Phân tích 6 câu thơ đầu bài thương vợ

Đề bài: Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ

Phân tích 6 câu thơ đầu bài thương vợ

Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ

Bạn đang xem: Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ

I. Dàn ý Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ (Chuẩn)

1. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả Tế Xương và bài thơ Thương vợ:+ Tú Xương, một trong những nhà thơ trung đại có phong cách nghệ thuật độc đáo.+ Bài thơ Thương vợ là một tác phẩm tiêu biểu cho mảng thơ này của ông.

+ 4 câu thơ đầu thể hiện sự trân trọng, đồng cảm của Tú Xương với sự tần tảo, cơ cực của người vợ.

2. Thân bài:

a. Hai câu đề:

– Công việc vất vả, ẩn chứa nhiều hiểm nguy:– Trạng ngữ “quanh năm”: nỗi vất vả triền miên, mưu sinh quanh năm suốt tháng => Chăm chỉ, tảo tần của bà Tú.

– Danh từ “mom sông”: địa điểm làm việc chênh vênh, không vững vàng, đầy bất trắc trong công việc của bà Tú.

– Gánh nặng gia đình “Nuôi đủ năm con với một chồng”:+ Sự đảm đang, tháo vát của bà Tú.+ Gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai+ Nỗi chua xót của ông Tú về sự vô dụng của mình.

+ Nhà thơ tự chế giễu mình, đặt mình ngang hàng với “năm đứa con thơ”, sống no đủ trên sự hi sinh, vất vả của bà Tú.

b. Hai câu thực:– “Lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”: nghệ thuật đảo ngữ, ẩn dụ tô đậm nỗi nhọc nhằn, bươn chải của người vợ.

=> Một người phụ nữ kiên cường, đảm đang, giàu đức hi sinh, sẵn sàng đánh đổi cả bản thân mình vì hạnh phúc, ấm êm của gia đình.

3. Kết bài:

Cảm nhận chung: Qua 4 câu thơ đầu nhà thơ đã thể hiện cảm xúc chân thành, tình cảm yêu thương và trân quý của ông dành cho người vợ tào khang của mình.

II. Bài văn mẫu Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ (Chuẩn)

Tú Xương là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học Trung đại Việt Nam giai đoạn cuối TK XIX, đầu thế kỉ XX. Bên cạnh mảng thơ trào phúng, Tú Xương còn có “gặt hái” được những thành tựu đáng kể ở mảng thơ trữ tình, một trong những bài thơ tiêu biểu nhất có thể kể đến “Thương vợ”. Bằng tình yêu thương và tấm lòng trân trọng vợ, tác giả đã viết nên những vần thơ chứa chán sự yêu thương, cảm thông dành cho người vợ của mình. Bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được nỗi đồng cảm, sự biết ơn sâu sắc của nhà thơ với sự tần tảo, vất vả của vợ.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu đầu đoạn thơ gợi mở về công việc mưu sinh hàng ngày của bà Tú. Trạng ngữ “quanh năm” đặt đầu gợi ra nỗi vất vả triền miên, mưu sinh quanh năm suốt tháng của bài Tú. Câu thơ cho thấy được sự tảo tần, chăm chỉ mưu sinh của người đàn bà làm nghề bán buôn. Danh từ “mom sông” được sử dụng thật khéo khi vừa chỉ địa điểm làm việc, vừa, gợi sự chênh vênh, không vững vàng, đầy bất trắc trong công việc của bà Tú. Ở cái mỏm đất bên sông, hình ảnh bà Tú lam lũ càng nhỏ bé và cô đơn hơn bao giờ hết. Hình ảnh bà Tú bươn trải với cuộc sống vất vả, xô bồ, ngược xuôi với công việc buôn thúng bán bưng nặng nhọc để mưu sinh, nuôi sống gia đình thật đẹp cũng thật đáng trân trọng.

Cuộc sống dẫu có nhiều vất vả, lo toan nhưng vì chồng con, vì gia đình, bà Tú vẫn mạnh mẽ đối mặt mà không một lời oán thán:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Lẽ thường, người đàn ông là trụ cột gia đình, chăm lo cho vợ con nhưng ở đây, bà Tú lại là người nặng gánh. Câu thơ sử dụng số từ “năm”, “một” kết hợp với các danh từ “con”, chồng”, tưởng chỉ là những con số khô khan mà đọc lên nghe nhói lòng thương cảm. Bà Tú vất vả quanh năm, chịu thương chịu khó để chăm lo “nuôi đủ” chồng, con. Hai tiếng “nuôi đủ” được đặt ở đầu câu như một tiếng vang đầy tự hào cũng thật trào phúng của người chồng dành cho vợ của mình, một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Bên cạnh đó, trong câu thơ còn chứa chan cả nỗi chua xót của ông Tú về chính mình, một kẻ bất tài, vô dụng, không giúp đỡ được gì lại trở thành gánh nặng cho vợ mình. Nhà thơ tự chế giễu mình, đặt mình ngang hàng với “năm đứa con thơ”, sống no đủ trên sự hi sinh, vất vả của bà Tú.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Trong hai câu thực tiếp theo, nhà thơ đã thể hiện được những vất vả, cực nhọc và hiểm nguy trong công việc mưu sinh đầy vất vả của bà Tú. Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp cùng ảnh ảnh ẩn dụ đặc sắc “lặn lội thân cò” càng tô đậm nỗi nhọc nhằn, bươn chải của người vợ. Hình ảnh người phụ nữ chân chất, lam lũ trong không gian hoang vắng, heo hút, một mình lam lũ chẳng nề hà khiến ta vừa cảm phục, vừa xúc động. Tình từ tượng thanh “eo sèo” gợi lên không gian chợ búa với những thanh âm hỗn độn của kẻ bán, người mua, của những tiếng kì kèo mặc cả, cãi cọ hơn thua càng tô đậm hình tượng bà Tú cần mẫn, tất bật giữa chốn chợ búa xô bồ.

Ca dao xưa có câu:

“Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”

Dẫu biết là vậy, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì chồng, vì con bà Tú nào có thể dừng bước. Đôi chân gầy guộc ấy vẫn quyết xông pha nơi quãng vắng, đò đông, kiếm đôi ba đồng lo toan cho cuộc sống. Thật quả là một người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, sẵn sàng đánh nhận về mình tất cả những vất vả, mệt nhọc vì hạnh phúc, ấm êm của gia đình. Vẻ đẹp về phẩm chất của bà thật đáng trân trọng và cảm phục biết bao.

Bằng lời thơ giản dị, những hình ảnh gần gũi mà giàu giá trị biểu đạt, Tú Xương đã thể hiện cảm xúc chân thành, tình cảm yêu thương và trân quý của ông dành cho vợ. Bốn câu thơ như một khúc nhạc ngọt ngào, xúc động nhưng đầy chua xót viết về vẻ đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

——————-HẾT—————–

Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm các bài viết cùng chủ đề Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ của Tú Xương, Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương, Hình ảnh bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Tú Xương để làm nổi bật tâm sự mang nỗi niềm thế sự của tác giả để tích lũy cho mình những kinh nghiệm làm văn hay nhé!

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường THPT Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn)

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương  - Ngữ văn 11

Bài giảng Ngữ văn 11 Thương vợ

Dàn ý Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương

1. Mở bài

- Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện ra phía trước, ỏng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ.

Đặc biệt, bài Thương vợ thể hiện lòng thương quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng con.

2. Thân bài

a. Việc mưu sinh vất vả của bà Tú

- Việc mưu sinh vất vả của bà Tú được diễn ta trong bốn câu đầu.

- Thời gian (quanh năm), công việc (buôn bán), không gian (ở mom sông): quanh năm bà Tú miệt mài buôn bán vất vả ở mom sông, lo liệu việc mưu sinh cho cả nhà và nuôi lũ con (năm con), lại nuôi luôn cá chồng (với một chồng). Lối nói úp mở vừa hóm hỉnh trong hai câu 1, 2 vừa nhấn mạnh lòng biết ơn pha lẫn sự ăn năn và tỏ ý thương quý bà Tú.

- Câu 3 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, có sử dụng biện pháp đảo ngữ (lặn lội thân cò để diễn tả việc buôn bán vất vả của bà Tú, lặn lội cả những nơi vắng vẻ, nguy hiểm (nơi quãng vắng). Câu 4 tả cảnh bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những buổi đò đông, eo sèo mua bán thật tất bật, nhọc nhằn.

Phân tích 6 câu thơ đầu bài thương vợ
b. Những đức tính cao đẹp của bà Tú

- Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng con:

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con.

Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo ("năm nắng mười mưa"), vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

3. Kết bài

Xã hội xưa "trọng nam khinh nữ", coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.

Bài giảng Ngữ văn 11 Thương vợ

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (mẫu 1)

Tế Xương là một nhà thơ lớn của dân tộc luôn tỏa sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Thơ ông luôn mang tính chất trào phúng sâu,đả kích hoặc là thuần trữ tình sâu sắc.

Thương vợ là một bài thơ miêu tả về hình ảnh bà Tú vất vả lặng lẽ hi sinh vì chòng vì con ,qua đó cũng thể hiện được tình yêu thương của ông giành cho bà với một sự biết ơn và quý trọng người vợ của mình

Chỉ với sáu câu thơ đầu tiên cũng đã phần nào nói lên được sự vất vả tần tảo chịu thương chịu khó của bà Tú

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Chỉ bằng vài lời thơ hồn hậu và bình dị thì Tú Xương đã giúp cho người đọc hình dung ra được cảnh bà Tú một thân một mình gánh vác trên vai nuôi gia đình,lặn lội từ bờ sông này đến bờ sông khác chăm chỉ làm ăn kiếm tiền nuôi chồng con mà không hề than trách một lời nào.

Từ “mom” là một từ dùng để diễn tả mảnh đất trống nhô ra,là địa điểm để buôn bán nhỏ của những người dân. Là nơi họ chèo thuyền để đến buôn bán và bà Tú là điển hình quanh năm buôn bán ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống cả nhà có những đứa con thơ. Chỉ với một từ mom mà tác giả đã phần nào nói lên được sự khắc khổ và bươn chải của vợ mình ở ven sống đó. Không những thế ông còn ví vợ mình như thân cò lặn lội từ bờ này sang bờ khác chỉ để bì bõm tìm kiếm thức ăn.

Từ quanh năm buôn bán nghĩa là không một ngày nào bà Tú nghĩ làm và xem ngày nào cũng giống như ngày nào theo thường lệ,hơn nữa từ mom càng tô đậm thêm cái chênh vênh không vững vàng của việc làm ăn,tạm bợ. Từ mom càng lột tả hết được sự nhỏ bé và cô đơn của bà khi ngồi trên đó.

Phân tích 6 câu thơ đầu bài thương vợ
Ngày xưa phụ nữ phong kiến có bổn phận trách nhiệm là phải thờ chồng nuôi con cho nên sự làm lũ vất vả của bà như vậy là một điều đương nhiên. Thờ chồng bao hàm cả việc là nuôi cả chồng của mình. Đó là sự bất công của xã hội nếu xét theo phương diện thời bấy giờ nhưng nếu mà nói về mặt đức độ thì sức tháo vát làm ăn của người vợ ấy thật đáng nể phục và đáng trân trọng biết bao.

Cái từ năm con với một chồng cũng cho thấy số lượng đếm trên đầu ngón tay mà một mình bà tú gánh hết. Bà Tú nuôi cả chồng đâu có đơn giản như nuôi mấy đứa con,có khi còn rượu chè rồi bầu bạn. ấy thế mà bà vẫn nuôi được cả về số lượng lẫn chất lượng như ta đã thấy,như vậy bà Tú không chỉ là nuôi ông Tú mà còn cung phụng,thờ.

Với câu thơ thứ ba thì hình ảnh bà tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên một cách đậm nét hơn

Lặn lội thân cò khi quảng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Tú xương đã dùng một hình tượng quen thuộc để nói lên sự chăm chỉ của người vợ đó là hình ảnh con cò,một hình ảnh thân thuộc thường hay sử dụng trong văn chương. Đây là cách nói ví von ,ông không đem ra mà so sánh mà để nói lên sự chăm chỉ sáng ngày của người vợ ông hết mực yêu thương. Một tấm thân mảnh dẻ và yếu đuối mà phải chịu cảnh dãi nắng dầm sương không khi nào quản ngại khó khăn cả, đã thế còn phải lặn lội cả sớm trưa. Theo nghĩa đen thì cũng đã gợi lên sự khó khăn mệt nhọc của bà.

Từ quãng vắng làm nổi lên sự hiu quạnh,lẻ loi của bà không biết bấu víu nương tựa vào đâu. Eo sèo mặt nước buổi đó đông có thể hiểu theo hai cách khác nhau. Đò đông có nghĩa là đò đã chở đầy khác,hai là đò là nơi tập hợp rất đông người.

Câu thơ miêu tả hết sức trữ tình và sâu lắng khiến cho người nghe cũng cảm thấy xót xa tội nghiệp. ông Tú tỏ ra thương cảm cho vợ mình khó nhọc và thương vợ đến vậy là cùng.

Ông thấu hiểu công việc làm ăn khó khăn gian nan vất vả của bà là vậy. Khi quãng vắng buổi đò đông bà đều không quản khó khăn mệt nhọc một lòng vì chồng vì con,một lòng không kể khổ gian nan.

Không phải ông là một người dửng dung mà là một người rất biết thương vợ. Thương vợ cũng chính là lúc ông tự trách mình không lo nổi cho vợ cho con,còn phải để cho vợ con kiêm thêm miệng ăn trong nhà. Thấy mình có lỗi với vợ con.

"Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công"

Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như "một duyên hai nợ"; "năm nắng mười mưa" là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người.

Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối "năm nắng mười mưa" với "dám quản công" thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả, đảm đang, nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm.

Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía.

Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc chỉ vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng.

Qua sáu câu thơ này chúng ta đã cảm thấy tình yêu thương sâu sắc của ông Tú dành cho bà và dự chịu thương chịu khó của một người vợ dành cho chồng con. Với ngòi bút tinh tế tài hoa ông đã lột tả được một cách chân thực sâu sắc.

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (mẫu 2)

Dưới thời phong kiến, thân phận người phụ nữ có chồng rẻ rúng, bèo bọt. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực, song văn học trung đại chưa bao giờ quan tâm tới người phụ nữ, riêng có Tú Xương. Ít nhà văn nhà thơ cùng thời nào dám viết về vợ của mình. Qua 6 đầu bài thơ “Thương vợ”, ta thấy một Tú Xương đầy nhân đạo, nhân văn:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Tú Xương (1870-1907) tên khai sinh là Trần Tế Xương, một nghệ sĩ, một trí thức phong kiến. Tú Xương nổi bật trong hai mảng thơ trào phúng và trữ tình. Cả đời Tú Xương gần như chỉ bận rộn tới việc học và thi. Mọi việc trong gia đình đều do một tay bà Tú gánh vác. Tú Xương trân trọng, biết ơn và hổ thẹn với người vợ. Bài thơ “Thương vợ” gửi gắm tình cảm đó. Trong đó, 4 câu thơ đầu là hình ảnh chân thực về một bà Tú – người mẹ, người vợ khắc khổ nhưng đảm đang, tần tảo, giàu đức hi sinh.

Thể hiện điều đó, Tú Xương bắt đầu từ cách giới thiệu công việc của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”

Công việc của bà Tú là buôn bán, một công việc chẳng hợp với người xuất thân “con nhà dòng” như bà Tú. Bà Tú buộc phải tham gia vào chốn ồn ã, xô bồ, phức tạp. Vì miếng cơm manh áo mà phải làm công việc vất vả ấy. Suốt thời gian “quanh năm”, bà Tú làm không ngơi nghỉ. Trạng từ chỉ thời gian “quanh năm” được đặt lên đầu câu như nhấn mạnh hơn điều này. Về không gian làm việc, Tú Xương dùng từ “mom sông”. Mom sông là một đoạn đất bổi chồi ra, ba phía là nước vây bủa. Nó gợi sự chấp chới, hiểm nghèo. Một câu thơ ngắn nhưng người đọc thấy được cả bức chân dung của người phụ nữ vất vả, nhọc nhằn.

Ấy vậy, bà Tú vẫn có thể nuôi sống gia đình:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bà Tú “nuôi đủ”, chứ không thừa, không thiếu. Một mình bà Tú gánh trên vai 5 đứa con thơ dại kèm theo “một chồng”. Hơn nữa, từ “với” tạo thế cân bằng giữa “năm con” và “một chồng”. Chính điều này đã ngầm so sánh gánh nặng nuôi chồng còn nặng ngang với cả 5 đứa con. Dường như Tú Xương đang tự mỉa mai bản thân. Ông hổ thẹn trước người vợ và châm biếm mình chỉ như một kẻ vô tích sự, chỉ là ông

Tới câu thơ tiếp, Tú Xương miêu tả chân dung bà Tú thông qua hành động:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”

Không phải đột nhiên Tú Xương thay đổi nội dung thơ chuyển tới than thân cò, thân vạc. Tú Xương đang mượn thân cò để điển hình cho hình ảnh bà Tú.

“Con cò lặn lội bờ ao

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Bà Tú cũng như trong câu ca dao xưa, gánh nặng nuôi chồng nuôi con quá lớn đến mức ngày không đủ bà Tú phải đi làm “thêm” ban đêm. Không còn là “mom sông” nữa, hình ảnh nhân vật chuyển tới không gian của những “quãng vắng”, nơi mà luôn có những “hố tử thần” sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ ai không may sa chân.

Tú Xương đặt động từ “lặn lội” lên đầu câu nhằm nhấn mạnh vào bức chân dung nhân vật. Nó gợi những bước chân bập bõm, lận đận mò mẫm bùn lầy nhờ đó càng cho thấy nỗi vất vả cơ cực của bà Tú.

Từ ngày về đêm và cuối cùng trở lại ngày, một vòng tuần hoàn công việc không bao giờ dứt:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Bà Tú hiện lên trong không gian buổi đò đông. Lại tiếp tục là chân dung người phụ nữ phải bon chen, giành giật sự sống với đời. Thêm nữa, láy tượng thanh “eo sèo” bổ nghĩa “mặt nước” khiến người đọc liên tưởng tới không gian mặt nước mênh mông, sóng xô cuộn bọt trắng, xoáy nước hun hút tựa thủy thần quái ác túc trực nuốt chửng kẻ sa chân. Ở đâu, nơi nào ta cũng thấy rõ 2 điều, công việc vất vả, hiểm nguy và con người tần tảo, chuân chuyên.

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Mặc dù cực nhọc, vất vả quanh năm nhưng bà Tù không một lời than vãn. Bà chấp nhận tất cả lui về hậu phương để phục vụ chồng con. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ nên đã dùng duyên nợ để thể hiện. Cuộc đời bà hạnh phúc thì ít nhưng cực nhọc thì lại nhiều nhưng số phận là thế thì đành chấp nhận. Có lẽ, bà Tú cũng đã từng cảm thấy cuộc đời quá bất công với mình thế nhưng bà đã dặn lòng an phận và cam chịu. Một duyên, hai nợ như chất chứa biết bao nỗi niềm u uất của bà. Ẩn chứa đằng sau đó là tình yêu thương, nỗi khổ tâm của người chồng khi để vợ ngược xuôi, vất vả như thế.

Tóm lại, 6 câu thơ đầu bài “Thương vợ” đã cho thấy nhiều đặc sắc nghệ thuật trong cách dùng từ, sáng tạo ngôn ngữ, diễn đạt… của Tú Xương. Qua đoạn thơ, Tú Xương không chỉ ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của bà Tú đồng thời còn thể hiện nỗi hổ thẹn của chính tác giả. Điều này khẳng định Tú Xương là người có tấm lòng nhân đạo, nhân văn sâu sắc.

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (mẫu 3)

Cảm nhận của em về hình tượng bà Tú trong bài "Thương vợ" của tác giả Trần Tế Xương Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông trên con đường hoa cử lại không thành đạt mà chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông thì đầy góc cạnh, không chịu gò mình.

Về sự nghiệp sáng tác, ông có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm "Thương vợ" của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại, và đó cũng có thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của mình.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề - thực - luận - kết. phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú.

"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"

Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi.

Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng cả đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông còn kể rất tỉ mỉ "năm con", "một chồng" và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng dưới cuối câu tưởng chừng đang tự cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống các con mình.

Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như ông:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò, một hình ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ.

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa "lặn lội" và "eo sèo"; "khi quãng vắng" - "buổi đò đông" cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình.

Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con.

"Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công"

Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như "một duyên hai nợ" ; "năm nắng mười mưa" là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người.

Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối "năm náng mười mưa" với "dám quản công" thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả đảm đang nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm.

Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Viêt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía.

Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc chỉ vì cái phép tắc lễn giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niểm yêu thương, trân trọng của chồng.

"Thương vợ" là một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (mẫu 4)

Thương Vợ được Trần Tế Xương viết vào năm 1896 – 1897. Bà Tú có tên thật là Phạm Thị Mẫn, bà là một người vợ hiền thục, đảm đang và tần tảo lo cho chồng con. Cho nên, tác giả đã rất quý trọng, yêu thương vợ của mình và ông đã có một số bài thơ viết về bà. Trong bài thơ Thương vợ, chúng ta có thể bắt gặp được hình ảnh bà Tú hiện ra phía trước và ông Tú ẩn khuất ở phía sau. Đằng sau những câu từ có ý nghĩa mà đầy nghệ thuật đó chính là cảm một tấm lòng thương vợ của ông.


Qua 4 câu đầu chúng ta có thể được công việc mưu sinh của bà Tú vất vả và cực nhọc như thế nào. Các từ ngữ “quanh năm”, “buôn bán”, “ở nom sông” đã gợi nên hình ảnh bà Tú quanh năm miệt mài với việc buôn bán và vất vả ở nom sông. Bà phải lo liệu cho cả nhà với “năm con” và “với một chồng”. Lối viết úp mở trong 2 câu đầu đã nhấn mạnh lòng biết ơn pha trộn với sự ăn năn và thương quý vợ mình. Đến câu 3, tác giả mượn hình ảnh con cò trong ca dao và sử dụng biện pháp đảo ngữ để diễn tả sự vất vả và lặn lội nơi vắng vẻ, nguy hiểm của bà Tú. Bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những buổi đò đông để buôn bán thật nhọc nhằn.

Hai câu tiếp theo chúng ta có thể thấy được hình ảnh bà Tú là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chu đáo vơi chồng con. Đến đây, Tú Xương một lần nữa cảm phục trước sự quên mình của vợ mình. Tuy cực khổ như vậy nhưng bà Tú vẫn không một lời phàn  nàn mà lặng thầm chấp nhận tất cả vì chồng con. “Năm nắng mười mưa” chính là sự vất vả và gian truân. Điều đó thể hiện đức tính chịu thương chịu khó, thương chồng con hết lòng của bà Tú.

Với cách sử dụng các ngôn từ bình dị, hóm hỉnh mà tự nhiên cùng việc sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao. Đặc biệt là cảm xúc chân thành của chính tác giả. Chúng ta có thể thấy được hình ảnh của bà Tú khi được nhắc qua câu thơ có giọng điệu ngợi ca và đầy yêu thương của nhà thơ. Và ẩn sâu trong câu thơ, chúng ta có thể thấy được giọng điệu trào phúng và sự bất lực của Trần Tế Xương. Đặc biệt, thông qua bài thơ chúng ta có thể thấy những sự bất công về “trọng nam khinh nữ” ở thời xưa ác liệt như thế nào.


“Trong nam khinh nữ” là một trong những tư tưởng bất công và lạc hậu tồn tại trong xã hội xưa. Tuy nhiên, với Tế Xương, ông lại dám song phẳng với bản thân của mình rằng bản thân đang sống tựa vào vợ. Ông dám nhận những thiếu xót và khuyết điểm của mình. Đặc biệt, ông cũng là một người chồng vô cùng yêu thương bà Tú.

Phân tích sáu câu thơ đầu của bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (mẫu 5)

Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông trên con đường hoa cử lại không thành đạt mà chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông thì đầy góc cạnh, không chịu gò mình.

Về sự nghiệp sáng tác, ông có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm "Thương vợ" của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại, và đó cũng có thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của mình.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề - thực - luận - kết. phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú.

"Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng"

Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi.

Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng cả đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông còn kể rất tỉ mỉ "năm con", "một chồng" và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng dưới cuối câu tưởng chừng đang tự cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống các con mình.

Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như ông:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò, một hình ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ.

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa "lặn lội" và "eo sèo"; "khi quãng vắng" - "buổi đò đông" cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình.

Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con.

"Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công"

Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như "một duyên hai nợ"; "năm nắng mười mưa" là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người.

Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối "năm nắng mười mưa" với "dám quản công" thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả, đảm đang, nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm.

Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía.

Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc chỉ vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng.

"Thương vợ" là một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:  

TOP 30 bài Hình ảnh con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ “Câu cá mùa thu” (2022)

TOP 30 bài Cảm nhận bài thơ "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến (2022)

TOP 30 bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương (2022)

TOP 30 bài Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương để làm nổi bật tâm sự mang nỗi niềm thế sự của tác giả (2022)

TOP 30 bài Vẻ đẹp nhân cách Tú Xương trong bài thơ "Thương vợ" (2022)