Giảm sử dụng thuốc diệt cỏ thuốc trừ sâu và phân bón trong nông nghiệp

"Trợ thủ" đắc lực của nhà nông

Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật [BVTV] Việt Nam Nguyễn Văn Sơn cho biết, từ những năm 1950, ở nhiều nước trên thế giới, thuốc trừ cỏ đã giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, giúp cải thiện năng suất nông nghiệp, tiết kiệm sức lao động cho người nông dân, cải thiện thu nhập nông hộ. So với các phương thức làm cỏ khác, thuốc trừ cỏ là công cụ quản lý cỏ dại phổ biến và được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Nếu không có các sản phẩm thuốc trừ cỏ, khoảng 40 đến 45% sản lượng nông nghiệp sẽ bị thiệt hại. Thêm vào đó, người nông dân sẽ phải trả chi phí cao gấp 20 lần cho phòng trừ cỏ dại bằng phương pháp thủ công.

Theo PGS, TS Nguyễn Trần Oánh, Hội Khoa học Kỹ thuật BVTV Việt Nam, chuyên gia về thuốc BVTV, hiện nay, danh mục thuốc trừ cỏ được phép sử dụng tại Việt Nam có hơn 70 hoạt chất và nhiều hỗn hợp các hoạt chất thuốc trừ cỏ với nhau. Trong các loại thuốc BVTV đang được phép sử dụng tại Việt Nam thì thuốc trừ cỏ hóa học được sử dụng với khối lượng nhiều và phổ biến hơn cả do chi phí thấp, hiệu lực phòng trừ cỏ cao. So với thuốc trừ sâu và trừ bệnh, nói chung thuốc trừ cỏ an toàn hơn nhiều. Ở nồng độ và liều lượng khuyến cáo, thuốc trừ cỏ ít độc với người và động vật máu nóng, động vật hoang dã, ong; ít hay không độc với các loài ký sinh thiên địch, ít hại đến quần thể sinh vật và vi sinh vật đất, không làm chai đất. Phần lớn thuốc trừ cỏ dễ bị đất phân hủy, không tồn lưu lâu trong đất, bị đất hấp thụ, ít bị rửa trôi; thường không để lại dư lượng trên nông sản do dùng sớm, thời gian cách ly dài và do kỹ thuật dùng [không để thuốc tiếp xúc nhiều với cây]. Dùng thuốc trừ cỏ tiện lợi, mang hiệu quả kinh tế cao. Nhờ thuốc trừ cỏ, nông dân dễ canh tác, rút ngắn thời gian lao động, thực hiện đúng thời vụ, khắc phục được tình trạng thiếu nhân lực, nhất là ở miền núi và các trang trại. Thêm vào đó, nguồn sâu bệnh, chuột cũng bị hạn chế, giảm tác hại của chúng đến cây trồng. Trong sản xuất nông nghiệp, việc dùng thuốc diệt cỏ đã trở thành thói quen của nhiều nông dân Việt Nam. Những năm 1970 của thế kỷ trước, lượng thuốc trừ cỏ dùng không đáng kể; thì nay lượng thuốc trừ cỏ vươn lên ngang với thuốc trừ bệnh, gần bằng thuốc trừ sâu cho cây trồng.

Tuân thủ các nguyên tắc kỹ thuật khi sử dụng

Ở một số nơi, người dân dùng biện pháp che phủ để diệt cỏ thay cho thuốc trừ cỏ. Theo nhiều nhà khoa học, biện pháp này có tác dụng ngăn ánh sáng mặt trời tiếp xúc với mầm cỏ. Thiếu ánh sáng, mầm cỏ không phát triển được, sẽ bị chết. Tuy nhiên, ở vùng sâu vùng xa, người dân khó có điều kiện để mua màng phủ trên một diện tích lớn như vậy. Hơn nữa, khi cỏ dại đã phát triển thành cây, biện pháp này sẽ không còn tác dụng. Nếu sản xuất trên diện tích rộng, nhân lực ít, không dùng thuốc trừ cỏ thì nông dân khó có thể diệt cỏ dại để kịp khung thời vụ.

Theo PGS, TS Nguyễn Trần Oánh, nhiều người không biết được lợi ích của thuốc trừ cỏ mà chỉ thấy mặt tiêu cực của chúng và coi thuốc trừ cỏ cũng độc như các thuốc BVTV khác. Thậm chí, có ý kiến cho rằng thuốc trừ cỏ giống như đi-ô-xin - nguyên nhân dẫn đến một số bệnh như: ung thư, rối loạn thần kinh, vô sinh và nhiều bệnh tật khác, không chỉ gây bệnh cho người trực tiếp sử dụng mà còn di truyền sang thế hệ khác... Ðây là suy đoán thiếu căn cứ, phản khoa học.

Mặc dù thuốc trừ cỏ mang lại hiệu quả cao nhưng theo Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam Nguyễn Văn Sơn, tại Việt Nam vẫn còn tình trạng lạm dụng thuốc trừ cỏ, sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, sử dụng sai mục đích. Trình độ nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của một số người sử dụng thuốc trừ cỏ là những nguyên nhân chính gây ra một số ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cộng đồng và môi trường trong thời gian gần đây. Ở một số nơi, vẫn còn tình trạng người dân dùng thuốc không đúng mục đích, không đúng thuốc, quá liều lượng, xử lý quá nhiều lần, không đúng thời điểm. Nhiều trường hợp người sử dụng thuốc trừ cỏ bị ngộ độc do không dùng đồ bảo hộ. Do vậy, việc phòng trừ cỏ dại cần thực hiện theo biện pháp quản lý cỏ dại tổng hợp. Nhà nông cần chọn lựa các thuốc trừ cỏ an toàn, phù hợp với điều kiện canh tác của Việt Nam. Cơ quan chức năng cần tiến hành hoạt động truyền thông hướng dẫn, đào tạo nông dân sử dụng các thuốc trừ cỏ có trách nhiệm, an toàn và hiệu quả. Người sản xuất trước khi sử dụng thuốc trừ cỏ cần tìm hiểu thông tin kỹ thuật trên bao bì nhãn mác các sản phẩm định sử dụng để biết và hiểu về dạng thuốc, tác động cũng như thời điểm áp dụng hay cách tác động của thuốc. Nhiều loại thuốc trừ cỏ có tác dụng chọn lọc đối với một số nhóm cỏ nhất định. Vì vậy, nông dân cần đọc kỹ thuốc đó có tác dụng hữu hiệu đối với những loại cỏ nào mà nhà sản xuất công bố trên bao bì để lựa chọn. Ðồng thời, dùng đúng loại thuốc cần thiết và dùng thuốc trừ cỏ theo nguyên tắc bốn đúng [đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng, đúng cách].

Thứ sáu, 17/09/2021 - 08:00 AM

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc [FAO], một kết quả của nghiên năm 2009 cho thấy cỏ dại gây thiệt hại lên đến 95 tỷ USD mỗi năm [trong đó 70 tỷ USD ở các nước nghèo].

95 tỷ USD tương đương 380 triệu tấn lúa mì, chiếm hơn một nửa sản lượng lúa mì toàn thế giới. Đối với Việt Nam, vấn đề cỏ dại được nông dân quan tâm hàng đầu. Cỏ dại làm giảm độ phì nhiêu của đất, giảm năng suất và chất lượng các loại nông sản, làm tăng chi phí nhân công.

Mùa mưa đang đến, là mùa gieo trồng mới, cũng là cơ hội cho cỏ dại phát triển một cách mạnh mẽ, là nguy cơ cháy rừng rất cao khi chuyển từ giai đoạn mùa mưa qua mùa khô và còn là nơi trú ẩn cho các loại nấm mốc, côn trùng gây hại và chuột gây hại mùa màng.

Nguy cơ cháy rừng rất cao nếu không chú ý xử lý triệt để cỏ hoang dại. Ảnh: TL.

Một số vấn đề về thuốc trừ cỏ

Khi chưa có thuốc trừ cỏ, người dân thường nhổ, cuốc và bừa… nhưng chỉ thực hiện ở diện tích nhỏ, chi phí cao. Ví dụ trồng 1ha mía phải cần 25 - 30 công lao động và mỗi công phải trả ít nhất từ 150.000 - 250.000 đ. Do nhổ cỏ, cuốc bằng thủ công nên cây trồng rất dễ bị xâm nhập bởi nấm bệnh, vi khuẩn khi bộ rễ bị tổn thương như cây hồ tiêu…

Biện pháp cơ giới hoá: Đây là biện pháp tối ưu nhất vì sử dụng cày, xới, bừa cho đất tơi xốp, tạo thông thoáng lớp đất mặt và chiều sâu của mặt đất, sau đó vun liếp, ô, thửa… như các loại cây như: Mía, dứa, đậu các loại…

Nhưng hạn chế là cây trồng đã mọc xen lẫn trong rừng cỏ thì rất khó sử dụng cơ giới hóa. Những vùng đất gò đồi dốc không thực hiện được, kể cả diện tích nhỏ, manh mún. Cây trồng cũng dễ bị tổn thương khi sử dụng máy móc thiết bị như cây cao su, tiêu ...

Biện pháp trồng xen cây trồng khác: Đây là biện pháp mang lại lợi ích rất cao. Khi trồng cây dài ngày, chúng ta xen cây ngắn ngày, vừa mang lại kinh tế từ cây trồng phụ, vừa giải quyết cỏ dại và tái tạo nguồn phân xanh cho cây trồng sau khi thu hoạch cây ngắn ngày. Nhưng hạn chế là khả năng cây trồng phụ hấp thụ phân bón trước cây lâu năm.

Biện pháp thuốc trừ cỏ hữu cơ, sinh học: Đây là biện pháp tốt nhất và bất kỳ quốc gia nào cũng đang nghiên cứu và đầu tư. Nhưng hạn chế của biện pháp này là chưa có nhiều nghiên cứu nhiều về thuốc trừ cỏ sinh học; chi phí rất cao, khó bảo quản.

Người dân cần quan tâm đến tính bức thiết của mùa vụ, tránh lạm dụng thuốc trừ cỏ ảnh hưởng tới sức khỏe, môi trường. Ảnh: ST.

Biện pháp phòng trừ cỏ dại bằng hoá học: Đây có thể nói là biện pháp mà tất cả các quốc gia trên thế giới đang sản xuất công nghiệp và sử dụng rộng rãi trong đó có nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên đã nói đến hoá học diệt cỏ là phải nói nguy cơ rất độc, độc và nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Dư lượng thuốc BVTV trong nông sản, trái cây sau khi thu hoạch còn rất độc khi con người sử dụng. Có những loại còn để lại di chứng dài lâu như chất độc màu da cam Dioxin. Chất độc này đã có sẵn trong thuộc diệt cỏ 2,45 T.

Do đó, thế giới đã có Công ước Rotterdam quy định với một số hoá chất và thuốc BVTV nguy hại trong thương mại quốc tế cho tất cả các quốc gia và các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực ký kết tại Rotterdam ngày 10/9/1998, có hiệu lực từ 24/02/2004 với sự tham gia thành viên của 265 cơ quan, quốc gia.

Việt Nam được phê chuẩn Công ước Rotterdam ngày 07/5/2007 nhằm thực thi nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ công ước Rotterdam và đã tiến hành ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến thuốc BVTV.

Theo đó, ngày 08/02/2017, Bộ NN-PTNT có quyết định loại bỏ  thuốc BVTV có chứa hoạt chất 2,4 D và Paraquat ra khỏi danh mục. Ngày 10/4/2019,Bộ NN-PTNT có quyết định tiếp tục loại bỏ thuốc BVTV có chứa hoạt chất Glyphosate ra khỏi danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam…

Giá thuốc trừ cỏ tăng phi mã 

Thực tế, danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng rất đa dạng đối với cây lúa và cây trồng cạn. Tuy nhiên, thuốc trừ cỏ khai hoang hay thuốc trừ cỏ không chọn lọc đang còn nhiều khó khăn trong cấp phép.

Cụ thể, hiện phổ biến nhiều nhất và dễ sử dụng là nhóm thuốc có hoạt chất Glufosinate Amonium [gọi tắt là thuốc có gốc GA]. Hiện Việt Nam đang ở giai đoạn mùa mưa, cũng là thời vụ gieo trồng cây ngắn, dài ngày… Do đó, bà con nông dân phải xịt cỏ trước khi trồng và diệt cỏ dại để chống cháy rừng khi mùa khô nên lượng sử dụng rất lớn.

Trong khi các nhà sản xuất nước ngoài như Trung Quốc, Ấn Độ không đáp ứng đủ nhu cầu dẫn đến giá tăng phi mã. Giá hiện nay so với cùng kỳ năm trước đã tăng rất mạnh, tăng hơn 230% và dự báo còn tăng nữa. Do vậy, khả năng sẽ không có thuốc để phòng trừ cỏ dại hoặc bà con nông dân phải bỏ ra một chi phí rất lớn để đầu tư.

Giá nguyên liệu sản xuất thuốc BVTV đang tăng mạnh, trong khi danh mục thuốc trừ cỏ cỏ khai hoang hay thuốc trừ cỏ không chọn lọc là rất ít, gây khó khăn cho phòng chống cỏ dại. Ảnh: TL.

Một nguy hại tiềm ẩn khác là nếu không phun thuốc trừ cỏ, thì nguy cơ cháy rừng rất cao vào mùa khô ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cũng như tạo môi trường cho các loại côn trùng gây hại nhất là các loại chuột ở vụ đông xuân.

Tuy hoạt chất GA hiện có nhiều tên thương mại khác nhau của nhiều công ty trong và ngoài nước đăng ký, có thể đáp ứng đủ lượng nhu cầu nhưng giá thì quá cao. Hơn thế, cũng có hoạt chất thứ hai thay thế hoạt chất ra khỏi danh mục sử dụng là Diquat cũng đang tăng giá mạnh [tuy không bằng GA] do trong danh mục chỉ có rất ít, mới có 1 đến 2 tên thương mại là nguy cơ rất khó khăn cho thị trường thuốc trừ cỏ cỏ khai hoang hay thuốc trừ cỏ không chọn lọc.

Có thể nói, việc phòng trừ cỏ hại bằng thuốc trừ cỏ hóa học hiện nay là rất cần thiết. Tuy nhiên người dân cần quan tâm đến tính bức thiết của mùa vụ cũng như sự lựa chọn những sản phẩm thuốc trừ cỏ mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như ô nhiễm môi trường.

NGUYỄN QUỐC DŨNG [Giám đốc điều hành Công ty BVTV Sài Gòn]

Video liên quan

Chủ Đề