Hình thức phản ánh tâm lý là gì

Hiện nay, có nhiều trường phái và quan điểm xoay quanh chủ đề quan điểm về bản chấthiện tượng tâm lýngười. Dưới đây là ba quan điểm được áp dụng nhiều nhất bao gồm:

Quan điểm duy tâmcho rằng: Tâm lý con người do thượng đế sáng tạo ra và nhập vào thể xác con người. Tâm lý không phụ thuộc vào khách quan cũng như điều kiện thực tại của cuộc sống.

Quan điểm duy vật tầm thường: Tâm lý, tâm hồn được cấu tạo từ vật chất, do vật chất trực tiếp sinh ra như gan tiết ra mật. Họ đồng nhất cái vật lý, cái sinh lý với cái tâm lý. Phủ nhận vai trò của chủ thể, tính tích cực, năng động của tâm lý, ý thức, phủ nhận bản chất xã hội của tâm lý.

Quan điểm duy vật biện chứng: Bản chất hiện tượng tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của mỗi người.Tâm lý người mang bản chất xã hội và tính lịch sử.

Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan

Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của mỗi người. Trong đó, phản ánh là quá trình tác động qua lại hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết [hình ảnh]. Tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động.

Các loại phản ánh tâm lý người là gì?

Phản ánh cơ học:như viên phấn được dùng để viết lên bảng để lại vết trên bảng và ngược lại bảng làm mòn [để lại vết] trên đầu viên phấn.

Phản ánh vật lý:Mọi vật chất đều có hình thức phản ánh này. Như khi mình đứng trước gương thì mình thấy hình ảnh của mình qua gương.

Phản ánh sinh học:Phản ánh này có ở thế giới sinh vật nói chung. Ví dụ như Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời mọc.

Phản ánh hóa học:Là sự tác động của hai hợp chất tạo thành hợp chất mới. Như H2 + O2 -> H2O

Phản ánh xã hội:Phản ánh các mối quan hệ trong xã hội mà con người là thành viên sống và hoạt động. Như trong cuộc sống cần có sự giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau như câu Lá lành đùm lá rách.

Phản ánh tâm lý:Là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất. Đó là kết quả của sự tác động của hiện thực khách quan vào não người và do não tiến hành.

Điều kiện cần để có phản ánh tâm lý người là gì?

Sản phẩm của sự phản ánh đó là hình ảnh tâm lý trên vỏ não mang tính tích cực và sinh động. Nó khác xa về chất so với các hình ảnh cơ học, vật lý, sinh lý,

Hình ảnh tâm lý mang tính tích cực và sinh động: Hình ảnh tâm lý mang tính tích cực bởi kết quả của lần phản ánh trước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm mới có sự tồn tại và phát triển.

Giả dụ trong một lần đi chơi ta quen được một người và có ấn tượng tốt về người đó. Một thời gian sau gặp lại ta bắt gặp một hành động không hay của người đó. Thì thoạt tiên chúng ta sẽ không tin người đó có thể hành động như vậy. Và suy nghĩ nhiều lý do để biện minh cho hành động đó. Do đó có thể nói, kết quả của lần phản ánh trước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lần phản ánh sau.

Hình ảnh tâm lý còn mang tính chủ thể và đậm màu sắc cá nhân: Ví dụ hai điều tra viên cùng tham gia khám nghiệm hiện trường nhưng do trình độ nhận thức, chuyên môn,khác nhau nên kết quả điều tra khác nhau. Hay con gái yêu bằng tai, con trai yêu bằng mắt.

Nguyên nhân

+ Mỗi người có đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ.

+ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau.

+ Đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống dẫn đến tâm lí của người này khác với tâm lý của người kia.

Tuy nhiên không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động đến não là có hình ảnh tâm lý. Muốn có hình ảnh tâm lý thì điều kiện đủ là phải thông qua con đường hoạt động và giao tiếp.

Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử

Nguồn gốc của tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử

Thế giới khách quan [thế giới tự nhiên và xã hội]: Trong đó nguồn gốc xã hội là quyết định bản chất hiện tượng tâm lý người, thể hiện qua: Các mối quan hệ kinh tế-xã hội, đạo đức, pháp quyền, mối quan hệ con người con người, từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương, quan hệ cộng đồng, nhóm,

Các mối quan hệ trên quyết định bản chất hiện tượng tâm lý người [như Mark nói: Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội]. Trên thực tế, nếu con người thoát ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người thì tâm lý người sẽ mất bản tính người.

Ví dụ: Rochom Pngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm, Rochom được tìm thấy khi trên người không mặc quần áo và di chuyển như một con khỉ. Nói chuyện hay giao tiếp chỉ phát ra những tiếng gừ gừ, những âm thanh vô nghĩa, không thể hòa nhập vào cuộc sống con người.

Từ đó có thể thấy tâm lý người chỉ hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác động của hiện thực khách quan lên não người bình thường và phải có hoạt động và giao tiếp.

* Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, là sản phẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội. Chủ thể của nhận thức và hoạt động của giao tiếp một cách chủ động và sáng tạo.

Ví dụ: Như ví dụ trên, Rochom do không tham gia hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ với con người nên không có tâm lý người bình thường.

Cơ chế hình thành nguồn gốc tâm lý người là gì?

Cơ chế lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động và mối quan hệ giao tiếp của con người có tính quyết định.

Ví dụ: Một đứa trẻ khi sinh ra chúng như một trang giấy trắng. Nhưng sau một thời gian được bố mẹ chăm sóc, dạy dỗ, được tiếp xúc với nhiều người. Thì nó ngày càng học hỏi, lĩnh hội, tiếp thu và hiểu biết nhiều hơn về mọi việc xung quanh.

Tâm lý hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lí của mỗi con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.

Tuy nhiên không phải là sự copy một cách máy móc mà đã được thay đổi thông qua đời sống tâm lý cá nhân. Chính vì thế mỗi cá nhân vừa mang những nét chung đặc trưng cho xã hội lịch sử, vừa mang những nét riêng tạo nên màu sắc của mỗi cá nhân.

Ví dụ về các hiện tượng tâm lý người về định kiến xã hội: Trước đây thì xã hội rất định kiến về việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ xã hội biến đổi, sống phóng túng hơn nên con người xem vấn đề đó là bình thường.

Tóm lại, tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử. Nó là hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người thông qua hoạt động và giao lưu tích cực của mỗi con người. Trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định. Nó có bản chất xã hội, tính lịch sử và tính chủ thể.

Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email:; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email:.Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Video liên quan

Academia.edu no longer supports Internet Explorer.

To browse Academia.edu and the wider internet faster and more securely, please take a few seconds to upgrade your browser.

Phản ánh là một hình thức hoạt động lý thuyết của một cá nhân phản ánh một cái nhìn hoặc thể hiện sự đảo ngược thông qua sự hiểu biết về một hành động cá nhân của một người, cũng như luật pháp của họ. Sự phản ánh nội tâm của nhân cách phản ánh hoạt động của sự hiểu biết về bản thân, tiết lộ những đặc điểm của thế giới tâm linh của cá nhân. Nội dung của sự phản ánh được xác định bởi hoạt động cảm giác khách quan. Khái niệm về sự phản ánh bao gồm nhận thức về thế giới khách quan của văn hóa, và theo nghĩa này, sự phản chiếu là một phương pháp của triết học, và phép biện chứng là sự phản ánh của tâm trí.

Phản ánh trong tâm lý học là sự hấp dẫn của chủ thể đối với bản thân anh ta, đối với ý thức của anh ta, đối với các sản phẩm của hoạt động của chính anh ta hoặc bất kỳ suy nghĩ lại. Khái niệm truyền thống bao gồm nội dung, cũng như các chức năng của ý thức của một người, là một phần của cấu trúc nhân cách [lợi ích, giá trị, động cơ], bao gồm suy nghĩ, mô hình hành vi, cơ chế ra quyết định, nhận thức và phản ứng cảm xúc.

Các loại phản ánh

A. Karpov, cũng như các nhà nghiên cứu khác đã xác định các loại phản xạ sau: tình huống, hồi cứu, triển vọng.

Phản ánh tình huống là động lực và lòng tự trọng, đảm bảo sự tham gia của chủ thể vào tình huống, cũng như phân tích những gì đang xảy ra và hiểu về các yếu tố phân tích. Loại này được đặc trưng bởi khả năng tương quan với tình huống khách quan của hành động của chính nó, khả năng kiểm soát và phối hợp các yếu tố hoạt động tùy thuộc vào điều kiện thay đổi.

Phản ánh hồi tưởng của một người là một phân tích về các sự kiện, hoạt động được thực hiện trong quá khứ.

Phản ánh triển vọng là suy nghĩ về một hoạt động sắp tới, lập kế hoạch, trình bày quá trình hoạt động, chọn cách thức thực hiện hiệu quả nhất, dự báo kết quả có thể.

Các nhà nghiên cứu khác phân biệt phản ánh cơ bản, khoa học, triết học, tâm lý, xã hội. Mục tiêu cơ bản là sự cân nhắc, cũng như phân tích tính cách của hành động và kiến ​​thức của chính họ. Loại này là đặc trưng của mỗi cá nhân, vì mỗi suy nghĩ về nguyên nhân của sai lầm và thất bại để thay đổi ý tưởng về môi trường và thế giới, để sửa chữa sai lầm, không cho phép chúng trong tương lai. Điều kiện này cho phép bạn học hỏi từ những sai lầm cá nhân.

Phản ánh khoa học tập trung vào nghiên cứu quan trọng về phương pháp khoa học, nghiên cứu kiến ​​thức khoa học, phương pháp để đạt được kết quả khoa học và quy trình chứng minh các định luật và lý thuyết khoa học. Trạng thái này được thể hiện trong phương pháp của kiến ​​thức khoa học, logic, tâm lý của sáng tạo khoa học.

Phản ánh xã hội là sự hiểu biết của một cá nhân khác thông qua sự phản ánh cho anh ta. Cô được phân loại là một sự phản bội nội bộ. Ý tưởng về những gì người khác nghĩ về cá nhân là quan trọng trong nhận thức xã hội. Đây là việc biết người khác [nhưng tôi nghĩ], khi họ nghĩ về tôi và biết chính mình có lẽ qua con mắt của người khác. Một nhóm bạn rộng cho phép một người biết nhiều về bản thân họ.

Suy tư triết học

Quan điểm cao nhất là sự phản ánh triết học, bao gồm những suy tư và lý luận về nền tảng của văn hóa con người, cũng như ý nghĩa của sự tồn tại của con người.

Socrates coi trạng thái phản ánh là phương tiện quan trọng nhất để tự hiểu biết về tính cách, cũng như cơ sở của sự cải thiện tâm linh. Đó là khả năng của lòng tự trọng quan trọng đóng vai trò là đặc điểm phân biệt quan trọng nhất của cá nhân như một người có lý trí. Nhờ trạng thái này, những sai lầm của con người, những định kiến ​​được xóa bỏ, sự tiến bộ tâm linh của loài người trở thành hiện thực.

Pierre Teilhard de Chardin lưu ý rằng trạng thái phản xạ phân biệt con người với động vật và cho phép cá nhân không chỉ biết điều gì đó, mà còn có thể biết về kiến ​​thức của mình.

Ernst Cassirer tin rằng sự phản chiếu được thể hiện ở khả năng cách ly khỏi tất cả các hiện tượng cảm giác một số yếu tố ổn định để cô lập và tập trung sự chú ý vào chúng.

Phản ánh tâm lý

A. Buzeman là một trong những người đầu tiên trong tâm lý học xem xét trạng thái phản xạ, giải thích nó như một sự chuyển giao kinh nghiệm từ thế giới bên ngoài sang chính mình.

Nghiên cứu tâm lý của sự phản ánh có hai mặt:

- một cách để nhà nghiên cứu nhận ra các căn cứ, cũng như kết quả nghiên cứu;

- tài sản cơ bản của chủ thể, trong đó có nhận thức, cũng như quy định về cuộc sống của họ.

Phản ánh trong tâm lý học là một người suy nghĩ, mục đích của nó là xem xét, cũng như phân tích hoạt động của một người, chính mình, một trạng thái của riêng một người, sự kiện trong quá khứ và hành động.

Độ sâu của trạng thái có liên quan đến lợi ích của cá nhân trong quá trình này, cũng như khả năng phân bổ sự chú ý của anh ta ở mức độ thấp hơn hoặc lớn hơn, bị ảnh hưởng bởi giáo dục, ý tưởng về đạo đức, phát triển cảm xúc đạo đức và mức độ tự kiểm soát. Người ta tin rằng các cá nhân thuộc các nhóm chuyên nghiệp và xã hội khác nhau trong việc sử dụng vị trí phản chiếu. Khách sạn này được coi là một cuộc trò chuyện hoặc một loại đối thoại với chính mình, cũng như khả năng tự phát triển cá nhân.

Suy tư là một ý nghĩ tập trung vào một ý nghĩ hoặc vào chính nó. Nó có thể được coi là một hiện tượng di truyền thứ cấp phát sinh từ thực tiễn. Đây là lối thoát của thực tiễn vượt ra ngoài ranh giới của chính nó, cũng như việc thực hành chuyển sang chính nó. Tâm lý của tư duy sáng tạo và sáng tạo diễn giải quá trình này như một sự suy nghĩ lại và thấu hiểu theo chủ đề của các khuôn mẫu của kinh nghiệm.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính cá nhân của cá nhân, trạng thái phản xạ, sự sáng tạo, cho phép chúng ta nói về các vấn đề về tính độc đáo sáng tạo của tính cách, cũng như sự phát triển của nó. E. Husserl, một tác phẩm kinh điển của tư tưởng triết học, lưu ý rằng một vị trí phản chiếu là một cách nhìn biến đổi từ hướng của đối tượng.

Các đặc điểm tâm lý của tình trạng này bao gồm khả năng thay đổi nội dung của ý thức, cũng như thay đổi cấu trúc của ý thức.

Hiểu về sự phản chiếu

Tâm lý học Nga xác định bốn phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu về sự hiểu biết về sự phản ánh: hợp tác, giao tiếp, trí tuệ [nhận thức], cá nhân [tâm lý học nói chung].

Hợp tác xã là một phân tích các hoạt động chủ đề, thiết kế một hoạt động tập thể nhằm điều phối các vị trí chuyên nghiệp, cũng như vai trò nhóm của các chủ thể hoặc hợp tác của các hành động chung.

Giao tiếp là một thành phần của giao tiếp phát triển, cũng như nhận thức giữa các cá nhân, như một chất lượng nhận thức cụ thể của một cá nhân bởi một cá nhân.

Trí tuệ hay nhận thức là khả năng của chủ thể phân tích, cô lập, tương quan hành động của chính mình với tình huống khách quan và cũng xem xét nó tùy thuộc vào nghiên cứu các cơ chế tư duy.

Cá nhân [tâm lý chung] là việc xây dựng một hình ảnh mới về bản thân, trong quá trình giao tiếp với các cá nhân khác, cũng như làm việc tích cực và phát triển kiến ​​thức mới về thế giới.

Phản ánh cá nhân bao gồm một cơ chế tâm lý để thay đổi ý thức cá nhân. A.V. Rossokhin tin rằng khía cạnh này là một quá trình chủ động của việc tạo ra ý nghĩa, dựa trên sự độc đáo của người có khả năng nhận ra vô thức. Đây là một công việc nội bộ, dẫn đến việc hình thành các chiến lược mới, cách đối thoại nội bộ, để thay đổi giá trị - hình thành ngữ nghĩa, sự tích hợp tính cách trong một trạng thái mới, cũng như toàn diện.

Phản ánh hoạt động

Phản xạ được coi là một kỹ năng đặc biệt, bao gồm khả năng nhận ra trọng tâm của sự chú ý, cũng như theo dõi trạng thái tâm lý, suy nghĩ, cảm xúc. Nó thể hiện cơ hội để quan sát chính nó như thể từ phía người ngoài, nó cho phép bạn thấy chính xác sự tập trung chú ý và trọng tâm của nó. Tâm lý học hiện đại theo khái niệm này có nghĩa là bất kỳ suy nghĩ của một cá nhân, nhằm mục đích hướng nội. Đây là một đánh giá về tình trạng, hành động, suy ngẫm của anh ấy về bất kỳ sự kiện nào. Độ sâu của nội tâm phụ thuộc vào mức độ đạo đức, giáo dục của một người, khả năng kiểm soát bản thân.

Phản ánh của hoạt động là nguồn chính của sự xuất hiện của những ý tưởng mới. Trạng thái phản chiếu, đưa ra một tài liệu nhất định, sau đó có thể phục vụ cho việc quan sát, cũng như phê bình. Cá nhân là kết quả của sự thay đổi nội tâm và vị trí phản chiếu đại diện cho một cơ chế làm cho những suy nghĩ ngầm rõ ràng. Trong những điều kiện nhất định, một trạng thái phản xạ trở thành một nguồn kiến ​​thức thậm chí còn sâu sắc hơn những trạng thái mà chúng ta sở hữu. Sự phát triển nghề nghiệp của một cá nhân có liên quan trực tiếp đến trạng thái này. Sự phát triển tự nó diễn ra không chỉ về mặt kỹ thuật, mà cả về trí tuệ cũng như cá nhân. Một người mà sự phản chiếu là người ngoài hành tinh không kiểm soát cuộc sống của anh ta và dòng sông quan trọng mang anh ta theo hướng hiện tại.

Sự phản ánh của hoạt động cho phép cá nhân nhận ra những gì người đó đang làm bây giờ, nơi anh ta và nơi anh ta cần di chuyển để phát triển. Một trạng thái phản xạ nhằm nhận ra nguyên nhân, cũng như nền tảng của các phán đoán cá nhân, thường được gọi là triết học.

Phản ánh của hoạt động là quan trọng đối với một người tham gia vào công việc trí tuệ. Nó là cần thiết khi tương tác nhóm giữa các cá nhân là cần thiết. Ví dụ, quản lý đề cập đến trường hợp này. Phản ánh phải được phân biệt với tự nhận dạng .

Mục tiêu phản ánh

Không có suy tư thì không có học. Các cá nhân lặp lại các hoạt động được đề xuất trong một trăm lần một mẫu, nó có thể không bao giờ học được gì.

Mục đích của sự phản ánh là xác định, nhớ lại và nhận ra các thành phần của hoạt động. Đây là các loại, ý nghĩa, phương pháp, giải pháp, vấn đề và kết quả. Không có nhận thức về cách học, cơ chế nhận thức, học viên không thể thích hợp với kiến ​​thức mà họ có được. Đào tạo diễn ra khi sự phản ánh có hướng dẫn được kết nối, do đó các sơ đồ hoạt động được phân biệt, cụ thể là, cách giải quyết các vấn đề thực tế.

Cảm giác phản xạ là một kinh nghiệm nội bộ, một cách tự hiểu biết và cũng là một công cụ tư duy cần thiết. Sự phản ánh có liên quan nhất trong học tập từ xa.

Phát triển sự phản ánh

Sự phát triển của sự phản chiếu là vô cùng quan trọng để thay đổi một cá nhân có đầu óc tỉnh táo để tốt hơn. Phát triển bao gồm các phương pháp sau:

- phân tích hành động cá nhân sau tất cả các sự kiện quan trọng, cũng như đưa ra quyết định khó khăn;

- cố gắng đánh giá bản thân đầy đủ;

- suy nghĩ về cách bạn hành động và cách hành động của bạn trong mắt người khác, đánh giá hành động của bạn về khả năng thay đổi điều gì đó, đánh giá kinh nghiệm thu được;

- cố gắng kết thúc ngày làm việc của bạn bằng một phân tích về các sự kiện, tinh thần chạy qua tất cả các tập của ngày đi, đặc biệt tập trung vào những tập mà bạn không hài lòng và đánh giá tất cả những khoảnh khắc tồi tệ với cái nhìn của người quan sát bên ngoài;

- định kỳ kiểm tra ý kiến ​​cá nhân của bạn về người khác, phân tích ý tưởng cá nhân sai hay đúng.

- giao tiếp nhiều hơn với những người không giống bạn, tuân thủ một quan điểm khác với quan điểm của bạn, bởi vì mỗi nỗ lực để hiểu một người khác biệt đều có thể kích hoạt phản xạ.

Đạt được thành công cho phép chúng ta nói về sự phát triển của một vị trí phản chiếu. Người ta không nên sợ hiểu một cá nhân khác, vì đây không phải là sự chấp nhận vị trí của anh ta. Tầm nhìn sâu và rộng về tình huống làm cho tâm trí của bạn linh hoạt nhất, cho phép bạn tìm ra giải pháp phối hợp và hiệu quả. Để phân tích hành động cá nhân, sử dụng các vấn đề phát sinh tại một thời điểm cụ thể. Trong những tình huống khó khăn nhất, có thể tìm thấy một phần của truyện tranh và nghịch lý. Nếu bạn nhìn vấn đề của mình từ một góc độ khác, bạn sẽ nhận thấy điều gì đó buồn cười trong đó. Kỹ năng này cho thấy mức độ cao của vị trí phản chiếu. Thật khó để tìm thấy một cái gì đó buồn cười trong vấn đề, nhưng điều này sẽ giúp giải quyết nó.

Sáu tháng sau, phát triển khả năng phản xạ vị trí, bạn sẽ nhận thấy rằng bạn đã thành thạo khả năng hiểu con người, cũng như chính bản thân họ. Bạn sẽ ngạc nhiên khi bạn có thể dự đoán hành động của người khác, cũng như dự đoán suy nghĩ. Bạn sẽ cảm thấy một lực lượng mạnh mẽ và học cách hiểu chính mình.

Phản xạ là một vũ khí hiệu quả và tinh tế. Hướng này có thể được phát triển vô tận, và sử dụng khả năng trong các lĩnh vực đa dạng nhất của cuộc sống.

Sự phát triển của sự phản ánh tính cách không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nếu khó khăn phát sinh, sau đó tăng kỹ năng giao tiếp của bạn để đảm bảo sự phát triển của một thái độ phản ánh.

Video liên quan

Chủ Đề