Hướng dẫn về gây hậu quả nghiêm trọng

Số lượt truy cập:4,295,258 lượt

Số người online:1,380 người

Page 2

Số lượt truy cập:4,295,259 lượt

Số người online:1,380 người

Page 3

Số lượt truy cập:4,295,260 lượt

Số người online:1,380 người

Page 4

Số lượt truy cập:4,295,261 lượt

Số người online:1,380 người

Page 5

Số lượt truy cập:4,295,261 lượt

Số người online:1,380 người

Page 6

Số lượt truy cập:4,295,262 lượt

Số người online:1,380 người

Page 7

Số lượt truy cập:4,295,262 lượt

Số người online:1,380 người

Ngày hỏi:21/01/1986

Pháp luật quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng như thế nào?

  • Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mà chỉ là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt ở một số tội. Do thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhưng điều khoản của Bộ luật hình sự về tội đó lại không quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nên khi áp dụng hình phạt, Tòa án chỉ nhận định trong bản án mà không có căn cứ để quyết định hình phạt nặng hơn trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định ba mức hậu quả [ nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng] nên ngoài việc quy định các tình tiết này là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, thì nhà làm luật còn quy định nó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử cũng như căn cứ của Bộ luật hình sự năm 1999 a] Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng là những thiệt hại do tội phạm gây ra rất lớn, lớn hơn so với mức gây hậu quả nghiêm trọng. Việc xác định hậu quả như thế nào là rất nghiêm trọng phải căn cứ hành vi phạm tội cụ thể, nếu là xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe thì phải căn cứ vào thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Nếu xâm phạm đến tài sản thì phải căn cứ vào thiệt hại về tài sản… Ngoài những thiệt hại về vật chất, còn phải căn cứ vào những thiệt hại khác không phải là vật chất. Hậu quả rất nghiêm trọng còn phụ thuộc vào tội phạm được thực hiện do cố ý hay vô ý, tội phạm được thực hiện do cố ý thì thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thấp hơn thiệt hại do vô ý gây ra. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, thiệt hại càng lớn, mức độ tăng nặng càng nhiều và ngược lại. b] Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là những thiệt hại do tội phạm gây ra đặc biệt lớn, lớn hơn so với mức gây hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như xác định hậu quả nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, việc xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cũng phải căn cứ vào thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra trong từng vụ án cụ thể, căn cứ vào lỗi của người phạm tội, vào tính chất của hành vi phạm tội và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Nếu thiệt hại về tài sản, được coi là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khi hành vi phạm tội gây ra thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên đối với tội do cố ý và từ 800 triệu đồng trở lên đối với tội do vô ý, nếu là thiệt hại về tính mạng thì phải từ 3 người chết trở lên đối với tội do cố ý và từ 5 người chết trở lên đối với tội do vô ý. Đối với những thiệt hại phi vật chất, được coi là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khi hành vi phạm tội đã xâm phạm đến nhiều mặt của đời sống xã hội, làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến chính sách của Đảng và Nhà nước trên phạm vi rộng lớn, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến việc sản xuất, lưu thông trên một phạm vi rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của nhân dân trên phạm vi rộng đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà không thể một sớm, một chiều khắc phục ngay được. Mức độ tăng nặng của tình tiết này cũng phụ thuộc vào những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho xã hội, thiệt hại càng nghiêm trọng thì mức độ tăng nhẹ càng nhiều và ngược lại.


THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI

  • Văn phòng Luật sư nam Hà Nội - HSLAWS
  • 183, Trường Chinh, Thanh Xuân, Hà Nội
  • Click để Xem thêm

- Thứ nhất, về khách thể loại của tội phạm: Trần Ngọc K và quân nhân, được giao nhiệm vụ làm thủ kho vũ khí của Sư đoàn; trách nhiệm của K là quản lý, bảo quản tất cả các loại vũ khí có trong kho, đảm bảo an toàn về số lượng và chất lượng sử dụng của các loại vũ khí. Nhưng do đã không làm đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, như: không tiến hành kiểm tra, nắm chắc số lượng vũ khí trong kho; không ghi chép đầy đủ vào sổ theo dõi người vào kho; chìa khóa kho và chìa khóa tủ súng để không đúng nơi quy định, cuối giờ làm việc không gửi chìa khóa vào bảo mật của đơn vị; tự ý bàn giao chìa khóa kho cho người khác không đúng quy định dẫn đến hậu quả là mất 08 khẩu súng ngắn K54. Đối với 08 khẩu súng K54, thuộc quyền quản lý, sử dụng của Sư đoàn, nhưng vì hành vi vi phạm của K dẫn đến mất số vũ khí này; theo đó, hành vi của K đã xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý vũ khí quân dụng của quân nhân. Do vậy, hành vi vi phạm này của K thuộc nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu” được quy định trong BLHS.

- Thứ hai, Điều 414 BLHS quy định: “Người nào được giao quản lý, được trang bị vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt...”. Đối chiếu với quy định này cho thấy, người được giao quản lý vũ khí quân dụng ở đây là K, thực tế xảy ra là K đã làm mất vũ khí quân dụng [08 khẩu súng ngắn K54]. Vấn đề đặc ra trong quy định này là người làm mất vú khí quân dụng phải gây ra hậu quả nghiêm trọng, nếu gây ra hậu quả không nghiêm trọng thì không cấu thành tội phạm. Để xác định như thế nào là hậu quả nghiêm trọng thì cần phải căn cứ vào văn bản hướng dẫn áp dụng dưới luật. Hiện nay đối với nhóm tội này trong BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể; tuy nhiên, chúng ta có thể áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP ngày 11/8/2003 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”[1] của BLHS năm 1999, thì “gây hậu quả nghiêm trọng” là trường hợp làm mất “từ 03 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên”[2]. K đã làm mất 08 khẩu súng ngắn K54, nên được xác định là đã gây hậu quả nghiêm trọng.

- Thứ ba, khoản 1 Điều 360 BLHS quy định: “Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây... thì...:

a] Làm chết người;

b] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d] Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.

Theo quy định này thì khi người có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm hoặc không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao gây ra hậu quả chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000đ trở lên thì mới cấu thành tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Trong vụ việc Trần Ngọc K làm mất 08 khẩu súng ngắn K54, chưa xác định được giá trị là bao nhiêu, nếu dưới 100.000.000đ thì không cấu thành tội phạm “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; nếu giá trị 08 khẩu súng từ 100.000.000đ trở lên thì chúng ta phải xác định khách thể loại của nhóm tội này có thuộc trường hợp của K hay không?

Tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” thuộc nhóm tội “Các tội phạm về chức vụ”. Đối chiếu trường hợp của K, nếu xem xét về chức vụ, quyền hạn, rõ ràng K cũng là người có chức vụ, quyền hạn; nhưng nhóm tội này điều chỉnh chung đối với những người có chức vụ quyền hạn, trong đó điều chỉnh đối với người là quân nhân. Tuy nhiên, do đối với quân nhân được điều chỉnh riêng thành một nhóm tội khác, nên khi K có hành vi phạm tội thuộc nhóm tội đó thì phải xem xét trách nhiệm hình sự của K theo nhóm tội đặc trưng riêng đó. Do vậy, hành vi của K phải xem xét trách nhiệm hình sự về tội phạm nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu” mới phù hợp và đúng quy định của BLHS.

Từ các phân tích trên, chúng tôi cho rằng, đối với trường hợp Trần Ngọc K vì thực hiện không đúng nghĩa vụ, trách nhiệm dẫn đến làm mất 08 khẩu súng K54 của Sư đoàn, phải được xem xét trách nhiệm hình sự về nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu”. Theo đó, Trần Ngọc K phạm tội “làm mất vũ khí quân dụng” theo quy định tại Điều 414 BLHS.

Trên đây là quan điểm của chúng tôi về xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm mất vũ khí quân dụng của Trần Ngọc K, mong bạn đọc cùng trao đổi làm rõ tính chất của vụ việc./.

 

[1] Theo Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 quyết định về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân, thì Thông tư 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP hết hiệu lực, nhưng vụ việc xảy ra trước thời gian hiệu lực của Quyết định nên có thể áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch.

[2] Tiểu mục d Mục 6 Phần II Thông tư liên tịch 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP.

Video liên quan

Chủ Đề