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người đạt 23796 USD, đứng thứ hai trên thế giới (sau Thụy Sĩ).

- Về công nghiệp:

+ Trong những năm 1950 - 1960, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%;

+ Những năm 1961 - 1970 là 13,5%.

- Về nông nghiệp: cung cấp được hơn 80% nhu cầu lương thực trong nước, 2/3 nhu cầu thịt, sữa và nghề đánh cá rất phát triển, đứng thứ hai trên thế giới (sau Pê-ru).

=> Từ những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới.

Cầu Sê-tô Ô-ha-si nối liền hai đảo Hôn-xiu và Xi-cô-cư

Mục 2

2. Nguyên nhân của sự phát triển

- Truyền thống văn hoá, giáo dục lâu đời của người Nhật - sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc;

- Hệ thống tổ chức quản lí có hiệu quả của các xí nghiệp, công ti Nhật Bản;

- Vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng;

- Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo, có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỉ luật và coi trọng tiết kiệm.

- Nhật Bản biết tận dụng tốt những yếu tố bên ngoài: viện trợ của Mĩ, các cuộc chiến tranh Việt Nam (1945-1975), chiến tranh Triều Tiên (1950-1953),...

Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài chưa từng thấy.

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút liên tục: những năm 1991 - 1995 là 1,4%, năm 1996 nhích lên 2%, nhưng đến năm 1997 lại xuống âm 0,7%, năm 1998 - âm 1,0%, năm 1999 - âm 1,19%.

- Nhiều công ti bị phá sản, ngân sách thâm hụt. 

- Những biện pháp khắc phục của chính phủ đã không thu được kết quả như mong muốn.