Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới kéo dài trong bao lâu

Virus corona: 'Khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ đại suy thoái những năm 1930'

Nguồn hình ảnh, AFP

Chụp lại hình ảnh,

Ba phần tư số người lao động trên thế giới phải đối mặt với việc chỗ làm đóng cửa một phần hoặc hoàn toàn, LHQ nói

Đại dịch corona sẽ khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu trở nên 'vô cùng tiêu cực' trong năm nay, người đứng đầu Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] cảnh báo.

Bà Kristalina Georgieva cho biết thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930.

Virus corona có thể đẩy nửa tỷ người vào cảnh đói nghèo

Virus corona: Giám đốc WHO kêu gọi chấm dứt 'chính trị hóa' virus

Quảng cáo

Vũ Hán choáng váng trỗi dậy từ cuộc phong tỏa khắc nghiệt nhất

Bà dự đoán rằng năm 2021 sẽ chỉ phục hồi một phần.

Lệnh phong tỏa do các chính phủ đặt ra đã buộc nhiều công ty phải đóng cửa và sa thải nhân viên.

Đầu tuần này, một nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc cho biết 81% lực lượng lao động trên thế giới gồm 3,3 tỷ người đã phải đối mặt với nơi họ làm việc bị đóng cửa một phần hoặc hoàn toàn vì vụ dịch.

Bà Georgieva, giám đốc điều hành của IMF, đã đưa ra đánh giá ảm đạm của mình trước cuộc họp của IMF và World Bank vào tuần tới.

Các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển sẽ bị tác động nặng nề nhất, bà nói, đòi hỏi hàng trăm tỷ đô la viện trợ nước ngoài.

"Chỉ ba tháng trước, chúng tôi dự kiến tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tích cực ở hơn 160 quốc gia thành viên vào năm 2020," bà nói.

"Hôm nay, con số đó đã bị đảo ngược: chúng tôi hiện dự đoán rằng hơn 170 quốc gia sẽ có mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tiêu cực trong năm nay."

Bà nói thêm: "Trên thực tế, chúng tôi dự đoán sự sụp đổ kinh tế tồi tệ nhất kể từ Đại suy thoái".

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Nền kinh tế sẽ chỉ phục hồi phần nào năm 2021, bà Georgieva nói

Bà Georgieva nói rằng nếu đại dịch hạ nhiệt vào nửa cuối năm 2020, IMF dự kiến kinh tế sẽ phục hồi một phần vào năm tới. Nhưng bà cảnh báo rằng tình hình cũng có thể xấu đi.

"Tôi nhấn mạnh có sự không chắc chắn vô cùng lớn về triển vọng phục hồi. Nó có thể trở nên tồi tệ hơn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cả thời gian xảy ra đại dịch", bà nói.

Ý kiến của bà được đưa ra khi Mỹ cho hay số người Mỹ tìm kiếm trợ cấp thất nghiệp đã tăng trong tuần thứ ba thêm 6,6 triệu, nâng tổng số người cần trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ trong thời điểm này lên hơn 16 triệu người..

Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ cho biết họ sẽ tung ra thêm khoản vay 2,3 nghìn tỷ đô la vì các lệnh cấm nhằm ngăn chặn dịch lây lan đã buộc nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa và đẩy khoảng 95% dân số Mỹ vào cảnh công ty họ đóng cửa hoàn toàn hoặc một phần.

Trong một động thái riêng biệt, tổ chức từ thiện Oxfam có trụ sở tại Vương quốc Anh cảnh báo rằng sự sụp đổ kinh tế từ vụ dịch Covid-19 có thể đẩy thêm hơn nửa tỷ người rơi vào tình trạng nghèo đói.

Vào thời điểm đại dịch kết thúc, Oxfam dự đoán, một nửa dân số thế giới gồm 7,8 tỷ người có thể sống trong nghèo đói.

Hôm thứ Năm, sau các cuộc đàm phán kéo dài, các nhà lãnh đạo EU đã đồng ý gói hỗ trợ kinh tế trị giá 500 tỷ euro các thành viên của khối bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các biện pháp phong tỏa.

Ủy ban châu Âu trước đó cho biết, mục tiêu của họ là phối hợp để xây dựng một "lộ trình" nhằm thoát khỏi các biện pháp phong tỏa.

Đầu tuần này, Tổ chức Lao động Quốc tế [ILO] cảnh báo rằng đại dịch gây ra "cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất" kể từ Thế chiến thứ hai.

Tổ chức này cho biết vụ dịch dự kiến sẽ lấy đi 6,7% số giờ làm việc trên toàn thế giới trong quý II năm 2020 - tương đương với 195 triệu lao động toàn thời gian mất việc.

Tháng trước, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế [OECD] đã cảnh báo rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ mất nhiều năm để phục hồi.

Tổng thư ký Angel Gurría nói rằng các nền kinh tế đang chịu một cú sốc lớn hơn cả sau vụ khủng bố 11/9 năm 2001 hoặc cuộc khủng hoảng tài chính 2008.

Mục lục

Khởi đầu

Các nhà sử học kinh tế thường coi chất xúc tác của cuộc Đại khủng hoảng là sự sụp đổ bất ngờ của thị trường chứng khoán Mỹ, bắt đầu từ ngày 24 tháng 10 năm 1929. Tuy nhiên,[11] một số tranh chấp kết luận này và coi sự sụp đổ của chứng khoán là một triệu chứng, chứ không phải là một nguyên nhân, của cuộc Đại khủng hoảng.[6][12]

Ngay cả sau khi Phố Wall sụp đổ năm 1929, sự lạc quan vẫn tồn tại trong một thời gian. John D. Rockefeller nói “Đây là những ngày mà nhiều người nản lòng. Trong 93 năm của cuộc đời tôi, sự chán nản đã đến và biến mất. Sự thịnh vượng đã luôn trở lại và sẽ trở lại. " [13] Thị trường chứng khoán đi lên vào đầu năm 1930, trở lại mức đầu năm 1929 vào tháng Tư. Con số này vẫn thấp hơn gần 30% so với mức đỉnh của tháng 9 năm 1929.[14]

Cả chính phủ và doanh nghiệp đã chi tiêu nhiều hơn trong nửa đầu năm 1930 so với cùng kỳ của năm trước. Mặt khác, người tiêu dùng, nhiều người đã bị thua lỗ nghiêm trọng trên thị trường chứng khoán năm trước, đã cắt giảm 10% chi tiêu của họ. Ngoài ra, bắt đầu từ giữa những năm 1930, một trận hạn hán nghiêm trọng đã tàn phá vùng trung tâm nông nghiệp của Hoa Kỳ [15]

Lãi suất đã giảm xuống mức thấp vào giữa năm 1930, nhưng kỳ vọng giảm phát và việc ngừng vay vốn của người dân đồng nghĩa với việc chi tiêu tiêu dùng và đầu tư bị suy giảm.[16] Đến tháng 5 năm 1930, doanh số bán ô tô đã giảm xuống dưới mức của năm 1928. Nhìn chung, giá cả bắt đầu giảm, mặc dù mức lương vẫn ổn định vào năm 1930. Sau đó, một vòng xoáy giảm phát bắt đầu vào năm 1931. Nông dân phải đối mặt với một triển vọng tồi tệ hơn; giá cây trồng giảm và hạn hán ở Great Plains đã làm tê liệt triển vọng kinh tế của họ. Ở đỉnh điểm, cuộc Đại khủng hoảng chứng kiến gần 10% tổng số trang trại ở Great Plains đổi chủ bất chấp sự trợ giúp của liên bang.[17]

Khởi đầu, sự suy giảm của nền kinh tế Hoa Kỳ là yếu tố kéo hầu hết các nước khác đi xuống; khi đó, điểm yếu hoặc điểm mạnh bên trong của mỗi quốc gia đã làm cho điều kiện trở nên tồi tệ hơn hoặc tốt hơn. Những nỗ lực điên cuồng của các quốc gia riêng lẻ nhằm củng cố nền kinh tế của họ thông qua các chính sách bảo hộ - chẳng hạn như Đạo luật Thuế quan Smoot – Hawley của Hoa Kỳ năm 1930 và thuế quan trả đũa ở các bang khác - đã làm trầm trọng thêm sự sụp đổ trong thương mại toàn cầu, góp phần vào sự suy thoái.[18] Đến năm 1933, sự suy giảm kinh tế đã đẩy thương mại thế giới xuống 1/3 mức của nó chỉ 4 năm trước đó.[19]

Chỉ số kinh tế

Sự thay đổi của các chỉ số kinh tế 1929–32 [20]

Hoa Kỳ Anh Pháp Đức
Sản xuất công nghiệp −46% −23% −24% −41%
Giá sỉ −32% −33% −34% −29%
Ngoại thương −70% −60% −54% −61%
Thất nghiệp + 607% + 129% + 214% + 232%

TTO - Các chuyên gia cảnh báo về nguy cơ suy thoái mỗi lúc một tăng ở Mỹ, châu Âu và cả thế giới giữa lúc các biện pháp ngăn chặn virus corona đang làm đóng băng nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.

  • Trung Quốc đang mạo hiểm khi tái khởi động kinh tế giữa dịch?
  • IMF cảnh báo kinh tế toàn cầu suy thoái hơn năm 2009 do dịch COVID-19
  • Trung Quốc chuẩn bị đón cú sốc kinh tế tập 2

Một người đàn ông thất nghiệp nằm ở bến tàu thành phố New York trong giai đoạn Đại khủng hoảng, năm 1935 - Ảnh: REUTERS

Thế giới đang chứng kiến điều gì, suy thoái hay khủng hoảng? Sự khác biệt ra sao? Sau đây là một số giải thích của đài Al Jazeera.

Suy thoái là gì?

Suy thoái thông thường được định nghĩa là 2 quý liên tiếp [6 tháng] kinh tế tăng trưởng âm.

Ở Mỹ, Cục Nghiên cứu kinh tế quốc gia [NBER] định nghĩa suy thoái là "sự suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế trên khắp các lĩnh vực, kéo dài trong nhiều tháng và thể hiện qua các chỉ số như GDP thực, thu nhập thực, tỉ lệ thất nghiệp, sản xuất công nghiệp, bán buôn - bán lẻ...

"Thực" ở đây có nghĩa là đã điều chỉnh theo lạm phát. GDP là giá trị hàng hoá, dịch vụ do một nền kinh tế tạo ra trong một giai đoạn nhất định.

Suy thoái có thể kéo dài trong bao lâu?

Mọi thứ còn tuỳ. Theo định nghĩa của NBER, một đợt suy thoái không nhất thiết phải kéo dài ít nhất 6 tháng, trong khi một số có thể dài hơn 1 năm.

Lần đại suy thoái gần nhất ở Mỹ bắt đầu vào tháng 12-2007 và kéo dài đến tận tháng 6-2009, 18 tháng tổng cộng. Nigeria rơi vào suy thoái từ đầu năm 2016 và không ngóc đầu lên được cho đến tận quý 2-2017.

Tại sao gọi là "đại suy thoái"?

Gọi là "đại suy thoái" vì đó là giai đoạn tồi tệ nhất Mỹ từng trải qua kể từ sau cuộc Đại khủng hoảng [Đại suy thoái] năm 1929. Cách gọi này càng đúng vì đó là lần suy thoái dài nhất trong 17 đợt suy thoái sau này.

Khủng hoảng kinh tế là gì?

Không có định nghĩa chuẩn cho "khủng hoảng kinh tế". Nhìn chung, khi một quốc gia trải qua giai đoạn kinh tế xuống dốc kéo dài trong nhiều năm, thay vì vài quý, thì đó chắc chắn là khủng hoảng kinh tế.

Ví dụ, cuộc Đại khủng hoảng nổ ra năm 1929 ở Mỹ kéo dài đến tận năm 1939.

Đại dịch COVID-19 có thể kích hoạt một đợt suy thoái?

Hầu hết các nhà kinh tế đều dự báo như thế. Tuần trước, Quỹ Tiền tệ quốc tế [IMF] dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm trong năm nay, và thế giới đang đối mặt với "một trận suy thoái tương đương, hoặc tệ hơn khủng hoảng tài chính 2008".

Nhiều nhà kinh tế của Phố Wall cũng chia sẻ dự báo đó. Goldman Sachs ước tính sản lượng kinh tế của Mỹ sẽ giảm 24% trong tháng 4-6 so với năm trước, riêng tỉ lệ thất nghiệp có thể đạt 9% trong những tháng tới.

Capital Economics thì dự báo tăng trưởng của Mỹ trong quý 2 sẽ giảm 40%, thất nghiệp lên đến 12%.

Vậy khả năng khủng hoảng kinh tế là bao nhiêu?

Không ai biết chắc. Một vài chuyên gia cho rằng hoạt động kinh tế có thể bật lên trong nửa cuối năm nay, nhưng nó còn phụ thuộc vào các gói kích cầu, khi nào dịch COVID-19 kết thúc và nhiều yếu tố khác.

Tại sao những ngày qua từ "khủng hoảng kinh tế" và "virus corona" cứ xuất hiện cùng nhau?

Lý do là các nhà phân tích so sánh mức độ nghiêm trọng và bất thình lình của lần suy giảm kinh tế này với những gì xảy ra năm 1929.

Những "cựu binh" của khủng hoảng tài chính 2008 nghĩ gì?

Nhà kinh tế Nouriel Roubini, người từng cảnh báo về cuộc khủng hoảng 2008 từ đầu năm 2006, cho rằng khả năng kinh tế hồi phục trong năm nay là rất thấp.

Trong bài viết đăng trên trang Project Syndicate, ông Roubini - biệt danh Dr Doom - phân tích rằng phản ứng y tế ở các nước phát triển không đủ để ngăn chặn dịch COVID-19, còn các gói kích cầu "không đủ lớn, hoặc không đủ nhanh, để tạo điều kiện cho sự phục hồi đúng thời điểm".

Vì những lý do trên, ông dự báo "nguy cơ một cuộc đại khủng hoảng mới đang tăng lên từng ngày".

Trong một ý kiến khác, ông Ben Bernanke, cựu chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ [FED], người từng lèo lái nước Mỹ qua khủng hoảng 2008, so sánh cú sốc kinh tế do COVID-19 "gần hơn với một thảm hoạ tự nhiên thay vì một cuộc khủng hoảng kinh điển kiểu thập niên 1930".

IMF cảnh báo kinh tế toàn cầu suy thoái hơn năm 2009 do dịch COVID-19

IMF nhận định những tổn thất do dịch COVID-19 gây ra cho kinh tế toàn cầu trong năm 2020 thậm chí có thể nhiều hơn năm 2009.

UNDP: Đại dịch Covid-19 thách thức kinh tế nghiêm trọng với toàn cầu

[ĐCSVN] - Theo UNDP, cuộc khủng hoảng vẫn chưa đi đến hồi kết, với hơn 400.000 ca nhiễm mới được báo cáo mỗi ngày, trong đó có hơn 50.000 ca ở Đông Nam Á. Hy vọng lớn nhất hiện nay, vẫn là việc triển khai vắc-xin một cách nhanh chóng và công bằng cùng sự phối hợp hành động đa phương để duy trì đầu tư, thương mại và việc làm khi dịch bệnh được ngăn chặn và tiến trình được nối lại hướng đến đạt được những mục tiêu phát triển bền vững [SDG] trong năm 2030.
Đại dịch Covid-19 thách thức kinh tế nghiêm trọng với toàn cầu[Ảnh minh họa:Mạnh Hùng]

Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc [UNDP] công bố hôm nay [27/9] cho rằng, Đại dịch Covid-19, là một cuộc khủng hoảng sức khỏe mà hệ lụy của nó là nỗi đau khổ to lớn và thiệt hại đó là, mạng sống con người. Đại dịch Covid-19, cũng là thách thức kinh tế nghiêm trọng nhất, thậm chí còn sâu rộng hơn cả cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2008-2009.

Theo UNDP, cuộc khủng hoảng vẫn chưa đi đến hồi kết, với hơn 400.000 ca nhiễm mới được báo cáo mỗi ngày, trong đó có hơn 50.000 ca ở Đông Nam Á. Hy vọng lớn nhất hiện nay, vẫn là việc triển khai vắc-xin một cách nhanh chóng và công bằng cùng sự phối hợp hành động đa phương để duy trì đầu tư, thương mại và việc làm khi dịch bệnh được ngăn chặn và tiến trình được nối lại hướng đến đạt được những mục tiêu phát triển bền vững [SDG] trong năm 2030.

UNDP đánh giá. Thứ nhất, đợt bùng phát dịch gần đây ở Đông Nam Á, sự phục hồi của khu vực có thể sẽ bị chậm lại trong năm 2021 và 2022. Tăng trưởng sẽ tăng tốc trong năm 2021, nhưng thấp hơn so với các khu vực khác, đạt được lực kéo trong năm 2022 do du lịch, vận tải và các dịch vụ bắt đầu hoạt động đầy đủ trở lại. Thứ hai, Việt Nam có thể hỗ trợ tăng trưởng, việc làm và thu nhập bằng một chương trình hỗ trợ tiền mặt lớn hơn cho các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn mà không sợ lạm phát hoặc tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán.

UNDP, cho biết: Theo một báo cáo gần đây của UNCTAD [Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển], thì nền kinh tế thế giới giảm 3,5% trong năm 2020 đối với các nước phát triển là những nước phụ thuộc nhiều vào dịch vụ nên bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng khu vực Đông Nam Á giảm 3,9% do mất nguồn thu từ du lịch quốc tế, suy giảm đầu tư của khu vực tư nhân và giảm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và khai khoáng. Việt Nam, quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng 2,9% cho năm 2020, là một nước vượt trội trong khu vực nhờ việc kiểm soát dịch bệnh sớm và hiệu quả. UNCTAD dự báo tăng trưởng sản lượng thế giới là 5,3% trong năm nay khi nền kinh tế lấy lại vị thế đã mất vào năm 2020, nhưng tình hình phục hồi sẽ chậm trong năm 2022. Mặc dù tăng trưởng theo xu thế trên sẽ duy trì trong năm 2021-2022, nhưng kinh tế thế giới vào cuối năm 2022 sẽ đạt 10 nghìn tỷ USD thấp hơn nhiều so với con số đáng lẽ sẽ đạt được nếu không có đại dịch Covid-19. Sự phục hồi của Đông Nam Á sẽ bị chậm lại bởi đợt bùng phát dịch mới nhất trong khu vực, và tăng trưởng sẽ bứt tốc vào năm 2022.

Tác động kinh tế của Covid-19 lớn hơn nhiều so với cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu, đặc biệt là ở Đông Nam Á, Nam Á và Châu Phi. Ở Đông Nam Á, các quốc gia lệ thuộc nhiều vào du lịch như Thái Lan, Malaysia và Philippines đã bị ảnh hưởng nặng nề do bị hạn chế đi lại. Các nhà sản xuất dầu mỏ, khí đốt và than đá đã phải chịu đựng thời gian giảm giá kéo dài trong năm 2020, mặc dù giá xuất khẩu khoáng sản và lương thực thực phẩm thực tế đã tăng nếu tính trên bình diện cả năm. Đầu tư tư nhân bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ và xây dựng. Một vấn đề lớn trong toàn khu vực là tiêu dùng tư nhân bị thu hẹp mạnh do chính sách tài khóa ứng phó tương đối trầm lắng.Giá hàng hóa tăng và một số nguồn cung bị đình trệ, đặc biệt là ở các ngành bán dẫn, đã gây ra lạm phát giá ở một số quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ, khi đang tập trung để tăng tốc phục hồi. Thông thường chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn lạm phát giá ngắn sau một cuộc khủng hoảng lớn: ví dụ, lạm phát tăng nhanh ngay sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2009 nhưng sau đó nhanh chóng giảm xuống. Châu Âu và Nhật Bản, những quốc gia đã phải vật lộn với tình trạng giảm phát giá kể từ cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu - và trong trường hợp của Nhật Bản, thậm chí là từ lâu hơn - xu hướng giá vẫn tiêu cực bất chấp đợt tăng gần đây. Tại Hoa Kỳ, các nhà hoạch định chính sách sẽ theo dõi giá cả để xem liệu kỳ vọng về lạm phát có bắt đầu ảnh hưởng đến tiền lương hay không. Nếu điều đó xảy ra, việc tăng lãi suất có thể được đưa ra trong năm 2022, sớm hơn so với dự báo hiện tại. Tuy nhiên, tỷ lệ việc làm trên dân số ở Hoa Kỳ vẫn còn thấp, cho thấy rằng ngay cả khi có sự phục hồi mạnh mẽ, chúng ta khó có thể nhìn thấy một giai đoạn mà áp lực tăng lương được duy trì liên tục.

Lạm phát giá tăng nhanh tại Hoa Kỳ là một tin xấu đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước dựa vào dòng vốn đầu tư để tài trợ cho thâm hụt thương mại. Nợ của các nước đang phát triển, đặc biệt nếu tính bằng đồng nội tệ, trở nên tệ hơn khi lãi suất ở các nước phát triển tăng. Sự kiện Taper Tantrum năm 2013, khi quá kỳ vọng lãi suất sẽ tăng dẫn đến lợi suất Trái phiếu Chính phủ Hoa Kỳ tăng vọt và gây ra một dòng vốn chảy ngược ra khỏi các nước đang phát triển, là một bài học khắc nghiệt về tính dễ bị tổn thương của “các thị trường mới nổi” trước sự chuyển đổi đột ngột của dòng vốn quốc tế. Ngay cả các quốc gia phát hành nợ công bằng đồng tiền của họ cũng không an toàn, bởi vì trong những năm gần đây, các nhà giao dịch chứng khoán toàn cầu đã tham gia tích cực vào thị trường trái phiếu nội địa. Các quốc gia như Indonesia phụ thuộc vào nhà đầu tư quốc tế để bán được 40% trái phiếu nội địa, điều này khiến quốc gia này dễ bị tổn thương khi có thay đổi tâm lý đột ngột. Người nước ngoài không tham gia vào thị trường trái phiếu VND trong nước, điều này đem lại sự bảo vệ khỏi bị tác động khi dòng vốn toàn cầu đột ngột dừng lại.

Trung Quốc là quốc gia quyết định chủ yếu đến sự tăng giá của các mặt hàng nguyên liệu, điều này đã làm cho chi tiêu vào cơ sở hạ tầng trong thời kỳ đại dịch bị đội lên, tăng giá trị nhập khẩu của các kim loại như đồng và sắt. Trung Quốc cũng đã tăng giá trị nhập khẩu dầu thực vật, lúa mì và đậu tương, hỗ trợ thêm cho giá lương thực. Tình trạng khô hạn ở Nam Mỹ đã làm giảm nguồn cung ngũ cốc và các mặt hàng nguyên liệu khác. Giá nhiên liệu đã phục hồi theo thỏa thuận OPEC +, nhưng nếu giá tiếp tục tăng, các nhà sản xuất dầu khí đá phiến của Hoa Kỳ sẽ tăng lượng cung, điều này sẽ giúp bình ổn giá. Giá than đã tăng trong năm 2021, nhưng những nguyên nhân chính dẫn đến tăng giá chỉ mang tính tạm thời và hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng giá than sẽ chỉ tăng trong một thời gian ngắn.

Khối lượng thương mại quốc tế giảm 5,6% năm 2020, mức giảm ít nghiêm trọng hơn so với dự đoán ban đầu. UNCTAD kỳ vọng mức tăng trưởng thực tế đạt gần 10% vào năm 2021. Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhất, nhưng các quốc gia đang phát triển ở châu Á cũng không bị tụt lại xa. Tuy nhiên, sự gia tăng mạnh mẽ về khối lượng thương mại đăng ký trong nửa đầu năm 2021 có khả năng sẽ không tiếp tục, vì điều này phản ánh sự phục hồi lại lượng hàng tồn kho đã bị cạn kiệt trong năm 2020 và sự chuyển dịch từ dịch vụ sang hàng hóa ở các nước phát triển hiện có vẻ đã được tái cân bằng. Chi phí vận chuyển cao do sự đình đốn của hạ tầng cơ sở và thiếu hụt một số cấu phần cũng sẽ góp phần làm giảm nhiệt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.

Du lịch, chiếm 1/4 tổng thương mại dịch vụ, vẫn còn suy thoái, với lượng khách du lịch đến vẫn thấp hơn 85% dưới mức năm 2019 đối với toàn thế giới và thấp hơn 95% ở châu Á. Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc không kỳ vọng du lịch sẽ đạt mức năm 2019 cho đến tận năm 2024. Doanh thu từ hành khách hàng không trong quý đầu tiên của năm 2021 vẫn giảm 74% so với năm 2019, mặc dù doanh thu hàng hóa đường hàng không tăng vọt lên.

Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2008-2009 đánh dấu một bước ngoặt trong hoạch định chính sách kinh tế. Mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng, và thực tế là khủng hoảng xuất hiện từ tâm điểm của nền tài chính toàn cầu chứ không phải từ các quốc gia ngoại vi, đã phá vỡ sự đồng tình vốn đang thịnh hành về việc ủng hộ tự do hóa tài chính và tự do luân chuyển vốn. Mặc dù các hành vi gian lận trong thị trường thế chấp của Hoa Kỳ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng, nhưng có những nguyên nhân sâu xa hơn trong đó, bao gồm mức độ bất bình đẳng kinh tế ngày càng tăng, đòn bẩy quá đà, đầu tư dưới mức cần thiết cũng như tăng năng suất chậm và mất cân bằng toàn cầu.

Khi khủng hoảng bộc lộ ra và các nước phát triển phải đối mặt với khả năng thực sự rơi vào suy thoái toàn cầu, các nhà lãnh đạo thế giới đã kêu gọi một biện pháp kích thích tài khóa toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau để ngăn chặn vòng xoáy đi xuống trong thương mại, việc làm và thu nhập. Hoa Kỳ đã công bố một gói kích thích tức thì có quy mô lên đến 1,6% GDP, và chương trình có quy mô tương đương 4,3% GDP của Trung Quốc trong hai năm đã xác lập giá sàn cho các hàng hóa nguyên liệu toàn cầu. Nhưng một khi cuộc khủng hoảng trước mắt qua đi, Hoa Kỳ và châu Âu, đề phòng nợ công tăng lên, đã chuyển từ kích thích sang thắt lưng buộc bụng, hoàn toàn dựa vào chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng cầu tiêu dùng.

Kết quả của việc rút hỗ trợ tài khóa sớm là tăng trưởng chậm lại và giá tài sản tăng. Được nâng đỡ bởi tín dụng giá rẻ và sự khan hiếm các cơ hội đầu tư khả thi, các tập đoàn và hộ gia đình đã đổ tiền vào cổ phiếu và bất động sản. Tính đến tháng 9 năm 2021, giá nhà ở Hoa Kỳ đã vượt qua mức đỉnh điểm trước khủng hoảng và chỉ số S&P 500 đã giao dịch ở mức cao gấp ba lần mức năm 2007 bất chấp sự ngăn trở của đại dịch covid. Trung Quốc và các nước khác ở Đông Á tiếp tục vượt trội so với các khu vực khác với mức đầu tư cao hơn và thặng dư thương mại được tạo ra do sự chuyển dịch sản xuất toàn cầu từ Tây sang Đông. Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc so với xu hướng trước khủng hoảng, tụt dốc do đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tăng trưởng chậm lại.

Theo UNDP: Có một mối nguy là chúng ta đã không rút được kinh nghiệm từ Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu. Trong giai đoạn đầu của đại dịch Covid, mối đe dọa tức thì làm suy sụp kinh tế đã thôi thúc các nước phát triển phải hành động. Chính phủ tăng chi tiêu cho y tế và an sinh xã hội, cắt giảm và giãn nộp thuế, tạo ra các cơ chế mới để thay thế tiền lương trong khu vực tư nhân và rót các khoản vay ưu đãi cho các doanh nghiệp nhỏ. Phần chi tiêu tăng thêm và phần thuế giảm đi lên tới 10% GDP thế giới, được bổ sung bởi gói kích thích tiền tệ có quy mô tương đương 6% GDP.

Biện pháp ứng phó về tài khóa đã giúp ngăn chặn kịch bản xấu nhất về sự sụp đổ chung của thương mại, việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, như trường hợp của cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu, biện pháp ứng phó lại không đồng đều và không phù hợp với quy mô của những thách thức mà nền kinh tế quốc tế phải đối mặt. Bất chấp những lời hứa đi hứa lại là sẽ “tái thiết hiệu quả hơn”, các nước phát triển đã chống lại những lời kêu gọi về một kế hoạch phục hồi toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau, biện pháp giảm nợ thiết thực cho các quốc gia vay nợ cao và cải cách cấu trúc tài chính quốc tế để ngăn chặn đầu cơ và rót nguồn lực cho các khoản đầu tư hiệu quả về mặt xã hội, đặc biệt là các hệ thống năng lượng tái tạo cũng như giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc sản xuất và phân phối vắc-xin covid vẫn còn rất không đồng đều: tính đến giữa tháng 9, 5,6 tỷ liều vắc-xin đã được tiêm, nhưng chỉ có hai phần trăm ở châu Phi.

Việc thiếu vắng các chính sách tài khóa phối hợp sẽ làm tăng khả năng quay trở lại xu hướng tăng trưởng thấp sau đại dịch mà trước đây đã từng thấy sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu. Các dự báo do Mô hình Chính sách Toàn cầu của Liên hợp quốc đưa ra cho thời gian từ năm 2023 đến năm 2030 giả định hoạt động tài khóa sau năm 2022 sẽ giảm, mức độ bất bình đẳng cao trong nước và sự lệ thuộc vào chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn còn đeo đẳng. Những dự báo này chỉ ra rằng sự kết hợp giữa chính sách tài chính hóa, tài khóa thắt chặt và bất bình đẳng sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng trong thời kỳ hậu đại dịch. Trong trường hợp không có một gói kích thích tài khóa lớn nào khác ở Trung Quốc, thì tốc độ giảm tăng trưởng ở Đông Á [ngoại trừ Trung Quốc] sẽ đặc biệt nghiêm trọng, được đánh dấu bởi tỷ lệ đầu tư giảm và ở các quốc gia có thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài là sự lệ thuộc ngày càng cao vào các nguồn vốn đầu tư chảy vào đầy rủi ro.

Các nước đang phát triển chủ yếu để cho các công cụ của riêng mình quản lý tác động của đại dịch đến kinh tế, và các nước này đã thay đổi đáng kể năng lực của mình trong việc đưa ra các chính sách ứng phó về tài khóa có thể so sánh được với các nước phát triển. Ngay cả tại khu vực Đông Nam Á, chi tiêu bổ sung cho y tế và an sinh xã hội dao động từ mức cao là 18% GDP ở Singapore đến 0% ở CHDCND Lào, Việt Nam đã tăng chi tiêu cho y tế và an sinh xã hội lên 2% GDP từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021.

Việt Nam đã áp dụng hai biện pháp tài khóa kể từ đầu đại dịch. Nghị quyết 42/NQ-CP về hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi Covid-19 được ban hành vào tháng 4 /2020 và bao gồm trong đó là gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ 20 triệu công nhân bị mất việc làm do đại dịch. Một gói hỗ trợ mới trị giá 26 nghìn tỷ đồng đã được công bố vào ngày 1/7/2021 để giúp những người lao động bị ảnh hưởng bởi phong tỏa và giãn cách xã hội trong đợt bùng phát dịch gần nhất [Nghị quyết 68/NQ-CP]. Chính phủ đã có những hành động kịp thời nhằm giảm bớt khó khăn cho các hộ gia đình không có thu nhập do mất việc làm hoặc mất thu nhập từ công việc tự do.

Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy gói hỗ trợ vừa không đủ lớn vừa không đủ rộng về phạm vi để bảo vệ các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn khỏi bị mất thu nhập do phong tỏa và giãn cách xã hội. Một nghiên cứu mới đây do Trung tâm Phân tích và Dự báo - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện cho thấy tỷ lệ nghèo về thu nhập tạm thời đã tăng từ mức 10% trước đại dịch lên 33,4% vào tháng 08 năm 2021 [dựa trên chuẩn nghèo 2021-2025 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành]. Theo báo cáo này, chín mươi phần trăm số người được hỏi đã không nhận được hỗ trợ kể từ khi gói tháng 7 năm 2021 được phê duyệt và lao động di cư, lao động tự do và người vô gia cư không đủ điều kiện được nhận trợ cấp. Hàng ngàn hộ gia đình buộc phải cắt giảm chi tiêu, thậm chí cắt giảm cả tiền sữa cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Theo một báo cáo đánh giá tình hình triển khai Nghị quyết 68 do Viện Khoa học Lao động và Xã hội [Bộ Lao động Thương binh và Xã hội] thực hiện khẳng định rằng tỷ lệ bao phủ của các chương trình hỗ trợ tiền mặt còn thấp do thiết kế chương trình loại trừ các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn như lao động di cư không đăng ký và lao động tự do trong khu vực phi chính thức. Báo cáo cũng chỉ ra rằng độ bao phủ giữa các tỉnh là khác nhau vì chương trình dựa vào chính quyền địa phương để huy động nguồn kinh phí. Các quy định rườm rà cho người nhận trợ cấp và người sử dụng lao động cũng đã làm giảm tỷ lệ bao phủ và tỷ lệ giải ngân.

Theo UNDP khoản ứng phó tài khóa của Việt Nam đối với cuộc khủng hoảng là nhỏ so với các nước láng giềng. Lý do cho các nỗ lực tài khóa hạn chế là cần phải kiềm chế bội chi ngân sách của chính phủ để ngăn tỷ lệ nợ trên GDP tăng lên có khả năng gây ra lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán. Mặc dù logic này có giá trị trong những giai đoạn bình thường, nhưng cần phải thừa nhận rằng giãn cách xã hội và phong tỏa là một tình huống rất bất thường đòi hỏi phải có các biện pháp đặc biệt. Mặc dù trong hầu hết các năm, tăng trưởng tiêu dùng tư nhân chiếm từ 60 đến 70% tổng tăng trưởng kinh tế, nhưng trong thời gian đóng cửa, tiêu dùng bị kìm hãm bởi các biện pháp hạn chế đi lại và đóng cửa các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ. Tiêu dùng đóng góp tương đối ít vào tăng trưởng sản lượng trong năm 2020 do các hộ gia đình buộc phải kiềm chế chi tiêu trong thời kỳ đại dịch. Tiêu dùng đã phục hồi trong nửa đầu năm 2021, nhưng chúng ta có thể dự đoán rằng chi tiêu sẽ giảm mạnh trong nửa cuối năm vì các hộ gia đình phải đối mặt với các lệnh hạn chế nhằm kiểm soát sự lây lan của đợt bùng phát dịch mới nhất.

Việc cắt giảm chi tiêu do lệnh phong tỏa giãn cách xã hội dẫn đến tiết kiệm bắt buộc hoặc tiết kiệm ngoài kế hoạch, vì không thể tiêu dùng được theo kế hoạch. Do phần lớn hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của các hộ gia đình thường được sản xuất trong nước, nên các khoản tiết kiệm bắt buộc này thể hiện sự mất đi thu nhập đối với các công ty trong nước sản xuất, vận chuyển và bán những hàng hóa và dịch vụ đó. Tác động của chi tiêu thấp hơn được khuếch đại lên khi việc giảm chi tiêu trong vòng đầu có tác động gián tiếp đến các vòng tiếp theo. Ví dụ, khi một hộ gia đình cắt giảm chi tiêu cho các bữa ăn được phục vụ sẵn thì chủ quán ăn sẽ mua ít thịt và bún mì phở hơn, đồng thời giảm tiền công cho đầu bếp và nhân viên dọn dẹp. Điều này làm giảm thu nhập của các cơ sở sản xuất thịt và bún mì phở, giảm tiền lương trả cho nhân công của họ và giảm thu nhập của các cơ sở bán hàng hóa và dịch vụ cho những nhân công này. Mỗi vòng giảm chi tiêu sẽ khuếch đại tác động của vòng giảm chi tiêu ban đầu. Đây là hiệu ứng cấp số nhân, quy mô của hiệu ứng đó phụ thuộc vào tỷ lệ thu nhập mà các hộ gia đình thường chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước. Hệ số nhân lớn hơn 1, nghĩa là mức đóng góp cuối cùng vào tổng sức cầu của các vòng chi tiêu sau sẽ lớn hơn mức gia tăng chi tiêu ban đầu.

Các doanh nghiệp đóng thuế trên thu nhập mình kiếm được, do đó việc giảm chi tiêu cũng làm giảm thu ngân sách. Các gói kích thích làm tăng chi tiêu trong nước sẽ chi trả một phần cho chính phủ vì chúng làm tăng hoạt động kinh tế trong nước và do đó tạo ra nguồn thu thuế.

Một ý nghĩa quan trọng khác của tiết kiệm bắt buộc là một số khoản chi tiêu bị giảm đi sẽ tích lũy thành dư tiền mặt và hàng tồn kho. Những số dư này là một sự tiêu hao của tổng cầu trừ khi số tiền đó được huy động từ việc bán nợ công, số tiền thu về được chi tiêu theo những cách làm tăng tiêu dùng và đầu tư trong nước. Nợ công tăng thêm không tạo ra lạm phát giá bởi vì những khoản tiền mặt này là nhàn rỗi, nói cách khác, chính phủ không phải cạnh tranh với những người đi vay khác để sử dụng số tiền này. Chi tiêu chính phủ tăng thêm cũng sẽ không tạo ra tình trạng thiếu hụt lao động, đầu tư hay hàng hóa tiêu dùng, bởi vì nền kinh tế đang hoạt động dưới mức tiềm năng của mình. Do đó, rủi ro lạm phát giá là nhỏ.

Một lập luận khác đối với việc thực hiện chương trình hỗ trợ tiền mặt lớn là một phần chi tiêu bổ sung sẽ được sử dụng để mua hàng nhập khẩu, điều này có thể có tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán. Tuy nhiên, như thể hiện trong Hình 4, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn duy trì thặng dư trong suốt đại dịch mặc dù bị mất đi thu nhập từ du lịch, bởi vì xuất khẩu phục hồi nhanh chóng từ mức thấp trong quý II năm ngoái. Mặc dù nhập khẩu phục hồi trong nửa đầu năm 2021, nhưng điều này khó có thể xảy ra trong nửa cuối năm do tiêu dùng bị kìm hãm từ tháng 7. Hơn nữa, tỷ lệ tiền mặt nhận được từ hỗ trợ để tiêu dùng hàng nhập khẩu có thể không nhiều khi các khoản hỗ trợ này được chuyển trực tiếp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình, là các hộ chi tiêu phần lớn thu nhập của họ cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước như lương thực thực phẩm, điện nước, nhà ở và các dịch vụ thiết yếu như giáo dục và chăm sóc sức khỏe.

Do tiết kiệm bắt buộc, Chính phủ có thể tăng đáng kể quy mô của chương trình hỗ trợ tiền mặt mà không vấp phải nguy cơ tăng lạm phát hoặc tăng lãi suất. Một gói trợ cấp tiền mặt với quy mô tương đương 5% GDP quý được giải ngân trong những tháng cuối năm 2021 [khoảng 77 nghìn tỷ đồng] là tương đương mức hỗ trợ của các quốc gia khác trong khu vực. Như đã đề cập trên đây, hiệu ứng hệ số nhân của việc gia tăng tiêu dùng lớn hơn 1 - điều này có nghĩa là gói trợ cấp 77 nghìn tỷ đồng sẽ có tác động lớn hơn nhiều đến tổng tiêu dùng tư nhân và tổng sản lượng kinh tế.

Để đạt được đồng thời mục tiêu kép là hỗ trợ các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn và kích thích tăng trưởng kinh tế thì cần phải triển khai chương trình hỗ trợ tiền mặt càng nhanh càng tốt. Cách nhanh nhất để triển khai là áp dụng ngay gói trợ cấp cho trẻ em cho: Mọi trẻ từ sơ sinh đến 6 tuổi [khoảng 11 triệu trẻ], với điều kiện xuất trình được giấy khai sinh chứng minh độ tuổi, Phụ nữ mang thai; Người cao tuổi từ đủ 60 [có khoảng 11,5 triệu người], bao gồm cả người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên – thuộc đối tượng bảo trợ xã hội thường xuyên với điều kiện họ không có lương hưu; Người khuyết tật. Bên cạnh đó, cần giảm thiểu yêu cầu về thủ tục hành chính và áp dụng việc đăng ký trực tuyến cho những người thuộc diện hỗ trợ. Tiền hỗ trợ sẽ được chi trả hàng tháng hay một lần, áp dụng cho ba tháng cuối năm 2021. Mức hỗ trợ có thể được xác định căn cứ trên mức tối thiểu để duy trì cuộc sống theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP [thay thế Nghị định 136/2013/NĐ-CP].

Một trong những bài học quan trọng rút ra từ sự lây lan với tốc độ chóng mặt của biến thể Delta là chúng ta không chỉ phải đối mặt với những bước lùi, mà thậm chí là chúng ta cần phải dự kiến trước những bước lùi đó. Do đó, một mặt cần triển khai gói hỗ trợ tạm thời ngay lập tức; mặt khác, cần chuẩn bị xây dựng các chương trình bổ sung nhằm duy trì tăng trưởng và tiêu dùng tư nhân trong trường hợp cần thiết. Các chương trình bổ sung cần giải quyết các vấn đề mà các chương trình ngắn hạn chưa giải quyết được. Ví dụ như: Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang đăng ký điện tử cho các đối tượng thụ hưởng trợ cấp xã hội dựa trên mã số định danh duy nhất thay vì dựa trên đăng ký cư trú. Triển khai chương trình hỗ trợ tiền thuê trọ nhằm đảm bảo người lao động thu nhập thấp không bị đuổi khỏi nơi thuê trọ trong thời gian giãn cách do mất thu nhập dẫn đến không trả được tiền trọ. Triển khai chương trình hỗ trợ máy tính bảng giá phải chăng sản xuất trong nước cho mọi trẻ trong độ tuổi đến trường cần thiết bị để học online tại nhà trong thời gian giãn cách xã hội. Phát phiếu mua hàng miễn phí hoặc giảm giá đối với các nhu yếu phẩm sản xuất trong nước, bao gồm gạo, rau củ quả, dầu ăn, quần áo, sách vở, dụng cụ học tập.

Mục tiêu của các chính sách, chương trình đề xuất trên đây là để hỗ trợ cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong trường hợp kéo dài thời gian giãn cách xã hội và đồng thời để duy trì mức tiêu dùng trong nước. Cần tập trung vào các mặt hàng nhu yếu phẩm sản xuất trong nước để góp phần thúc đẩy

Sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu sau đại dịch Covid-19 đã bắt đầu tập trung tăng tốc, nhưng các điều kiện vẫn còn xa so với bình thường. Số ca mắc mới vẫn ở mức cao, bao gồm cả ở Đông Nam Á và Việt Nam, và không thể loại trừ sự xuất hiện của các biến thể mới của vi rút. Các rủi ro khác cũng đe dọa sự phục hồi.

Tăng lạm phát ở Hoa Kỳ có thể dẫn đến lãi suất cao hơn và sự đảo ngược dòng vốn từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Thiếu một kế hoạch phục hồi toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau sẽ làm tăng khả năng các gói kích thích tài khóa — vốn là công cụ cho sự phục hồi của thương mại toàn cầu — sẽ bị rút lại quá sớm. Có vẻ vẫn chưa thể phục hồi được du lịch và đi lại trước năm 2024, và thậm chí mốc thời gian đó có thể vẫn là lạc quan nếu xuất hiện một đợt bùng phát dịch mới. Sản xuất và phân phối vắc xin diễn ra chậm chạp và không đồng đều, sẽ làm cản trở sự phục hồi của các nước đang phát triển, nhiều nước trong số này hiện đang phải gánh chịu số ca nhiễm cao nhất.

Tiêu dùng tư nhân sẽ bị kìm hãm trong nửa cuối năm nay ở Việt Nam, điều này sẽ làm giảm thu nhập, việc làm và số thu từ thuế. Để chống lại những tác động của tiết kiệm bắt buộc, UNDP đã đề xuất một chương trình hỗ trợ tiền mặt với quy mô khoảng 5% GDP quý, triển khai ngay từ thời điểm này và trong các tháng còn lại của năm 2021. Cần chú trọng giải ngân nhanh, đặc biệt là đối với những người dân đang sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do đại dịch. Có thể xem xét áp dụng trợ cấp tiền mặt cho tất cả người cao tuổi và trẻ nhỏ theo hướng phổ quát. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách hỗ trợ trong trung hạn và bắt đầu chuẩn bị cho công tác triển khai ngay từ bây giờ để ứng phó với trường hợp bị phong tỏa và giãn cách kéo dài.

Mạnh Hùng

Chậm phục hồi việc làm và gia tăng bất bình đẳng có nguy cơ để lại vết sẹo COVID-19 lâu dài

Dự báo của ILO nêu bật nguy cơ tiếp tục kéo dài những đặc điểm của một thị trường lao động thời COVID-19 với sự gia tăng bất bình đẳng về địa lý và nhân khẩu học, tình trạng đói nghèo nhiều hơn và ít việc làm thỏa đáng hơn.

Thông cáo báo chí | Ngày 02 tháng 6 năm 2021
© JannHuizenga GENEVA – Theo một đánh giá mới của Tổ chức Lao động Quốc tế [ILO], cuộc khủng hoảng thị trường lao động do đại dịch COVID-19 tạo ra còn lâu nữa mới kết thúc, và tăng trưởng việc làm sẽ không đủ để bù đắp cho những thiệt hại ít nhất là đến năm 2023.

Báo cáoTriển vọng Việc làm và Xã hội Thế giới: Xu hướng 2021 của ILO [WESO] dự báo “khoảng trống việc làm” do cuộc khủng hoảng toàn cầu gây nên sẽ đạt đến con số 75 triệu năm 2021, trước khi giảm xuống còn 23 triệu vào năm 2022. Khoảng trống về thời giờ làm việc, bao gồm cả khoảng trống việc làm và số giờ làm việc bị giảm tương đương với 100 triệu việc làm toàn thời gian vào năm 2021 và 26 triệu việc làm toàn thời gian năm vào 2022. Thiếu hụt việc làm và thời giờ làm việc sụt giảm cũng bắt nguồn từ tỷ lệ thất nghiệp cao, tình trạng không sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động và điều kiện làm việc kém từ trước khi cuộc khủng hoảng xảy ra.

Do đó, dự kiến sẽ có 205 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu vào năm 2022, tăng cao so với mức 187 triệu năm 2019. Con số này tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp 5,7%. Không tính đến thời kỳ khủng hoảng COVID-19 thì năm 2013 là lần cuối ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp ở mức này.

Những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong nửa đầu năm 2021 là châu Mỹ Latin và Ca-ri-bê, châu Âu và Trung Á. Ở cả hai khu vực này, ước tính tổn thất về thời giờ làm việc đã vượt mức 8% trong quý I và 6% trong quý II trong khi mức tổn thất về thời giờ làm việc toàn cầu trong quý I và quý II lần lượt là 4,8% và 4,4%.

Dự báo công cuộc phục hồi việc làm toàn cầu sẽ tăng tốc trong nửa cuối năm 2021 nếu tình hình đại dịch về tổng thể không trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, tiến trình phục hồi này sẽ không đồng đều do việc tiếp cận vắc xin không bình đẳng và hầu hết các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi không đủ khả năng để triển khai các biện pháp kích thích tài khóa mạnh mẽ. Hơn nữa, chất lượng của những việc làm mới tạo ra ở những nước này cũng có khả năng kém hơn.

Việc làm và thời giờ làm việc giảm kéo theo sự sụt giảm mạnh về thu nhập từ lao động, cùng với đó là sự gia tăng tương ứng về tỷ lệ nghèo. So với năm 2019, giờ đây đã có thêm 108 triệu người lao động trên toàn thế giới được phân loại vào nhóm nghèo hoặc nghèo cùng cực [nghĩa là họ và gia đình họ sống với mức thu nhập tương đương thấp hơn 3,2 đô la Mỹ mỗi ngày]. Theo báo cáo, “những tiến bộ đạt được trong 5 năm vừa qua hướng tới xóa bỏ tình trạng có việc làm nhưng vẫn nghèo đã trở lại điểm xuất phát”, đồng thời báo cáo cho biết thêm điều này khiến việc đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc về xóa nghèo trước năm 2030 càng khó khả thi hơn.

Khủng hoảng COVID-19 cũng khiến cho những bất bình đẳng vốn đã có từ trước trở nên tồi tệ hơn do khủng hoảng tác động nặng nề hơn tới những người lao động dễ bị tổn thương. Việc thiếu các chế độ an sinh xã hội ở nhiều nơi, như tình trạng của 2 tỷ người lao động trong khu vực phi chính thức trên toàn thế giới, đồng nghĩa với sự gián đoạn về việc làm do đại dịch đã và đang gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với thu nhập và sinh kế của gia đình người lao động.

Cuộc khủng hoảng cũng tác động đặc biệt nghiêm trọng tới phụ nữ. Việc làm của phụ nữ đã giảm 5% năm 2020, trong khi mức giảm việc làm của nam giới là 3,9%. Tỷ lệ phụ nữ rời khỏi thị trường lao động và không còn hoạt động kinh tế còn lớn hơn nữa. Việc phải gánh vác thêm những trách nhiệm gia đình do các biện pháp phong tỏa trong khủng hoảng cũng là nguy cơ dẫn đến “tái truyền thống hóa” những vai trò giới.

Trên toàn cầu, việc làm thanh niên đã giảm 8,7% năm 2020 so với mức 3,7% ở người trưởng thành, và các nước thu nhập trung bình ghi nhận sự sụt giảm này rõ rệt nhất. Hệ quả của sự trì hoãn và gián đoạn trong việc cho phép thanh niên sớm có được những trải nghiệm về thị trường lao động có thể còn kéo dài hàng năm.

Tác động của đại dịch đến triển vọng thị trường lao động của thanh niên được mô tả chi tiết hơn trong một báo cáo khác của ILO được công bố cùng thời điểm với báo cáo WESO này. Báo cáo với tiêu đề Cập nhật về tác động của khủng hoảng COVID-19 tới thị trường lao động thanh niên cũng cho thấy khoảng cách giới trong thị trường lao động trẻ ngày càng trở nên rõ rệt hơn.

“Phục hồi từ đại dịch COVID-19 không chỉ là vấn đề về sức khỏe. Chúng ta cần phải khắc phục cả những thiệt hại nặng nề mà đại dịch gây nên đối với các nền kinh tế và xã hội. Nếu không có những nỗ lực trọng điểm nhằm đẩy nhanh quá trình tạo việc làm thỏa đáng và hỗ trợ những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, khôi phục những lĩnh vực kinh kế bị ảnh hưởng nặng nề nhất, thì trong nhiều năm tới, chúng ta có thể sẽ vẫn còn phải gánh chịu những ảnh hưởng lâu dài của đại dịch trên phương diện thiệt hại về tiềm năng con người và tiềm năng kinh tế, và tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng gia tăng,” ông Guy Ryder, Tổng Giám đốc ILO, cho biết. “Chúng ta cần phải có chiến lược toàn diện và đồng bộ, dựa trên những chính sách lấy con người làm trung tâm và được hỗ trợ bởi hành động và kinh phí. Công cuộc phục hồi sẽ không thực chất nếu không phục hồi việc làm thỏa đáng.”

Ngoài đánh giá về tổn thất về thời giờ làm việc, tổn thất việc làm trực tiếp và chiều hướng tăng trưởng việc làm, báo cáo WESO cũng đề xuất một chiến lược phục hồi được cấu trúc trên bốn nguyên tắc: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên diện rộng và tạo việc làm năng suất; hỗ trợ thu nhập hộ gia đình và chuyển dịch thị trường lao động; củng cố những nền tảng thiết chế cần thiết cho tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn diện, bền vững và có sức chống chịu tốt; và sử dụng đối thoại xã hội trong xây dựng các chiến lược phục hồi lấy con người làm trung tâm.

Khu vực và Quốc gia: Châu Á và Thái Bình Dương, Việt Nam

Công cụ

Nội dung này được thể hiện bằng

  • العربية
  • Deutsch
  • English
  • español
  • français
  • Bahasa Indonesia
  • italiano
  • 日本語
  • Nederlands
  • português
  • Русский
  • ภาษาไทย
  • Türkçe
  • 中文
  • A
  • A+
  • A++
In
Chia sẻ nội dung này
in

TinHội nghị của ILO đạt thỏa thuận toàn cầu hành động vì công cuộc phục hồi từ khủng hoảng COVID-19 Thông cáo báo chíILO dự báo việc làm của khu vực ASEAN sẽ phục hồi chậm Ấn phẩmTriển vọng Việc làm và Xã hội Thế giới: Xu hướng 2021 [pdf 5980KB] Thông cáo báo chíMất 81 triệu việc làm do COVID-19 gây xáo trộn thị trường lao động châu Á – Thái Bình Dương ILO: Dự báo phục hồi không chắc chắn và không đồng đều sau khủng hoảng thị trường lao động chưa từng có tiền lệ Đại dịch COVID-19 hằn sâu bất bình đẳng giới hiện hữu, tạo thêm những bất bình đẳng mới ở Việt Nam

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề