Định hướng đánh giá kết quả phát triển phẩm chất và năng lực chung trọng dạy học môn Tiếng Việt

Chương trình giáo dục phổ thông 2018 trình bày về định hướng đánh giá kết quả giáo dục theo một số điểm chính như sau:

Mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình và sự tiến bộ của HS để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng HS và nâng cao chất lượng giáo dục.

Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được qui định trong chương trình tổng thể và các chương trình môn học, hoạt động giáo dục.

Phạm vi đánh giá bao gồm các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, môn học và chuyên đề học tập lựa chọn và môn học tự chọn.

Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của HS.

Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kì ở cơ sở giáo dục, các kì đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kì đánh giá quốc tế. Cùng với kết quả các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, các môn học và chuyên đề học tập lựa chọn, kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của HS trong từng năm học và trong cả quá trình học tập.

Việc đánh giá thường xuyên do GV phụ trách môn học tổ chức, kết hợp đánh giá của GV, của cha mẹ HS, của bản thân HS được đánh giá và của các HS khác.

Việc đánh giá định kì do cơ sở giáo dục tổ chức để phục vụ công tác quản lí các hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng ở cơ sở giáo dục và phục vụ phát triển chương trình.

Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức khảo thí cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lí các hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng đánh giá kết quả giáo dục ở cơ sở giáo dục, phục vụ phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục.

Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên HS, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình HS và xã hội.

Nghiên cứu từng bước áp dụng các thành tựu của khoa học đo lường, đánh giá trong giáo dục và kinh nghiệm quốc tế vào việc nâng cao chất lượng đánh giá kết quả giáo dục, xếp loại HS ở cơ sở giáo dục và sử dụng kết quả đánh giá trên diện rộng làm công cụ kiểm soát chất lượng đánh giá ở cơ sở giáo dục.

Ngày cập nhật : 27/05/2021

Mặc dù còn nhiều khó khăn về CSVC, đội ngũ nhưng với tinh thần vì HS thân yêu, một số trường học vùng khó khăn thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã nỗ lực đổi mới.

Sau khi bồi dưỡng, tự bồi dưỡng mô đun 1, 2,3 phục vụ Chương trình GDPT 2018, các trường linh hoạt ứng dụng vào quá trình giảng dạy đem lại hiệu ứng tích cực.

Chuyển giao hoạt động hợp lý

Trường THCS Phong Cốc, phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nhưng với tinh thần tiên phong đổi mới nhà trường từng bước nỗ lực bắt nhịp. Cô giáo Nguyễn Hoàng Kim Thanh- Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ, từ năm học 2017 – 2018 đến nay, nhà trường đã triển khai và thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS. Việc tích cực đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; đổi mới phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực HS được thể hiện rõ trong kế hoạch giáo dục của nhà trường.

Mỗi phương pháp dạy học tích cực đều có những ưu điểm và tác dụng khác nhau, do vậy nhà trường yêu cầu thầy cô cần lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung bài học và năng lực HS. Nhưng dù lựa chọn phương pháp dạy học nào, thì GV vẫn phải là người luôn tích cực hóa các hoạt động của HS, chuyển giao nhiệm vụ một cách hợp lý. Vì thế, GV cần vận dụng linh hoạt phương pháp, không lạm dụng, độc tôn một phương pháp nào cả. Một số phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học được nhà trường khuyến khích thực hiện như: Dạy học theo trạm, Dạy học dự án, kĩ thuật khăn trải bàn, chuyên gia, góc, …

Đối với dạy học theo định hướng phát triển năng lực, quá trình quan trọng hơn kết quả. Bởi vì quá trình đúng dẫn đến kết quả đúng. Bởi vậy GV phải xác định mục tiêu dạy học theo định hướng năng lực cho mỗi bài học. Từ mục tiêu, xác định nội dung, phương pháp dạy học và cách kiểm tra đánh giá để đạt được mục tiêu đó. Tích cực tổ chức cho HS luyện tập, tăng cường vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn. Trong quá trình dạy học, GV quan sát, nhận xét, đánh giá, phản hồi một cách chính xác để giúp HS điều chỉnh mình ngay trong quá trình học; đồng thời dựa vào kết quả HS đạt được, GV điều chỉnh phương pháp, kỹ thuật, phương tiện cho phù hợp.

Mặt khác, chương trình GDPT tổng thể đã quy định các năng lực chung, chương trình các môn học quy định các năng lực đặc thù mà mỗi môn học góp phần phát triển cho HS. Trong chương trình môn học có những mô tả cụ thể yêu cầu cần đạt về năng lực cho mỗi lớp. Nhà trường sẽ yêu cầu GV phân tích chương trình, nắm vững các yêu cầu cần đạt của mỗi năng lực ở từng khối lớp để xác định nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học cho phù hợp, nhằm đạt được mục tiêu phát triển năng lực cho HS, cô Thanh cho hay.

HS luyện tập, tăng cường vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn

Cô giáo Phạm Thị Chương - GV môn Hóa học, Trường THCS Phong Cốc nhận định, so với phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian hơn, nghiên cứu các phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực để áp dụng cho phù hợp. Ngoài các thiết bị dạy học đã có, thầy cô cần sáng tạo thêm các thiết bị dạy học khác phù hợp với các hoạt động học mà mình thiết kế để phát triển năng lực, phẩm chất và tăng tính hứng thú học tập cho HS. Mặt khác, GV cũng cần tìm hiểu thêm các kiến thức thực tiễn để giúp HS giải thích đúng và vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống tốt hơn.

Quá trình dạy học môn Hóa, cô Chương đã chủ động áp dựng phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của HS. Theo cô, sự thay đổi phương pháp khiến giờ học thêm sôi nổi, hào hứng, HS được “trao quyền” chủ động hoạt động để chiếm lĩnh tri thức.

Cô Chương ví dụ, qua bài dạy “Axit- Bazơ- Muối [tiết 2] môn Hóa học lớp 8 để giúp HS hiểu được khái niệm muối, công thức, cách phân loại và gọi tên các muối cô Chương đã xây dựng các hoạt động nhằm chuyển giao nhiệm vụ học tập cho các em. Sau phần mở đầu, HS được cô dẫn vào hoạt động 2: Nghiên cứu, hình thành kiến thức mới.

Để trò nắm được khái niệm muối, cô giáo đã chiếu lại câu hỏi 1 ở phần mở đầu, yêu cầu HS giải thích lựa chọn. GV chiếu bảng phân tích thành phần phân tử 3 chất, yêu cầu HS nhận xét. Sau đó các em tự nhận xét khái niệm muối, bằng các quan sát, phân tích, thảo luận cùng nhau và đưa ra câu trả lời. Sau khi HS trả lời cô sẽ nhận xét, kết luận.

Tương tự với các hoạt động khác trong bài dạy cô Chương cũng chuyển giao nhiệm vụ cho HS một cách linh hoạt dưới sự điều hành của GV khiến HS rất thích thú và chủ động học tập, tương tác. Cách dạy trên đã phát huy năng lực cho HS, bao gồm năng lực chung và năng lực chuyên biệt. HS tự học, giải quyết vấn đề sáng tạo, tính toán. Đồng thời có năng lực chuyên biệt, biết sử dụng ngôn ngữ hóa học, tính toán hóa học, thực hành thí nghiệm, vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống...Từ đó phát triển phẩm chất cho các em như: chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; tăng cường tính hứng thú học tập cho HS.

Nỗ lực đổi mới

Trường Tiểu học Kim Đồng, xã Thượng Yên Công là trường học vùng sâu của TP Uông Bí với 58.7% HS dân tộc thiểu số. Nhà trường còn nhiều khó khăn về đội ngũ khi thừa, thiếu GV cục bộ, không đồng đều về cơ cấu chuyên môn. Khắc phục những hạn chế đó, nhiều GV trong trường đã chủ động, sáng tạo trong sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực cho HS.

Theo cô giáo Dương Thị Hồng Luyến- Hiệu trưởng nhà trường, mặc dù tỉ lệ HS dân tộc thiểu số nhiều, việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực cũng phần nào bị hạn chế nhưng quá trình dạy học nhiều năm trước nhà trường đã áp dụng  một số phương pháp mới để phát triển năng lực cho HS như: Nêu và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm; đóng vai, trò chơi ….

GV phải là người tích cực hóa các hoạt động của HS, chuyển giao nhiệm vụ một cách hợp lý.

Cô Trần Thị Thương-  GV Toán, Tiếng Việt lớp 5, Trường Tiểu học Kim Đồng cho biết, để những bài dạy thực sự thu hút được HS giúp các em nắm được kiến thức, phát triển năng lực thì người GV cần nắm chắc kỹ thuật dạy học.

Cô Thương xây dựng giáo án và tương tác với HS bằng các câu hỏi trò chơi, sử dụng câu chuyện và hình ảnh minh họa cho bài giảng, trưng bày các sản phẩm của trò, tạo hoạt động nhóm và tăng độ tương tác giữa thầy trò.

Để có những bài dạy hiệu quả, GV phải có động lực đổi mới, nhiệt tình, tâm huyết với nghề. Ngoài việc học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, GV phải nắm chắc các kĩ thuật dạy học tích cực.

Bên cạnh đó, thầy cô phải thành thạo ứng dụng CNTT, tận dụng tối đa thiết bị dạy học đa phương tiện, dành nhiều thời gian cho soạn bài, chuẩn bị giáo án trước khi đến lớp. Biết động viên khích lệ học sinh, linh hoạt trong ứng xử tình huống, điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp HS.

Theo GD&TĐ

GD&TĐ - Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thành công nhất thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học.

Vậy nên việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực vào từng môn học, trong đó có môn Tiếng Việt là hết sức cần thiết.

Trong phạm vi bài viết, tôi xin đề xuất một số cách nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh qua dạy học môn Tiếng Việt lớp 5.

Dạy cách học cho học sinh

Ở lớp 5 là lớp cuối bậc tiểu học, để các em không còn bỡ ngỡ khi tiếp cận chương trình mới ở lớp 6, đòi hỏi mỗi giáo viên tạo nhiều cơ hội cho học sinh tham gia vào quá trình học tập.

Hơn nữa, tập cho học sinh có động thái chủ động trong việc tương tác tài liệu, chủ động học cá nhân và tham gia hoạt động nhóm một cách tích cực có hiệu quả.

Môn Tiếng Việt góp phần hình thành, phát triển năng lực gồm các năng lực chung [Giao tiếp và hợp tác; tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo] và năng lực đặc thù [Năng lực ngôn ngữ, Năng lực văn học] và phát triển 5 phẩm chất [Yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ].

Khi dạy đọc hiểu sâu văn bản, trên cơ sở những dẫn dắt của giáo viên, học sinh có thể đưa ra những quan điểm riêng đồng thời có cách nhìn nhận về tác phẩm, về cuộc sống theo cách riêng của mình.

Cũng từ việc hiểu giá trị của tác phẩm, học sinh biết cách tự điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của mình một cách phù hợp.

Ví dụ khi cho học sinh đọc xong câu chuyện, giáo viên muốn các em tóm tắt, kể lại câu chuyện hiệu quả, giáo viên có thể có những câu hỏi như: Em hãy nói cho cô và các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra ở phần đầu câu chuyện? Sau đó nhân vật đã làm gì? Diễn biến của câu chuyện ra sao? Kết thúc câu chuyện thế nào?... Các câu trả lời các em dùng lời văn của mình để trả lời tránh để các em lặp nguyên văn nội dung [câu thoại, lời dẫn].

Khi dạy Tập đọc: Giáo viên khai thác thêm phần nghệ thuật [so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ], chủ đề, đặc điểm nhân vật, ý nghĩa của câu chuyện, thể hiện thái độ, tình cảm với nhân vật, bộc lộ cảm xúc với những câu thơ hay, hình ảnh đẹp,...].

Khi dạy các bài trong môn Tiếng Việt 5 ngoài các câu hỏi trong sách giáo khoa được coi như phần cứng. Giáo viên cần đặt câu hỏi hướng mở để giúp học sinh hiểu sâu, kích thích việc đào sâu nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo. Giáo viên chủ động, linh hoạt điều chỉnh nội dung phù hợp với đối tượng học sinh, minh họa một số bài có thể điều chỉnh như sau: [xem bảng bên dưới]

Làm quen với dạng đề mở

Dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong nhà trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng và có tính thiết thực. Giáo viên có vai trò quan trọng trong việc nêu vấn đề, giao nhiệm vụ, tổ chức cho học sinh làm việc, trao đổi, chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dụng tri thức vào cuộc sống và hình thành phương pháp tự học và có thể học suốt đời. 

Trong ra đề kiểm tra cần đổi mới cách ra câu hỏi bài tập, một câu hỏi/bài tập đảm bảo 3 phần [phần dẫn, phần câu hỏi, phần đáp án]. Cần đổi mới ra phần dẫn, phần này phải sinh động, gắn liền thực tiễn, gần gũi trong đời sống sản xuất và sinh hoạt. Thông qua phần dẫn để học sinh tư duy giải quyết vấn đề bằng vốn tri thức cơ bản đã được học trong chương trình.

Đây chính là cơ sở để đo phẩm chất và năng lực đồng thời tự mỗi học sinh phải thay đổi cách học. Chẳng hạn cách ra đề với phân môn Tập làm văn, giáo viên ra đề theo hướng mở như sau:

Đề 1: Em đã được ngắm nhìn thành phố vào một thời điểm nào đó trong ngày [buổi sáng sớm khi những giọt sương long lanh còn biếng lười nằm nghiêng trên phiến lá, buổi trưa khi tiếng ve râm ran gọi hè sau tán cây phượng vĩ, buổi tối khi thành phố chìm trong muôn ngàn ánh điện lung linh]. Hãy chọn một thời điểm trong ngày và miêu tả lại quang cảnh thành phố khi ấy.

Đề 2: Ở trường em có rất nhiều người bạn cùng thi đua nhau học tập tiến bộ, cùng nhau thực hiện tốt 5K để vượt qua đại dịch Covid-19. Em hãy tả lại một người bạn thân nhất của em.

Đề 3: Trong những ngày dịch Covid-19 diễn ra, chúng ta tạm xa thầy cô, bạn bè, xa mái trường thân yêu nhưng chúng ta tập làm quen với một cuộc sống mới với những tiết học trực tuyến còn nhiều bỡ ngỡ. Hãy kể lại sự thay đổi với cuộc sống của em trong những ngày nghỉ chống dịch vừa qua.

Đề 4: Xung quanh em, mỗi người đều đang bận rộn với công việc của mình [chú thợ xây đang xây nhà, bác nông dân đang cày ruộng, cô lao công đang quét dọn đường phố,...]. Em hãy miêu tả một cô [chú, bác] đang làm việc.

Đề 5: Hãy viết về một điều mà em muốn bố mẹ thay đổi [học sinh có thể viết thơ, kịch, truyện ngắn, nhật kí, viết thư,...].

Đề 6: Hãy tưởng tượng em là người trong tương lai, em sẽ làm gì cho đất nước tươi đẹp hơn [có thể viết thơ, kịch, truyện ngắn, nhật kí, viết thư, …].

Đề 7: Xung quanh chúng ta có bao nhiêu điều tốt đẹp của sự sống [những cánh rừng xanh bạt ngàn bất tận, những dòng sông xanh với rất nhiều tôm cá,..]. Nếu như ai đó vô ý thức, hủy diệt, làm ô nhiễm nguồn nước. Em hãy viết một bức thư kêu cứu gửi loài người, bày tỏ sự phẫn nộ trước những hành động phá hoại ấy, kêu gọi mọi người bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống.

Giáo viên đổi mới cách lập kế hoạch bài học

*Xác định mục tiêu bài học: Mục tiêu bài học là mục tiêu học sinh cần đạt được. Do đó, khi viết phải rõ chủ thể đạt được mục tiêu là học sinh. Nên mở đầu mỗi mục tiêu bằng một động từ. [Ví dụ: Biết, hiểu, nhớ, vận dụng,…]. Mục tiêu đưa ra phải rõ ràng, cụ thể.

- Mục tiêu cần chỉ rõ những yêu cầu cụ thể của mục tiêu đặc thù môn học, yêu cầu về năng lực chung, năng lực riêng, phẩm chất được hình thành. Cụ thể:

- Năng lực đặc thù: Đọc kĩ nội dung yêu cầu ở kiến thức, kĩ năng ở mỗi bài học để xác định đúng năng lực đặc thù.

- Năng lực chung: Dựa vào phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để xác định năng lực chung.

- Phẩm chất: Dựa vào nội dung dạy học, tư tưởng, chủ đề của bài học cụ thể để lựa chọn những biểu hiện cụ thể của 5 phẩm chất.

* Phân tích nội dung bài học: Theo cấu trúc: Khởi động, khám phá, luyện tập, vận dụng.

* Thiết kế các hoạt động học tập

- Mỗi hoạt động cần có: Tên hoạt động; Mục tiêu; Cách tổ chức [Phương pháp, hình thức, kĩ thuật dạy học,...].

- Lưu ý sử dụng động từ phù hợp với hoạt động của giáo viên là “hướng dẫn”, của học sinh là “hoạt động học”. Ví dụ: Hoạt động của học sinh: Nói, thảo luận, chia sẻ,....

- Cùng một hoạt động, nếu dự kiến nhiều sản phẩm khác nhau, giáo viên không nên chốt đáp án, nên tôn trọng cảm nhận, suy nghĩ của học sinh. Giáo viên đánh giá từ những điểm nhìn khác nhau để kích thích học sinh phát biểu, tham gia vào bài học.

- Cách trình bày kế hoạch bài học linh hoạt, đảm bảo tính thẩm mĩ, tường minh.

Video liên quan

Chủ Đề