Theo La Qu�n Trung, Quan Vũ phải bỏ xứ ly hương v� c� lần bất b�nh trước kẻ ỷ thế hiếp bức d�n l�nh, đứng ra can thiệp, lỡ tay ngộ s�t, bị truy n� n�n phải bỏ xứ năm s�u năm. Quan Vũ tự thuật:
�Nh�n xứ t�i c� một đứa ỷ thế khinh người, t�i ngứa mắt tr�t giết hắn, n�n phải đem th�n đi tha phương trốn tr�nh, đ� năm s�u năm nay.� [La Qu�n Trung I, 1994: 10]
Thoạt mới lập th�n v�o đường v� nghiệp, sau khi đ�nh thắng giặc Khăn v�ng [Ho�ng c�n], Lưu Bị được triều đ�nh cho một chức quan nhỏ l� huyện lệnh B�nh Nguy�n, Quan Vũ l�m tay m� cung, Trương Phi l�m bộ cung [La Qu�n Trung I, 1994: 74]. Trong Tam quốc ch�, La Qu�n Trung đ� ch�p lại h�ng chục chiến t�ch của Quan Vũ, theo thứ tự như sau:
1. Ch�m Tr�nh Viễn Ch�, tướng giặc Khăn v�ng [Ho�ng c�n], ở huyện Tr�c. T�nh từ khi đ�c xong kh� giới, đ� l� trận đ�nh đầu ti�n để Quan Vũ thử đao [c�n Trương Phi thử x� m�u cũng giết được ph� tướng của Viễn Ch� l� Đặng M�u]. Đời sau c� thơ khen tặng Quan, Trương rằng:
Anh h�ng ph�t dĩnh tại kim tri�u,
Nhất th� m�u hề nhất th� đao.
Sơ xuất tiện tương uy lực triển,
Tam ph�n hảo bả t�nh danh ti�u.
[S�ng nay anh h�ng để lộ t�i năng xuất ch�ng,
Người th� thử m�u, người lại thử đao.
Vừa xuất đầu lộ diện đ� thi triển uy lực,
Được nổi danh trong thời Tam quốc ph�n tranh.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa.]
Anh h�ng xuất hiện buổi sơ đầu,
Người thử si�u đao, kẻ thử m�u.
Mới bước ch�n ra uy đ� dữ,
Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau. [La Qu�n Trung I, 1994: 12]
2. Ch�m Hoa H�ng, tướng của Đổng Tr�c. Trước khi Quan Vũ l�n ngựa, T�o Th�o h�m n�ng rượu r�t mời. Quan bảo h�y để đấy; đến chừng Quan x�ch thủ cấp H�ng đem về, ch�n rượu T�o r�t h�y c�n n�ng. C� thơ khen tặng rằng:
Uy trấn c�n kh�n đệ nhất c�ng,
Vi�n m�n họa cổ hưởng đ�ng đ�ng.
V�n Trường đ�nh trản thi anh dũng,
Tửu thượng �n thời trảm Hoa H�ng.
[Oai trấn trời đất v� c�ng lao bậc nhất,
Trước cửa quan trống đ�nh th�ng th�ng vang dội.
V�n Trường ngưng lại ch�n rượu để ra t�i anh dũng,
Ch�m Hoa H�ng rồi m� rượu h�y c�n n�ng.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa]
Cửa quan trống trận nổi th�ng th�ng,
Văng vẳng tai nghe nhạc ngựa rung.
Ch�n rượu r�t ra c�n n�ng đấy,
Trước m�n đ� thấy sỏ Hoa H�ng. [La Qu�n Trung I, 1994: 81]
3. Ch�m Quản Hợi, dư đảng giặc Khăn v�ng ở Bắc Hải. [La Qu�n Trung I, 1994: 173]
4. Ch�m Tu�n Ch�nh, tướng của Vi�n Thuật, ở Vu Thai. [La Qu�n Trung I, 1994: 232]
5. Ch�m Xa Trụ, tướng của T�o Th�o, ở Từ Ch�u. [La Qu�n Trung I, 1994: 360]
6. Ch�m Nhan Lương, tướng của Vi�n Thiệu, ở Bạch M�. [La Qu�n Trung I, 1994: 421]
7. Ch�m Văn X�, tướng của Vi�n Thiệu, ở Di�n T�n. [La Qu�n Trung I, 1994: 428]
Khi ph� hai chị d�u rời T�o Th�o trở về với Lưu Bị, Quan Vũ cưỡi X�ch thố vượt qua năm cửa ải, vung đao Thanh long ch�m lu�n s�u tướng của T�o Th�o:
8. Ch�m Khổng T�, ở ải Đ�ng Lĩnh.[La Qu�n Trung I, 1994: 443]
9. Ch�m Mạnh Thản, ở Lạc Dương.[La Qu�n Trung I, 1994: 443]
10. Ch�m H�n Ph�c, cũng ở Lạc Dương.[La Qu�n Trung I, 1994: 445]
11. Ch�m Biện Hỉ, ở Nghi Thủy.[La Qu�n Trung I, 1994: 447]
12. Ch�m Vương Thực, ở Huỳnh Dương.[La Qu�n Trung I, 1994: 449]
13. Ch�m Tần Kỳ, ở Hoạt Ch�u.[La Qu�n Trung I, 1994: 450]
C� thơ khen Quan Vũ qu� ngũ quan trảm lục tướng như sau:
Quải ấn phong kim từ H�n tướng,
Tầm huynh di�u vọng viễn đồ ho�n.
M� kỵ X�ch thố h�nh thi�n l�,
Đao Yển thanh long xuất ngũ quan.
Trung nghĩa kh�i nhi�n xung vũ trụ,
Anh h�ng t�ng thử chấn giang sơn.
Độc h�nh trảm tướng ưng v� địch,
Kim cổ lưu đề h�n mặc gian.
[Treo ấn, g�i v�ng, từ gi� thừa tướng nh� H�n [T�o Th�o],
Đường xa mong t�m được anh.
Cỡi ngựa X�ch thố đi ng�n dặm,
Cầm đao Thanh long đi qua năm cửa ải.
L�ng trung nghĩa, quảng đại xung l�n vũ trụ,
Anh h�ng g�y chấn động n�i s�ng từ ấy.
Một m�nh ra đi, ch�m tướng, đ�u c�n ai địch nổi,
Xưa nay sự t�ch n�y vẫn l� đề t�i trong chốn văn chương.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa]
Treo ấn phong v�ng trả tướng T�o,
Dặm đường lững thững dạ x�n xao.
Ngh�n đường X�ch thố bon ch�n ngựa,
Năm ải Thanh long ngả lưỡi đao.
Bờ c�i chứa chan l�ng tiết nghĩa,
N�i non lừng lẫy tiếng anh h�o.
Một m�nh ch�m tướng ai đương nổi,
Đề vịnh xưa nay để biết bao.[La Qu�n Trung I, 1994: 450]
Sau n�y, đ� c� người đem việc Quan Vũ vượt năm ải ch�m s�u tướng bằng đao Thanh long để v� với việc tu thiền, h�ng phục t�m ph�m. Đao Thanh long v� với huệ đao; ngũ quan l� mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n x�c; s�u tướng l� lục tặc. Theo c�ch ẩn dụ đ�, người tu thiền [h�nh giả] phải biết d�ng sức mạnh của tr� huệ l�m vũ kh� sắc b�n chặt đứt những chướng ngại do th�n x�c huyết nhục [ngũ quan] g�y ra để đoạn trừ lục dục của m�nh. [Xem th�m L� Anh Dũng, Giải m� truyện T�y du [t�n bi�n], b�i "S�u bảy mười ba", H� Nội: nxb Văn h�a - Th�ng tin, 1995, tr. 121-134.]
Kinh Minh th�nh cũng nhắc:
Phong kim, khước ấn tam từ Th�o,
Khiệt quyến tầm huynh nhất điểm trung.
Thi�n l� tầm huynh thi�m nghĩa kh�,
Ngũ quan trảm tướng hữu uy phong.
Ly hiệp anh h�ng c�n kh�n nội,
Tương ph�ng huynh đệ cổ th�nh trung.
Tr� thượng tuy cao v� quyết thắng,
Vận tr� cố thức thiểu kinh lu�n.
[Ni�m v�ng, treo ấn, ba lần từ biệt T�o Th�o,
Một l�ng trung d�u dắt gia đ�nh đi t�m anh.
T�m anh ng�n dặm th�m nghĩa kh�,
Ch�m tướng năm ải tỏ uy phong.
Anh h�ng tan hợp trong trời đất,
Anh em gặp lại giữa th�nh xưa.
Tr� thượng tuy cao kh�ng quyết thắng,
Kế mưu vốn biết �t kinh lu�n.]
Về sau, Quan Vũ c�n ch�m th�m ba tướng kh�c của T�o Th�o tại chiến trường như sau:
14. Ch�m S�i Dương, ở Cổ Th�nh.[La Qu�n Trung I, 1994: 463]
15. Ch�m Hạ Hầu Tồn, ở Tương Dương.[La Qu�n Trung II, 1994: 523]
16. Ch�m Dương Linh, tướng của Th�i Th� H�n Huyền ở Trường Sa [La Qu�n Trung II, 1994: 242], v.v... Danh s�ch tr�n c� thể c�n thiếu.]
Một tướng nữa của Th�o l� B�ng Đức kh�ng bị Quan Vũ ch�m tại chiến trường, nhưng khi thua trận ở Kho�i Khẩu, bị t�y tướng của Quan l� Ch�u Thương bắt sống giải về. Đức kh�ng chịu h�ng, Quan sai đem ch�m, m� lại thương Đức c� nghĩa kh� n�n sai qu�n an t�ng tử tế [La Qu�n Trung II, 1994: 537]. Theo Werner, con Đức l� B�ng Huệ khi chiếm được Tứ Xuy�n đ� giết sạch gia quyến của Quan Vũ để trả th� cha. [Werner 1969: 229]
Minh ch�c đạt đ�n
Quan Vũ thất thủ th�nh Hạ B�, v� c�n hai chị d�u v� chưa biết tin tức Lưu Bị, Trương Phi thế n�o n�n phải ẩn nhẫn dung th�n trong qu�n T�o Th�o. Khi T�o k�o qu�n về Hứa Xương, dọc đường phải nghỉ qua đ�m ở qu�n dịch, T�o muốn cho Quan lỗi đạo với Lưu, sẽ thẹn kh�ng d�m trở về với anh m� ở lại quy h�ng Th�o, b�n lập mưu sắp đặt cho Quan v� hai chị d�u ở c�ng ph�ng trọ. Quan Vũ đ� cầm đuốc đứng hầu ngo�i cửa, từ tối đến s�ng [La Qu�n Trung I, 1994: 413]. Do sự t�ch n�y sử s�ch c�n truyền lại c�u: Minh ch�c đạt đ�n chi Quan V�n Trường, nghĩa l� Quan V�n Trường đốt đuốc cho tới s�ng. [Mayers 1971: 93]
Đời sau c� c�u đối nhắc lại kỳ t�ch n�y như sau [Xem C�u đối về Quan th�nh]:
Ngọ dạ h� nh�n năng bỉnh ch�c?
Cửu Ch�u v� địa bất phần hương.
Kinh Minh th�nh cũng nhắc:
Đ�o vi�n danh trọng thi�n cổ,
Đơn đao bỉnh ch�c ư kim.
K� T�o minh lai minh khứ,
Thốn Ng� vi H�n si�u thăng.
[Kết nghĩa vườn đ�o, ng�n xưa danh c�n trọng,
Một đao một đuốc, ng�y nay sử vẫn n�u.
Th�n tạm gởi đất T�o, khi đến l�c đi đều r� r�ng,
Nuốt Ng� v� H�n si�u thăng.]
Cũng theo kinh Minh th�nh, lập kế để ba chị em ở chung ph�ng trọ l� do Trương Li�u b�y mưu cho T�o Th�o. Khi gần s�ng, đuốc t�n lửa tắt, sẵn đao Thanh long cầm tay, Quan Vũ kho�t v�ch nh� trọ cho trống trơn để mọi người khỏi phải ngờ c� chuyện khuất lấp:
Giảm ch�c Trương Li�u mưu,
Ph� b�ch Th�nh đế nghĩa.
[Mưu Trương Li�u rắp khi đuốc tắt,
Ph� v�ch tường rạng nghĩa Th�nh qu�n.]
Anh h�ng kh� c�i thế,
Ch�c t�n đao ph� b�ch.
[Anh h�ng kh� tr�m đời,
Đuốc t�n đao ph� v�ch.]
Đơn đao ph� hội
Lưu Bị ph�i Quan Vũ trấn giữ Kinh Ch�u, nguy�n l� đất của T�n Quyền. T�n đ�i lại mấy phen kh�ng được. Lỗ T�c b�y mưu cho T�n như sau: Lỗ đ�ng qu�n ở bờ s�ng Lục Khẩu, mời Quan đến dự tiệc rồi xin trả đất, nếu kh�ng nghe th� sai năm mươi qu�n đao phủ đ� mai phục sẵn cứ x�ng ra ch�m Quan giữa tiệc.
Quan Vũ đội khăn xanh, mặc �o b�o m�u lục, ngồi thuyền đi đến. Tr�n thuyền ngo�i Ch�u Thương cầm đao Thanh long đứng hầu chỉ c� th�m t�m, ch�n người lực lưỡng giắt m� tấu hộ vệ.
Uy vũ của Quan l�m Lỗ T�c khiếp v�a. Quan kh�ng chịu trả đất, một tay cầm đao, một tay nắm chặt Lỗ ra thuyền về th�nh an to�n. Qu�n Đ�ng Ng� trước đ� �m sẵn b�n s�ng đ�nh phải th�c thủ. Đời sau qu� h�m mộ kh� ph�ch Quan, v� việc ấy c�n hơn cả Lạn Tương Như nước Triệu thời Chiến quốc, một m�nh v�o dự hội H�m Tr�, coi vua t�i nh� Tần chẳng v�o đ�u. N�n c� thơ khen tặng rằng:
Mạo thị Ng� thần nhược tiểu nhi,
Đơn đao ph� hội cảm b�nh khi.
Đương ni�n nhất đoạn anh h�ng kh�,
Ưu thắng Tương Như tại H�m Tr�.
[Coi thường quần thần nước Ng� như trẻ nhỏ,
Một đao đi dự hội, d�m xem l� chuyện b�nh thường.
Kh� ph�ch anh h�ng buổi ấy,
C�n hơn cả Lạn Tương Như ở H�m Tr�.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa.]
Một đao ph� hội uống thờ ơ,
Coi nhỏ Đ�ng Ng� tựa trẻ thơ.
Kh� kh�i anh h�ng trong cuộc rượu,
H�m Tr� gấp mấy Lạn Tương Như.[La Qu�n Trung II, 1994: 426]
Đời sau c� c�u đối vừa nhắc t�ch ch�m Nhan Lương [n�i ở tr�n], vừa nhắc t�ch đơn đao ph� hội như sau:
Thất m� trảm Nhan Lương, H� Bắc anh h�ng giai t�ng đởm;
Đơn đao hội Lỗ T�c, Giang Nam danh sĩ đ� đầu. [Xem C�u đối về Quan th�nh.]
Cạo xương trị thương
Khi Quan Vũ đ�nh qu�n T�o ở Ph�n Th�nh, bị qu�n T�o Nh�n bắn cho mũi t�n tẩm độc v�o c�nh tay phải. Thuốc độc � đầu ngấm v�o tận xương, c�nh tay sưng to, kh�ng nhấc l�n được. Hoa Đ� đến xin trị thương. Thời xưa chưa c� thuốc m� hay thuốc giảm đau, n�n Hoa Đ� đề nghị c�ch chữa như sau: phải t�m một chỗ k�n đ�o, ch�n một c�i cột, tr�n cột đ�ng một c�i v�ng sắt, Quan th� c�nh tay v�o v�ng đ�, buộc d�y lại cho chặt, tr�m khăn phủ k�n đầu Quan cho khỏi thấy cảnh kinh h�i, rồi Hoa Đ� lấy dao kho�t thịt cho tới khi l�i xương, cạo sạch miếng xương nhiễm độc đi, rịt thuốc v�o, cuối c�ng lấy chỉ kh�u lại.
Quan Vũ cười, bảo kh�ng cần phải mất c�ng rườm r� đến thế. Quan sai dọn rượu, ung dung ngồi uống rượu đ�nh cờ với thuộc tướng M� Lương, cười cười n�i n�i như kh�ng, trong l�c tay đau th� ch�a ra cho Hoa Đ� kho�t thịt, cạo xương rồn rột. Khen t�i Hoa Đ� v� dũng kh� của Quan Vũ, đời sau c� thơ rằng:
Trị bệnh tu ph�n nội ngoại khoa,
Thế gian diệu nghệ khổ v� đa.
Thần uy h�n cập duy Quan tướng,
Th�nh thủ năng y thuyết Hoa Đ�.
[Trị bệnh n�n ph�n biệt khoa nội v� khoa ngoại,
T�i trị bệnh thần diệu gi�p người đời vơi bớt khổ.
Uy thần hiếm ai s�nh kịp, chỉ c� �ng tướng họ Quan,
Tay th�nh c� thể trị bệnh, chỉ c� Hoa Đ� m� th�i.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa]
Khoa trong cũng phải c� khoa ngo�i,
Nghề thuốc tr�n đời mấy kẻ t�i.
Quan tướng người trần duy c� một,
Hoa Đ� thuốc th�nh cũng kh�ng hai.[La Qu�n Trung II, 1994: 541]
Tha T�o Th�o ở Hoa Dung
Khi b�y kế d�ng hỏa c�ng đ�nh trận X�ch B�ch, Khổng Minh ti�n liệu T�o Th�o thua chạy sẽ qua ng� Hoa Dung. Khổng Minh muốn Quan Vũ phục binh chặn ng� ấy, nhưng c�n ngại một lẽ, n�n đ� tr�nh b�y với Quan rằng:
�Khi xưa T�o Th�o đ�i tướng qu�n hậu lắm, thế n�o tướng qu�n chả c�n nhớ ơn. Nay T�o Th�o thua trận, tất chạy qua đường Hoa Dung. Nếu để tướng qu�n ra chận ở đ�, tất nhi�n tha mất T�o Th�o...�
Quan đ�p: �Khi xưa tuy t�i c� đội ơn T�o Th�o, nhưng t�i đ� ch�m Nhan Lương, Văn X� để b�o ơn rồi. Nay phỏng c� gặp nhau, c� đ�u t�i d�m tha được.�
Cuối c�ng, trước khi dẫn năm trăm qu�n đi chặn T�o, Quan phải l�m tờ cam kết, nếu tha T�o sẽ chịu tội chết.[La Qu�n Trung II, 1994: 203]
Quả nhi�n, T�o Th�o thua trận X�ch B�ch, chạy qua ng� Hoa Dung chỉ c�n hơn một trăm qu�n m� xơ x�c, kiệt sức t�n hơi. Khi Quan ra chặn đường, tướng của T�o l� Tr�nh Dục khuy�n T�o:
�T�i vẫn biết V�n Trường l� người nghĩa kh�; ngạo người tr�n m� kh�ng th�m khinh người dưới; tr�u người khoẻ m� kh�ng nỡ hiếp người nguy; �n o�n ph�n minh, t�n nghĩa r� r�ng. Thừa tướng khi xưa c� �n t�nh với �ng ấy, nay ng�i phải xuất th�n ra m� k�u cầu với y, th� họa may mới tho�t khỏi nạn n�y.� [La Qu�n Trung II, 1994: 213]
T�o hạ m�nh xin tha chết, quả nhi�n Quan kh�ng thể l�m ngơ. Kinh Minh th�nh c� ch�p lời Quan th�nh tự thuật: �K� T�o minh lai minh khứ..� [L�c tạm ở nhờ b�n T�o Th�o, lui tới đi về đều ph�n minh, r� r�ng...] Quan Vũ tuy n�i rằng đ� t�m c�ch trả ơn T�o xong rồi, nhưng nghĩa t�nh th� biết sao trả cho hết! Cho n�n Khổng Minh đẩy Quan v�o ng� Hoa Dung l� đẩy Quan v�o kh�c �o le nan giải của Quan. Đoạn n�y La Qu�n Trung tả kỹ lắm:
�V�n Trường xưa nay vẫn l� người trọng nghĩa, nhớ đến t�nh nghĩa khi xưa T�o Th�o đ�i m�nh rất hậu, c�ng l� tặng �o tặng v�ng l�c ra khỏi năm cửa ải, nghe thấy Th�o n�i, cũng động l�ng. Vả lại tr�ng thấy qu�n T�o Th�o đứa n�o cũng rơm rớm nước mắt, đứng run lập cập, lại c�ng thương kh�ng nỡ giết. Bởi thế quay đầu ngựa về, r� r�ng c� � tha cho T�o Th�o. V�n Trường quay ngựa lại, th� T�o Th�o đ� chạy xa mất rồi. Mới qu�t to l�n một tiếng, c�c qu�n sĩ xuống cả ngựa, lạy thụp xuống đất, sụt s�i kh�c l�c. V�n Trường lại c�ng thương x�t lắm. Giữa l�c ấy Trương Li�u ở mặt sau tế ngựa đến, V�n Trường lại động t�nh bạn cũ, kh�ng biết n�i ra l�m sao, chỉ thở d�i một tiếng, rồi tha tuốt cho cả qu�n sĩ đi.� Đời sau c� thơ rằng:
T�o man binh bại tẩu Hoa Dung,
Ch�nh dữ Quan c�ng hiệp lộ ph�ng.
Chỉ vi đương sơ �n nghĩa trọng,
Ph�ng khai kim tỏa tẩu giao long.
[Binh T�o Th�o thua chạy tới Hoa Dung,
Ngay l�c ấy gặp Quan c�ng nơi đường hẹp.
Chỉ v� buổi ban đầu �n s�u nghĩa nặng,
Mở xiềng v�ng cho giao long chạy tho�t.
L� Anh Minh phi�n �m, dịch nghĩa]
T�o Th�o thua to chạy tứ tung,
Kh�o đ�u đường hẻm gặp Quan c�ng.
Chỉ v� t�nh nghĩa c�n ghi tạc,
N�n để rồng t� tho�t xuống s�ng.[La Qu�n Trung II, 1994: 214]
Dẫu thừa biết rằng hễ tha T�o th� bản th�n sẽ chịu chết v� khi ra qu�n đ� cam kết trước rồi, m� Quan vẫn cứ tha. C�i t�m l� ấy của Quan chắc �t c� ai đặt m�nh v�o đ�ng vị tr� của Quan để cảm nhận cho thật đ�ng. Phải chăng, l� người thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, Quan đ� đem ch�nh sinh mệnh của m�nh ra để chứng nghiệm lời của Khổng: �S�t th�n dĩ th�nh nh�n.� [Luận ngữ, Vệ Linh c�ng, XV] v� lời của Mạnh: �Xả sinh nhi thủ nghĩa.� [Mạnh tử, C�o tử thượng, X] V� đ� bỏ c�i sống t�m c�i chết để giữ tr�n lấy hai chữ nh�n nghĩa, cho n�n Quan Vũ c�n m�i thi�n thu l� Quan th�nh Đế qu�n.
Tinh thần nh�n nghĩa
Chỉ n�i Quan Vũ l� trung nghĩa như s�ch sử lưu truyền l� chưa đủ. Ở Quan c�n l� đức nh�n nghĩa. Do nh�n nghĩa m� c� lượng dung người. Khi đ�nh Trường Sa, Quan Vũ giao chiến c�ng l�o tướng Ho�ng Trung. Ng�y đầu, quần thảo hơn trăm hiệp kh�ng ph�n thắng bại. Ng�y kế, đ�nh năm s�u mươi hiệp vẫn nghi�ng ngửa đồng c�n. Quan Vũ b�n t�nh chuyện sử dụng ng�n đ� đao tuyệt chi�u. Thế l�: �V�n Trường quay ngựa chạy về. Ho�ng Trung đuổi theo, V�n Trường sắp sửa quay đao ch�m ngược lại, bỗng nghe sau lưng huỵch một tiếng cực to, ngoảnh lại xem, th� thấy Ho�ng Trung phải con ngựa chiến khuỵu ch�n trước, ng� lăn xuống đất. V�n Trường liền quay ngựa lại, hai tay giơ Thanh long đao l�n kề v�o Ho�ng Trung m� qu�t rằng: Tao h�y tha t�nh mạng cho m�y, mau mau về đổi ngựa kh�c ra đ�nh nhau.� [La Qu�n Trung II, 1994: 243]
Giết được m� kh�ng giết. Đức đ� lớn thay. Cho n�n nếu kh�ng phải l� Quan Vũ ở ng� Hoa Dung, th� con người ki�u kh� như T�o Th�o chưa chắc đ� th�m xuống ngựa xin được tha chết.
Trong đời chinh chiến th�nh bại đắc thất của Quan, Quan cam chết v� hai chữ nh�n nghĩa, m� Quan ẩn nhẫn kh�ng chết cũng v� hai chữ nh�n nghĩa.
Cam chết v� nh�n nghĩa cho n�n khi bỏ chạy khỏi Mạch Th�nh, sa v�o tay T�n Quyền, T�n lấy lợi ri�ng m� chi�u h�ng, Quan mắng T�n xối xả để được chết.
Cũng vậy, trước kia, khi Quan thua T�o ở trận Hạ B�, l�ng đ� đ�nh quyết tử, n�n khi Trương Li�u dụ h�ng, Quan khẳng kh�i n�i: �Quan n�y tuy thế đ� c�ng, nhưng c�i chết ta coi như kh�ng vậy.�
Trương n�i: �Kh�ng sợ thi�n hạ cười �?� Quan hỏi: �Ta v� trung nghĩa m� chết, sao lại cười?� Trương n�i, nếu Quan chết l�c n�y th� c� ba điều đ�ng cười:
[i] phụ lời thề kết nghĩa vườn đ�o;
[ii] phụ lời Lưu Bị ph� th�c gởi gấm hai chị d�u;
[iii] phụ l�ng sở cậy của Lưu trong thế chia ba ch�n vạc.
Trương đem nh�n nghĩa ra thuyết, n�n rốt cuộc Quan bỏ � định liều chết, chấp nhận tạm về với T�o. Đ� l� cam sống nhẫn v� nh�n nghĩa.