Mỗi người dân việt nam nợ bao nhiêu 2023 năm 2024

Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/tổng thu ngân sách (NSNN) năm 2024 có xu hướng tăng nhanh và tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội.

Nợ công đang trong ngưỡng an toàn

Chiều 23/10, tại kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc đã trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025.

Về tình hình vay, trả nợ của Chính phủ, Bộ trưởng Tài chính cho biết, giai đoạn 2021-2023, các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm bảo đảm trong các mức trần và ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt.

Cụ thể, năm 2023, Quốc hội phê chuẩn tổng mức vay của ngân sách trung ương (NST.Ư) là 621.015 tỷ đồng và phê duyệt vay về cho vay lại vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài của Chính phủ là 23.394 tỷ đồng.

Để thực hiện nhiệm vụ huy động vốn, Chính phủ đã triển khai công tác huy động vốn từ các nguồn vay trong nước và vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài. Dự kiến nhu cầu huy động cả năm 2023 ước đạt 604.379 tỷ đồng (bằng 93,8% kế hoạch), trong đó vay về cho vay lại là 14.626 tỷ đồng (62,5% kế hoạch).

Tổng trả nợ của Chính phủ năm 2023 ước đạt 311.537 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp ước là 279.742 tỷ đồng, bằng 95,3% dự toán; trả nợ vay nước ngoài về cho vay lại ước đạt 31.795 tỷ đồng, bằng 93,8% kế hoạch. Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN khoảng 20-21%.

“Việc trả nợ của Chính phủ năm 2023 được thực hiện đầy đủ theo cam kết, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt”, Bộ trưởng Tài chính khẳng định.

Trong năm 2024, Chính phủ dự kiến tổng nhu cầu vay là 676.057 tỷ đồng, bao gồm: vay bù đắp bội chi NSTƯ là 372.900 tỷ đồng (chiếm 55,16%); vay để trả nợ gốc của NSTƯ khoảng 287.034 tỷ đồng (chiếm 42,46%); vay về cho vay lại là 16.123 tỷ đồng (chiếm 2,38%).

Với dự kiến vay, trả nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương và nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng như trên, trong trường hợp tăng trưởng GDP tích cực đạt chỉ tiêu Quốc hội giao, dự báo đến cuối năm 2024, dư nợ công khoảng 39-40% GDP, nợ Chính phủ khoảng 37-38% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 38-39% GDP; chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN khoảng 24-25%, bảo đảm trong mức trần, ngưỡng được Quốc hội cho phép.

Xu hướng phải tăng vay để trả nợ gốc

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ đã triển khai thực hiện kế hoạch vay và trả nợ năm 2023 đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế nhiều khó khăn, tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước chậm lại, trong khi nhu cầu chi tiêu đầu tư để thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế tăng khá lớn.

Cụ thể, năm 2023, Chính phủ dự kiến nhu cầu huy động ước đạt 604.379 tỷ đồng (bằng 93,8% kế hoạch). Trong số này, khoảng 589.000 tỷ đồng vay để trả nợ gốc NST.Ư (chiếm 32,35% cơ cấu tổng mức vay).

“Tỷ lệ này có xu hướng tăng trong năm 2024 (khoảng 42,4%) cho thấy xu hướng phải tăng vay để trả nợ gốc. Thêm vào đó là các khoản vay mới đàm phán và ký kết từ năm 2022 có lãi suất cao hơn, là thách thức lớn, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay”, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nêu rõ.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách dự báo nợ công 2024 khoảng 39-40% GDP trong trường hợp tăng trưởng GDP tích cực. Cùng đó, nợ Chính phủ 37-38% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia 38-39% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách 24-25%.

Dù khẳng định, các chỉ tiêu này trong mức trần Quốc hội cho phép, song Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, số tuyệt đối và tỷ lệ vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng. Theo đó, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN năm 2024 khoảng 24-25%, tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội, trong khi đây đã là “dự kiến trong trường hợp tăng trưởng GDP tích cực, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao”; tỷ lệ này trong các năm 2021-2023 đều ở mức thấp hơn 22%.

Vì vậy, Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ, phân tích nguyên nhân để có giải pháp điều hành cân đối ngân sách, bảo đảm an toàn nợ công.

“Chính phủ cần dành nguồn tăng thu để tăng chi trả nợ gốc, tăng cường quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay; quản lý chặt chẽ huy động, sử dụng các khoản vốn vay bù đắp bội chi và trả nợ gốc ngân sách. Cùng với đó là phát hành trái phiếu Chính phủ gắn với khả năng giải ngân chi, trả nợ gốc của NSNN”, Ủy ban Tài chính, Ngân sách góp ý.

Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xem xét nghiêm túc, đánh giá toàn diện về: Nguyên nhân bất cập, vướng mắc kéo dài; hiệu quả của các dự án; tính hợp lý của phương án huy động vốn; trách nhiệm trong huy động, phân bổ, sử dụng vốn ODA... để đề xuất giải pháp thiết thực, xử lý dứt điểm các hạn chế, vướng mắc kéo dài, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay.

Tăng thu từ thúc đẩy hoạt động sản xuất

PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên Học viện Tài chính cho biết, vào năm 2021, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 368.276 tỷ đồng, chủ yếu là trả nợ trong nước với khoảng 323.093 tỷ đồng, bằng khoảng 27,4% thu ngân sách (đã vượt ngưỡng Quốc hội đề ra). Trong bối cảnh đó, để giảm chỉ tiêu này về ngưỡng an toàn, Việt Nam đã đẩy mạnh nguồn thu ngân sách từ cổ phần hóa DNNN, thuế đất và phát hành trái phiếu trong nước.

“Việc quản lý nợ vay của Chính phủ được thực hiện một cách bài bản, đúng mong muốn của Quốc hội và của các nhà quản ký kinh tế. Trong đó, nhiều chỉ tiêu vay và trả nợ đều cách xa ngưỡng cảnh báo. Đây là một điểm sáng trong quản lý vốn, cũng như quản lý kinh tế của Nhà nước”, ông Thịnh đánh giá.

Từ năm 2021 đến nay, để huy động đủ nguồn lực cho bội chi NSNN theo dự toán NSNN và bổ sung cho chương trình phục hồi, Chính phủ linh hoạt sử dụng các công cụ phù hợp, kết hợp huy động nguồn lực trong và ngoài nước, chủ yếu huy động từ phát hành trái phiếu chính phủ, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài và các nguồn tài chính hợp pháp khác. Trong đó, huy động vốn vay trong nước trở thành chủ đạo, vốn vay nước ngoài giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ.

“Đây là các nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, để thực hiện đột phá chiến lược về phát triển kết cấu hạ tầng, an sinh xã hội, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững”, ông Thịnh nhìn nhận.

Tuy vậy, dù chín tháng năm 2023, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt cao nhất từ trước tới nay, lần đầu vượt ngưỡng 50% song vẫn còn không ít bất cập, trong đó giải ngân nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài luôn trong trạng thái ì ạch, gây quan ngại về hiệu quả sử dụng đồng vốn vay.

“Khi các khoản vay ODA giảm dần, Chính phủ phải huy động các khoản vay mới với ưu đãi kém hơn, lãi suất sát thị trường hơn để bù đắp thì nghĩa vụ trả nợ trực tiếp so với tổng thu NSNN có xu hướng tăng, áp lực trả nợ công vẫn rất lớn”, ông Thịnh nêu rõ.

Cùng với đó, trong trung hạn từ 2025-2030, lãi suất huy động trái phiếu chính phủ có thể tăng trở lại nên cần tính toán rất cẩn trọng quy mô và thời điểm cho việc huy động trái phiếu chính phủ. Mặt khác, danh mục nợ vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là khi chi phí vay vốn nước ngoài cao hơn, điều kiện khắt khe hơn, trong khi quy mô thị trường trái phiếu chính phủ trong nước còn nhỏ, tiềm lực các tổ chức tài chính hạn chế.

Về giải pháp, ông Thịnh khẳng định, ngoài theo hướng vay nợ trong nước và trả nợ trong nước và giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. “Chúng ta cần dồn mọi nguồn lực kết hợp cả chính sách tiền tệ và và chính sách tài khóa để hỗ trợ doanh nghiệp trong nền kinh tế hồi phục và tăng trưởng tốt nhất thì nguồn thu đem về sẽ tốt hơn”.

Việt Nam nợ nước ngoài bao nhiêu 2023?

Theo số liệu của Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), dư nợ công của Việt Nam đến cuối tháng 6/2023 đạt khoảng 3,7 triệu tỷ đồng; tổng trả nợ nửa đầu năm 2023 khoảng 205 nghìn tỷ. Xét trong giai đoạn 2019 - 6/2023, nợ công Việt Năm tăng khoảng 355 nghìn tỷ đồng.

Quy mô kinh tế Việt Nam 2023 đứng thứ mấy thế giới?

Theo sau lần lượt là Đức (4,43 nghìn tỷ USD); Nhật Bản (4,23 nghìn tỷ USD) và Ấn Độ (3,73 nghìn tỷ USD). Với quy mô GDP năm 2023 đạt hơn 430 tỷ USD, Việt Nam hiện đang là nền kinh tế lớn thứ 35 trên thế giới.

Trần nợ công Việt Nam bao nhiêu?

Quy mô nợ công đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn nhiều so với trần 50%.

Nợ công ở mức an toàn là bao nhiêu?

Để bảo đảm an toàn nợ công, Quốc hội đặt mức trần nợ công hàng năm không quá 60% GDP; ngưỡng cảnh báo là 55% GDP; trần nợ chính phủ hàng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP; trần nợ nước ngoài của quốc gia hàng năm không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo là 45% GDP.