Chống chỉ định của thuốc chẹn beta

 Cần tuân thủ chỉ định điều trị của thầy thuốc.

Khi dùng nhóm thuốc này, một số tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như gây ra hoặc làm nặng thêm suy tim, gây co thắt phế quản...

Cũng cần chú ý tới sự tương tác với các thuốc dùng đồng thời, trong đó có  tương tác làm nặng thêm tác dụng phụ của thuốc. Đới với các thuốc hạ huyết áp khác, thuốc làm tăng hiệu lực hạ huyết áp, song cũng làm tăng tác dụng phụ của chẹn beta [làm chậm nhịp tim, tụt huyết áp mạnh, gây ra hoặc làm nặng thêm suy tim, gây block nhĩ - thất, còn có thể gây loạn nhịp tim]. Mức tương tác cũng khác nhau. Với nhóm lợi niệu [thiazid] vẫn có thể  phối hợp được, nhưng cần điều chỉnh liều; Nếu trước đó đã dùng lợi niệu thì phải ngừng lợi niệu vài ba ngày rồi mới dùng chẹn beta; Nếu muốn dùng cùng lúc thì phải khởi đầu chẹn beta liều thấp. Với nhóm chẹn canxi [bebridil, nifedipin, diltiazem, verapamil] tương tác ở mức nghiêm trọng, dẫn tới suy tim, tuyệt đối không phối hợp.  

Khi dùng chung với thuốc chống loạn nhịp khác [như propafenon amiodaron, quinidin, disopyramid], chẹn beta làm tăng tính ức chế tim [gây rối loạn co bóp tim], tăng sự làm chậm dẫn truyền nhĩ thất lên quá mức [gây rối loạn dẫn truyền], hủy các tác dụng điều hòa tim mạch và điều hòa giao cảm làm mất tác dụng của các thuốc này.

Do có những tác dụng phụ và các tương tác trên, người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối sự chỉ định của thầy thuốc, không tự ý chọn thuốc hay thay đổi thuốc. Thực hiện đúng lịch khám định kỳ, chấp hành sự điều chỉnh thuốc nếu có, dùng đúng liều, khởi đầu liều thấp rồi tăng dần đến liều hiệu lực, không tự ý tăng liều theo cảm giác chủ quan [liều cao không tăng hiệu lực mà tăng tác dụng phụ].

Việc dùng lâu dài cơ thể đã quen với trạng thái ức chế nên không ngừng thuốc đột ngột, vì ngừng đột ngột sẽ làm tăng chứng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, loạn nhịp thất. Trong quá trình dùng thuốc, nếu thấy có biểu hiện suy tim thì báo ngay với thầy thuốc để được xử lý kịp thời. Khi đến phòng khám người bệnh cần mang theo y bạ để thầy thuốc nắm chắc tình trạng chung về thận, gan và có xử lý thích hợp.   

                                                                                                                                                                     DS. Bùi Văn Uy  

Thuốc chẹn beta giao cảm được chứng minh trong điều trị bệnh tim mạch, giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật. Phần lớn các thuốc chẹn beta hấp thu tốt qua đường uống. Thuốc chẹn beta thế hệ thứ ba có thêm tác dụng dãn mạch. Hiện tại, thuốc chẹn beta sử dụng trong nhiều chỉ định bệnh tim mạch. Bằng chứng mạnh nhất trong chỉ định điều trị suy tim tâm thu, sau nhồi máu cơ tim. Chẹn beta hiện tại cũng được khuyến cáo là thuốc đầu tiên trong điều trị tăng huyết áp trong các Hướng Dẫn mới.

Trong bài viết này, Chúng tôi viết về đặc điểm dược học và các chỉ định lâm sàng, nghiên cứu và các khuyến cáo về thuốc chẹn beta thế hệ mới.

1. Tổng quan

Thuốc Chẹn beta giao cảm lần đầu tiên được Ngài James Black phát hiện ở Anh năm 1962 và Ngài James Black được trao giải Nobel Y học năm 1988 cho phát minh này.

Chẹn beta giao cảm là 1 trong 4 nhóm thuốc được chứng minh giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật ở bệnh nhân tim mạch, 3 nhóm khác là: ức chế men chuyển [ức chế thụ thể angiotensin II], statin, chống ngưng tập tiểu cầu.

Có 3 thế hệ thuốc chẹn beta [Bảng 1]:

  • 1] Thế hệ thứ nhất:thuốc không chọn lọc lên tim [ức chế cả thụ thể beta 1 và beta 2];
  • 2] Thế hệ thứ 2: thuốc chọn lọc lên tim [chỉ ức chế thụ thể beta 1 chủ yếu ở tim];
  • 3] Thế hệ thứ 3:thêm tác dụng dãn mạch.

Bảng 1. Các thế hệ thuốc chẹn beta

Đặc điểm

Thuốc

Thế hệ 1

Không chọn lọc + Không dãn mạch

Propranolol, Timolol, Nadolol, Sotalol

Thế hệ 2

Chọn lọc thụ thể beta 1

Atenolol, Bisoprolol,

Metoprolol

Thế hệ 3

Dãn mạch + Không chọn lọc

Carvedilol, Bucindolol

Dãn mạch + Chọn lọc thụ thể beta 1

Nebivolol

2. Các khuyến cáo điều trị thuốc chẹn beta giao cảm trong bệnh tim mạch

Bảng 2. Các khuyến cáo điều trị thuốc chẹn beta trong bệnh tim mạch

Khuyến cáo

Chỉ định

Mức độ bằng chứng

Tăng huyết áp

Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch Châu Âu 2013

Chẹn beta chỉ định điều trị khởi đầu hoặc phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp

I

A

Hướng Dẫn của Hiệp hội tăng huyết áp Canada 2015

Ø > 60 tuổi: chẹn beta điều trị phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp.

Ø ≤ 60 tuổi : Chẹn beta chỉ định điều trị khởi đầu hoặc phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp

Suy tim

Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch và trường môn tim mạch Hoa Kỳ năm 2013

Chỉ định chẹn beta cho tất cả bệnh nhân có suy tim hoặc tiền sử suy tim có phân xuất tống máu giảm [< 40%], ngoại trừ chống chỉ định, để giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật.

I

A

Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch Châu Âu năm 2012

Chẹn beta chỉ định ở tất cả bệnh nhân suy tim có phân xuất tống máu giảm [< 40%] để giảm tỉ lệ nhập viện do suy tim và tử vong.

I

A

Bệnh mạch vành

Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch và trường môn tim mạch Hoa Kỳ năm 2012

Chẹn beta chỉ định ở tất cả bệnh nhân trong và sau hội chứng mạch vành cấp có chức năng thất trái bình thường hoặc phân xuất tống máu giảm, nếu không có chống chỉ định.

I

B

3. Những ưu điểm của thuốc chẹn beta giao cảm thế hệ mới

Thuốc chẹn beta thế hệ mới đặc biệt là Nebivolol, một thuốc chẹn beta thế hệ thứ 3 có những ưu điểm:

  • Tác dụng dãn mạch qua Nitric Oxide: Hiệu quả hơn trong điều trị tăng huyết áp, giảm phì đại thất trái.
  • Chọn lọc thụ thể beta-1 rất cao: giảm tác dụng phụ ở bệnh nhân COPD. Ít gây rối loạn chuyển hoá đường và mỡ.
  • Không làm giảm khả năng cương dương ở nam giới

3.1.Tác dụng dãn mạch qua Nitric Oxide

Nitric Oxide được sinh ra ở lớp nội mạc mạch máu, có tác dụng giảm kết dính và giảm viêm ở thành nội mạc. Quá trình này sẽ ngăn chẹn rối loạn chức năng nội mạc mạch máu, tăng dãn mạch, có tác dụng giảm huyết áp và giảm khối thất trái, cải thiện xơ cứng mạch máu. Nebivolol tạo ra Ntiric Oxide qua việc kích thích thụ thể beta-3, sự sản xuất Nitric Oxide xảy ra ở cả mạch máu và tim.

Nitric Oxide sản xuất tại nội mạc mạch máu làm giãn mạch dẫn đến tăng dòng máu đến các cơ làm tăng sự hấp thụ đường và kích thích insulin. Vì vậy, các chẹn thụ thể beta thế hệ mới có tác dụng giãn mạch có tác dụng làm giảm đề kháng insulin, Nghiên cứu lâm sàng cho thấy: chỉ số nhạy cảm insulin tăng hơn ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc chẹn beta thế hệ mới có dãn mạch [như Nebivolol] so với nhóm không có tính chất dãn mạch.

Nghiên cứu SENIORS, ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, có nhóm chứng, gồm 2128 bệnh nhân tuổi trung bình 76 tuổi, có phân xuất tống máu giảm < 35% hoặc suy tim, được điều trị bằng Nebivolol hoặc giả dược. Kết quả cho thấy: giảm tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở nhóm điều trị Nebivolol so với nhóm giả dược; Đồng thời tỉ lệ tác dụng phụ hoặc cần ngưng thuốc tương giữa 2 nhóm.

3.2. Chọn lọc thụ thể beta-1

Các thuốc chọn lọc thụ thể beta-1 ưa thích sử dụng hơn ở bệnh nhân: bệnh phổi mạn tính, hút thuốc lá, đái tháo đường có sử dụng insulin, và dự phòng đột quỵ.

Bệnh nhân điều trị thuốc chọn lọc chẹn beta-1 có độ thay đổi huyết áp tâm thu ít hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị thuốc chẹn beta không chọn lọc. Do đó, giảm tỉ lệ đột quỵ ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc chọn lọc chẹn thụ thể beta-1 so với nhóm dùng chẹn thụ thể beta thế hệ cũ.

Hai phân tích gộp, bệnh nhân điều trị thuốc chẹn chọn lọc thụ thể beta-1 có bệnh kèm COPD, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tiến triển nặng COPD giữa nhóm điều trị và Placebo.

Thuốc chẹn beta thế hệ thứ nhất có thể làm tăng Triglyceride và giảm HDL-Cholesterol máu. Điều này được giải thích qua cơ chế: Thuốc ức chế thụ thể beta sẽ ức chế hoạt động của men lipoprotein lipase, sự giảm hoạt động của men lipoprotein lipase sẽ làm tăng triglyceride và giảm HDL. Do đó, các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể beta-1 ít ảnh hưởng lên chuyển hoá lipid qua cơ chế này.

3.3. Không có tác dụng phụ làm giảm khả năng cương dương ở nam giới

Rối loạn cương dương thường xảy ra trên bệnh nhân nam giới tăng huyết áp, thường do tác dụng phụ của thuốc điều trị tăng huyết áp trong đó có thuốc chẹn thụ thể beta.

Nitric oxide đóng vai trò chủ yếu của chức năng cương dương qua trung gian sự dãn cơ xốp của thể hang. Các thuốc chẹn thụ thể beta thế hệ thứ 3 có tác dụng dãn mạch qua cơ chế tăng phóng thích Nitric Oxide làm tăng khả năng cương dương. Nghiên cứu trên 131 người đàn ông điều trị tăng huyết áp: số giai đoạn hài lòng trong quan hệ tình dục không thay đổi ở bệnh nhân trước và sau điều trị Nebivolol. Kết quả tương tự cũng được kết luận ở bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch vành có dung Nebivolol.

4. Kết Luận

Chẹn thụ thể beta là nhóm thuốc quan trọng trong điều trị bệnh tim mạch: tăng huyết áp, suy tim, bệnh mạch vành. Tuy nhiên, những bận tâm về tác dụng phụ và dung nạp của thuốc làm giới hạn sử dụng thuốc trong thực hành lâm sàng. Tính chất dược lý học của thuốc chẹn beta thế hệ mới làm cải thiện quả lâm sàng, tăng tính dung nạp, giảm tác dụng phụ. Kết quả được chứng minh qua các nghiên cứu lâm sàng.

Nebivolol là chẹn beta thế hệ thứ ba có ưu điểm dãn mạch qua cơ chế tăng tiết Nitric oxide, và có tính chọn lọc thụ thể beta-1 ở tim rất cao làm cho thuốc có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tim mạch cũng như giảm tác dụng phụ, tăng tính dung nạp thuốc.

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương-Đa khoaHạng I Thành phố Hồ Chí Minh

facebook.com/BVNTP

youtube.com/bvntp

Video liên quan

Chủ Đề