Mổ hở van tim nằm viện bao lâu

Những tiến bộ trong phẫu thuật xâm lấn tối thiểu đang giúp rút ngắn thời gian hồi phục cho bệnh nhân bị hở cận van tim, Bác sĩ Paul Chiam giải thích.

Phẫu thuật thay van là phương án điều trị chính cho bệnh nhân bị bệnh van tim. Được thực hiện thông qua phương pháp tim hở [open heart], bác sĩ phẫu thuật loại bỏ van tim bị hư hỏng và thay thế vào đó một van giả, giúp phục hồi lưu lượng máu bình thường và chức năng trong cơ tim. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, một khoảng trống có thể xuất hiện giữa van tim giả cấy ghép và mô tim của bệnh nhân do sự vỡ kết nối ở các mũi khâu cố định vị trí van.

Vấn đề này có thể khiến máu bị rò rỉ qua bên van tim cấy ghép, và nếu không được điều trị, có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng hơn như tan máu [vỡ hồng cầu] hoặc suy tim. Được biết đến với tên gọi hở cận van tim, biến chứng này xảy ra trong khoảng từ 1 đến 10 phần trăm bệnh nhân thay van và có thể phát triển ở van hai lá hoặc trong van động mạch chủ. Các lựa chọn điều trị trước đó có giới hạn, thường là phẫu thuật mở ngực nhiều lần [với rủi ro cao hơn] để sửa chữa hở cận van hoặc thay mới hoàn toàn van tim giả.

Nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật những năm gần đây, một phương pháp phẫu thuật tiên tiến hơn là sửa chữa hở cận van tim qua da [percutaneous paravalvular leak repair] đã trở nên phổ biến hơn. Đây là phương pháp cho phép bệnh nhân được điều trị hở van tim với phẫu thuật xâm lấn tối thiểu. 

Phương pháp can thiệp sửa hở cận van tim qua da

Can thiệp sửa hở cận van tim qua da được thực hiện thông qua một lỗ chọc nhỏ từ vùng háng, thực hiện trực tiếp trên trái tim đập, mà không cần phải mở lại ngực để tiếp xúc với van tim.

Một ống thông nhỏ được truyền qua qua động mạch đùi hoặc tĩnh mạch đùi ở chân đến tim. Tại tim, với sự trợ giúp của một đường dẫn và kĩ thuật truyền hình ảnh tiên tiến, một thiết bị “dạng phích cắm” sẽ được lắp vào phần hở cận van để thu hẹp khoảng cách. Phẫu thuật này cần được thực hiện bởi một bác sĩ chuyên về phẫu thuật can thiệp tim mạch do phương pháp này đòi hỏi kĩ thuật phức tạp. Ở một số ít bệnh nhân, hở cận van không thể khép lại do đường dẫn không thể kéo tới van tim, và những trường hợp này sẽ cần một cách tiếp cận xâm lấn hơn.

Các “phích” mạch máu khác nhau có thể được ứng dụng trong phẫu thuật sửa hở van tim qua da để đóng phần hở ở cạnh van tim cấy ghép.

[Trái] Hở cận van: vòng tròn màu đỏ cho thấy vị trí khoảng hở giữa van tim cấy ghép và mô tim của bệnh nhân. [Phải] Đóng chỗ hở: mũi tên đỏ hiển thị các “phích” mạch máu cấy ghép sau khi phẫu thuật đã được thực hiện.

Kết quả phẫu thuật cải thiện rõ rệt

So với phẫu thuật tim hở, phẫu thuật sửa hở cận van tim qua da được thực hiện chỉ trong vài giờ và không cần phải mở lại khoang ngực. Thời gian phục hồi ngắn hơn đáng kể nhờ sự xâm lấn tối thiểu và nhiều người có thể được xuất viện ngay ngày hôm sau.

Một trường hợp ví dụ gần đây nhất là một bệnh nhân 66 tuổi người Indonesia ở Tokyo bị chứng thở nặng, đến mức anh ta không thể di chuyển được.  Siêu âm tim đồ cho thấy có sự hở van hai lá nghiêm trọng do phần hở cận van tim. Năm 2006, bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật thay thế van hai lá tiến hành bằng cách cấy ghép van giả. Sửa hở van bằng phương pháp phẫu thuật tim hở thông thường có thể khiến bệnh nhân có nguy cơ biến chứng cao do cần phải phẫu thuật tim hở nhiều lần sau đó, Tiến sĩ Chiam giải thích. Thay vào đó, bệnh nhân đã được chữa thành công, đóng lại chỗ hở van tim nhờ phẫu thuật xâm lấn tối thiểu từ vùng háng.  Bệnh nhân đã được xuất viện sau một đêm lưu trú và có thể đi bộ nhiều quãng đường dài hơn - thậm chí ông có thể bước vào phòng khám mà không cần người đỡ" – Bác sĩ Chiam cho biết. "Kết quả siêu âm sau đó cho thấy phần hở van đã được giảm đáng kể."

Khi số lượng bệnh nhân thay thế van tim ở khu vực Châu Á, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á tăng lên thì số bệnh nhân có vấn đề hở van cũng tăng lên. Bệnh nhân hở van tim có thể được điều trị với một trong những công nghệ phẫu thuật tim mạch tiên tiến nhất tại Bệnh viện Mount Elizabeth.

Thông thường, qua vài thập kỷ gần đây, các ca phẫu thuật tim được thực hiện thông qua cắt xương ức [một đường cắt lớn trên ngực và tách xương ngực] để có thể tiếp cận tim. Đường rạch lớn không chỉ tạo ra vết sẹo dài, không đẹp mắt, mà còn gây đau hơn, chấn thương sinh lý nhiều hơn, phải nằm viện lâu hơn và thời gian phục hồi dài hơn.

Do các kỹ thuật phẫu thuật tim và công nghệ cải thiện theo thời gian, các kỹ thuật phẫu thuật đã được điều chỉnh thích hợp để giảm đau và giảm chịu đựng cho bệnh nhân mà vẫn đảm bảo ca phẫu thuật an toàn và hiệu quả.

Phẫu thuật tim xâm lấn tối thiểu [MICS] hiện cũng được phát triển thành công và công nhận tại hầu hết mọi nơi trên thế giới. Tuân thủ các tiêu chí nghiêm ngặt, chiều dài vết mổ cho MICS được xác định là chưa đến 4 inch.

Đến nay, MICS đã được sử dụng cho phẫu thuật bắc cầu động mạch vành [CABG] và phẫu thuật van tim.

Đối với phẫu thuật bắc cầu động mạch xâm lấn tối thiểu [MIDCAB], động mạch vú thất trái [LIMA], là con đường tốt nhất và cung cấp độ thông mở lâu dài tốt nhất, có thể có được qua 3 cách khác nhau:

  • Mở ngực trước nhỏ 6 – 8cm
  • Nội soi ngực được hỗ trợ bằng video [VATS]
  • Nội soi ngực được hỗ trợ bằng robot

Mỗi phương pháp này đều có ưu và nhược điểm riêng. Có một tốc độ lĩnh hội nhất định và do đó điều quan trọng là các bác sĩ phẫu thuật phải thành thạo các phương pháp đó.

Sau khi lấy LIMA, động mạch sẽ được kết nối với động mạch xuống trước trái quan trọng nhất để cung cấp cho bệnh nhân kết quả lâu dài tốt nhất. Trong quá trình hoạt động, nhờ kỹ thuật không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể cũng như và can thiệp tim ít nhất, bệnh nhân có lưu lượng máu ổn định hơn và giảm chảy máu.

MICS cũng đang được sử dụng rộng rãi cho phẫu thuật van tim biệt lập, đặc biệt là điều trị/thay thế van hai lá, điều trị/thay thế van ba lá và thay thế van động mạch chủ. Thông thường, phẫu thuật này được thực hiện thông qua vết mổ 6 – 8cm ở xương ức. Đối với phẫu thuật van hai lá và ba lá, cũng có thể tiếp cận thông qua một vết mổ nhỏ qua ngực hoặc thông qua phẫu thuật được hỗ trợ bằng robot.

Do bác sĩ phẫu thuật tim có trình độ tiến hành, các phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu này sẽ mang lại cho bệnh nhân ít tổn thương về thể chất và tâm lý nhất đồng thời vẫn đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Thông thường, sau MICS, bệnh nhân có thể được xuất viện trong thời gian từ 3 – 4 ngày và có thể trở lại hầu hết các hoạt động bình thường trong vòng 2 – 4 tuần.

Thủ thuật MICS tiên tiến này không ngừng phát triển và cũng đã được áp dụng thành công trong nhiều ca phẫu thuật tim, bao gồm: đóng lỗ thông vách liên nhĩ, điều trị van ba lá, thủ thuật DOR [phẫu thuật suy tim mạn tính] và loại bỏ cục máu đông thất trái, phẫu thuật điều trị chứng loạn nhịp tim và vỡ vách liên thất.

Phương pháp kết hợp

Trong kỷ nguyên y học hiện tại, rất khó để đưa ra các lựa chọn điều trị hoàn hảo cho bệnh nhân mắc bệnh tim phức tạp. Ở bệnh nhân mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ, một số động mạch vành có thể được điều trị phù hợp hơn bằng cách sử dụng kẹp mạch và đặt stent, khi đó động mạch vành nhất định, đặc biệt là động mạch xuống trước trái, có thể sẽ tốt hơn rất nhiều khi kết nối với CABG và LIMA. Ở bệnh van tim kết hợp với bệnh động mạch vành, bệnh nhân sẽ được tiến hành giải phẫu cắt xương ức toàn bộ bằng cách sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn để điều trị cả van tim và hẹp động mạch vành.

Tuy nhiên, với sự phát triển của MICS và tăng cường làm việc nhóm giữa các bác sĩ tim mạch và bác sĩ phẫu thuật tim, phương pháp kết hợp dành cho bệnh nhân mắc bệnh tim hiện nay có thể đưa ra một góc nhìn mới về việc lập phác đồ điều trị và hướng tới lợi ích tốt nhất của bệnh nhân.

Ở bệnh nhân mắc nhiều bệnh về động mạch vành, phương pháp thông nối LIMA – LAD mang lại độ thông mở lâu dài tốt nhất và tỷ lệ sống sót cao nhất cho bệnh nhân. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành thường mang lại kết quả lâm sàng khả quan. Tuy nhiên, trong thực tế kết quả khả quan này chỉ đến với chưa đến 20% số ca bệnh.

Mặt khác, mặc dù can thiệp mạch vành qua da [PCI] với stent ít xâm lấn nhất trong tất cả các thủ thuật can thiệp vào mạch máu, cũng như công nghệ đặt stent mạch vành đã phát triển đáng kể, thì kết quả của thủ thuật này vẫn không thể nào so sánh với LIMA – LAD, với tỷ lệ thông mở 90% trong 20 năm.

Chủ Đề