Giá trị nghệ thuật của tranh Hàng Trống

Tranh dân gian Hàng Trống: Tranh Hương Chủ và câu đối Phúc-Thọ. [Nguồn:Vietnam+]

Tranh dân gian Hàng Trống là một trong những dòng tranh độc đáo, kết tinh nhiều giá trị thẩm mỹ, tinh thần và tín ngưỡng của người Kinh kỳ xưa.

Tranh dân gian Hàng Trống ra đời tại Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ XVI, là kết quả giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo và Nho giáo, được các nhà nghiên cứu đánh giá không chỉ mang đậm tính thẩm mỹ, sự tinh tế của kỹ thuật in khắc gỗ, kỹ thuật pha màu, mà còn mang đậm yếu tố văn hóa, thời đại mà nó sinh ra.

Thời kỳ được cho là hoàng kim của dòng tranh này đó là vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. đó, tranh Hàng Trống được bán ở khắp các khu vực Hàng Bồ, Hàng Nón, Hàng Trống.

Tranh Hàng Trống cũng góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển nghề làm tranh dân gian, làm cho nghề làm tranh truyền thống Việt Nam trở nên phồn thịnh một thời.

Những sản phẩm nghệ thuật đặc sắc của dòng tranh Hàng Trống, cũng như tranh Đông Hồ và kể cả tranh của cả dòng tranh Kim Hoàng nữa, từ lâu đã rất nổi tiếng không chỉ ở trong nước, mà còn ở nhiều nước trên thế giới.

[Khơi gợi giá trị truyền thống, tiềm năng ứng dụng của tranh Hàng Trống]

Có thể dễ dàng bắt gặp tranh Hàng Trống ở nơi linh thiêng nhất trong các đền, miếu, điện thờ, trong các bộ sưu tập tranh quý giá nhất của các tư nhân và các viện bảo tàng ở nhiều nước trên khắp các châu lục.

Sở dĩ gọi là “ Tranh Hàng Trống” là vì loại tranh này được sản xuất tập trung ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Tuy vậy, tranh Hàng Trống trước kia cũng được làm ở các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt [Hà Nội], đồng thời bày bán ở các phố ấy, nhưng tập trung làm và bán nhiều nhất vẫn ở Hàng Trống.

Các phố làm tranh này, trước kia đều thuộc tổng Tiên Túc [sau đổi thành tổng Thuận Mỹ] huyện Thọ Xương [cũ] của kinh thành Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội. Phố Hàng Trống thuộc phần đất thôn Tự Tháp xưa kia.

Đây là một khu vực vốn nổi tiếng về nhiều nghề thủ công mỹ nghệ như tranh dân gian, các loại trống các cỡ, tàn, lọng, tán, mũ mãng,áo xiêm, cờ, quạt, các loại hòm, tráp sơn, các kiểu nón...

Bộ Tứ bình của dòng tranh Hàng Trống.[Nguồn:Vietnam+]

Người ta làm và bán các hàng thủ công ấy quanh năm, nhiều hơn cả là dịp Tết Nguyên đán, phần lớn bán trong các cửa hiệu. Riêng tranh dân gian, ngoài các cửa hiệu, người ta còn bầy bán từng quầy trên hè phố, nhất là vào dịp cuối năm, để tiện phục vụ khách hàng sắm Tết.

Tranh Hàng Trống thường có hai loại là tranh thờ và tranh Tết, trong đó, số lượng tranh thờ chiếm khoảng 80%.

Tranh Hàng Trống có kỹ thuật và phong cách khác biệt Tranh Đông Hồ trên đất Kinh Bắc. Nếu như ở Tranh Đông Hồ, in viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ thì ở Tranh Hàng Trống in tranh chỉ dùng ván khắc gỗ in nét tranh trên chất liệu giấy dó…

Các ván khắc in tranh đều phải theo mẫu tranh, các mẫu tranh do các nghệ nhân đảm nhiệm, gọi là “ra mẫu.” Người “ra mẫu” tranh thường là người giỏi nhất của từng nhóm thợ, rất tinh tế, giàu kinh nghiệm, nên khi đặt bút vẽ trên tờ giấy bản là lập tức hiện ra hình ảnh như bay như múa.

Người vẽ mẫu cũng là người đặt lời trên tranh. Chữ trên tranh phải đạt mức: làm rõ nghĩa của tranh, làm cân đối thêm bố cục tác phẩm, mà không bị rườm rà. Có mẫu tranh phải sáng tác hàng tháng mới xong.

Tiếp sau đó đến công đoạn  bồi tranh.., công đoạn này là một khâu quan trọng trong quá trình hình thành một tác phẩm, sự thành công, và tồn tại lâu bền  của tác phẩm phụ thuộc vào công đoạn này, nó là sự truyền đạt kinh nghiệm tích luỹ, khéo léo của những nghệ nhân đời trước để lại cho đời sau.

Sau khi đã có được bản in hoàn chỉnh thì người vẽ tranh dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng màu đậm nhạt, tuỳ theo nội dung, đường nét và các loại tranh. Do cách tô màu bằng tay [vờn màu bằng tay, nét cản] của tranh Hàng Trống có đặc điểm ở mỗi tờ tranh đều có nét sáng tạo riêng.

Mặc dù có những hạn chế nhất định - do hoàn cảnh lịch sử, môi trường địa lý và đặc điểm tâm lý thị dân, nhưng dòng tranh Hàng Trống vẫn có những đóng góp đáng kể vào kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam, đã để lại những kiệt tác sống mãi với thời gian.

Lý ngư vọng nguyệt.[Nguồn:Vietnam+]

Đó là các bức tranh “Lý Ngư Vọng Nguyệt”, bộ tranh “Tố Nữ,”  “Tùng Cúc Trúc Mai,” “Chim Công,” “Thất Đồng,” “Tam Đa,” “ Chợ Quê,” .vv… và hàng loạt tranh thờ như “ Ngũ Hổ,” “Bạch Hổ,” “Hắc Hổ,”  “Đức Thánh Trần,” “Ông Hoàng Ba,” “ Mẫu Thượng Ngàn,”, “Tứ Phủ Công Đồng,”“Tam Phủ”…

Bằng những tác phẩm ấy, tranh dân gian Hàng Trống còn lưu lại mãi mãi trong tâm trí mỗi người Việt Nam chúng ta. Những tác phẩm của dòng tranh dân gian Hàng Trống quả là những kiệt tác, toát lên cái sinh động, tinh tế, ý nhị  và sâu sắc lạ thường cả về nội dung lẫn hình thức.

Phải công nhận rằng ở những bức tranh này đã bộc lộ đầy đủ tài năng của những người nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống. So với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống có phần uyển chuyển hơn, sắc độ trên tranh cũng êm ái hơn.

Khá nhiều tranh Hàng Trống đã đạt mức kiệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam. Từ nội dung, hình thức đến chất liệu, tranh Hàng Trống mang màu sắc đặc trưng riêng của Hà Nội, nhưng cũng rất Việt Nam, không thể trộn lẫn.

Những bức tranh tuyệt mỹ của dòng tranh này được nhân dân Việt Nam đến nay vẫn ưa chuộng và là một niềm tự hào của chúng ta./.

[Vietnam+]

Đặc sắc và... mai một

Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in trên ván nét đen lấy hình, còn màu là thuốc nước với các gam màu tươi sáng, tô bằng bút lông. Dù chỉ có sáu màu cơ bản nhưng do được vẽ tay nên màu sắc trong tranh Hàng Trống rực rỡ, phóng khoáng hơn những dòng tranh khác.

Giá trị đặc sắc ở tranh Hàng Trống đó là đề tài đa dạng từ tranh lịch sử, tranh thờ, trang trí đến sinh hoạt xã hội... Nhờ thế, dòng tranh này có mặt trong nhiều tầng lớp trong xã hội, được treo ở nhiều không gian khác nhau. Nếu tranh Tết có thể còn nhiều dấu vết từ tranh Trung Quốc, với những chúc phúc, tứ quý, tứ bình, tam đa, tố nữ, công, cá thì tranh thờ Hàng Trống có nhiều nét đặc trưng của văn hóa Việt, đó là đạo Mẫu. Chính vì vậy, tranh Hàng Trống là sự biến văn hóa, nơi dấu ấn và sự tác động lớn của văn hóa bản địa đã làm nên bản sắc riêng, không còn giống như nơi nó được sinh ra.

Từng rất phát triển và được coi là đỉnh cao của kỹ thuật tranh dân gian Việt Nam nhưng theo nhà nghiên cứu Trang Thanh Hiền, do biến cố lịch sử và sự thay đổi cơ bản về văn hóa, hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề, nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc. Hiện nay ở Hà Nội còn lại duy nhất nhà nghệ nhân Lê Đình Nghiên vẽ và in tranh Hàng Trống. Giờ đây, ký ức về một Hàng Trống phồn thịnh với nghề làm tranh chỉ còn trong trí nhớ của những bậc cao niên, sử sách...

Một tác phẩm sơn mài lấy hình ảnh, ý tưởng từ tranh dân gian Hàng Trống tại trưng bày Từ truyền thống tới truyền thống.

Nỗ lực lưu giữ, lan tỏa

Tuy nhiên, không ít người đã nỗ lực để lưu giữ và lan tỏa dòng tranh dân gian đặc sắc này. Nghệ nhân Lê Đình Nghiên - người cuối cùng còn thành thạo kỹ thuật vẽ tranh Hàng Trống, nay đã 70 tuổi nhưng vẫn quyết giữ nghề và “hễ lúc nào còn sức, còn vẽ được, tôi cứ vẽ”. Ông cũng đã truyền nghề lại cho con trai để nghề làm tranh của tổ tiên không bị thất truyền.

Hiện nay tại đình Nam Hương [phố Hàng Trống, Hà Nội], cuộc trưng bày về tranh Hàng Trống với chủ đề Từ truyền thống tới truyền thống nhận được sự chú ý của công chúng. Đáng chú ý, cuộc trưng bày cho thấy những nghệ sĩ trẻ, sinh viên mỹ thuật “làm mới” tranh Hàng Trống rất đặc biệt: sử dụng kỹ thuật tranh sơn mài, tranh lụa - những chất liệu truyền thống của mỹ thuật Việt Nam. Với tranh lụa, sơn mài, các mẫu tranh Hàng Trống vốn rực rỡ được chuyển thể sang gam mầu trầm khiến những bức tranh trở nên có chiều sâu, đượm màu hoài cổ.

Trong khi đó, tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội vừa cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Dòng tranh dân gian Hàng Trống. Cuốn sách này được tác giả dày công nghiên cứu, tìm tòi được nhiều tư liệu cổ. Với hệ thống tư liệu phong phú, độc giả có thể hiểu cặn kẽ hơn về sự ra đời, phát triển của dòng tranh dân gian Hàng Trống, cũng như những bức tranh Hàng Trống từ xưa đến nay. Các nhà nghiên cứu đánh giá cuốn sách như một cây cầu để nối tranh dân gian Hàng Trống với cuộc sống hiện tại; cung cấp tư liệu cần thiết về dòng tranh dân gian nổi tiếng, từ đó lan tỏa, đánh thức tình yêu văn hóa truyền thống trong tâm hồn thế hệ trẻ.

Ngoài ra còn có nhà nghiên cứu Trịnh Thu Trang, nhiều năm qua đã dành thời gian và công sức tìm hiểu, sưu tập, nghiên cứu các chủ đề khác nhau của tranh Hàng Trống, từ đó lọc ra những chi tiết riêng biệt của tranh. Không dừng lại ở đó, chị in những họa tiết của tranh Hàng Trống lên vải, làm khăn lụa, may áo quần, túi xách, phong bao lì xì, bưu thiếp, bao bì, vỏ gối… Đặc biệt nhà nghiên cứu Trịnh Thu Trang còn tập hợp kiến thức, thành quả trong nhiều năm để in thành cuốn sách Họa sắc Việt từ tranh Hàng Trống, từ đó tiếp lửa cho sinh viên ngành thiết kế và những ai yêu mến dòng tranh này, muốn sáng tạo từ nó.


Video liên quan

Chủ Đề