Chiều dài tương đối chi dưới bình thường bao nhiêu
Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Show Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương Tổn thương cơ xương khớp khá phổ biến và rất khác nhau về cơ chế, mức độ nghiêm trọng và điều trị. Các chi, cột sống và xương chậu có thể bị ảnh hưởng. Một số loại gãy xương được thảo luận trong các phần khác của CẨM NANG: Có thể kèm gãy xương
Xương sẽ liền lại ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân và các bệnh lí kèm theo. Ví dụ, trẻ em liền xương nhanh hơn người lớn; các bệnh làm giảm sự tuần hoàn ngoại vi (ví dụ, tiểu đường, bệnh mạch máu ngoại biên) gây kéo dài thời gian liền xương. Sự liền xương xảy ra qua 3 giai đoạn chồng chéo nhau:
Pha viêm xảy ra trước tiên. Có hiện tượng hình thành cục máu tụ tại chỗ gãy xương, và một lượng nhỏ các mảnh vỡ xương ở đầu ngoại vi được tái hấp thu. Một đường gãy không biểu hiện rõ ràng ở lúc ban đầu (ví dụ như ở một số loại gãy xương không di lệch), có thể sẽ rõ hơn sau 1 tuần bởi hiện tượng tái hấp thu một lượng xương nhỏ. Có sự hình thành can xương trong suốt pha tái tạo. Hiện tượng tân tạo mạch máu cho phép hình thành sụn băng qua đường gãy. Bất động (ví dụ bằng bột) là cần thiết trong 2 giai đoạn đầu để các mạch máu có thể phát triển. Giai đoạn tái tạo kết thúc bằng biểu hiện liền trên lâm sàng (tức là khi hết đau tại chỗ gãy, vận động không đau và khám lâm sàng không phát hiện chuyển động xương). Trong pha hồi phục, các can xương, thứ có nguồn gốc từ sụn, sẽ tiến hành cốt hóa, xương được hấp thu và tái tạo lại. Trong giai đoạn này, bệnh nhân nên được hướng dẫn từ từ tập vận động lại phần chi thể tổn thương về bình thường, bao gồm cả bắt đầu tập tì. Các biến chứng nặng nề của gãy xương tuy hiếm gặp, nhưng cũng có thể gây giảm chức năng vĩnh viễn, tàn phế, và thậm chí tử vong. Gãy xương hở dễ bị nhiễm trùng, các loại gãy xương kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, dập nát phần mềm nhiều là những loại gãy có nguy cơ xảy ra biến chứng cao. Gãy xương kín không kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, được nắn chỉnh sớm thì ít khi xảy ra biến chứng nặng nề. Các biến chứng cấp tính (tổn thương liên quan) bao gồm:
Các biến chứng muộn của gãy xương bao gồm:
Tại khoa cấp cứu, nếu cơ chế chấn thương cho thấy có khả năng bị thương nặng hoặc nhiều thương tổn (ví dụ: va chạm xe cơ giới tốc độ cao hoặc ngã từ trên cao), bệnh nhân trước tiên được đánh giá từ đầu đến chân để tìm các vết thương nghiêm trọng đối với tất cả các hệ cơ quan và, nếu cần, được hồi sức (xem Cách tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Chấn thương là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trong độ tuổi từ 1 tới 44. Tại Mỹ, có 278.345 ca tử vong do chấn thương trong năm 2020, khoảng 70% là do tai nạn. Trong số tử vong do thương tích... đọc thêm ). Những bệnh nhân có gãy xương đùi hay vỡ xương chậu có thể dẫn tới tình trạng sốc mất máu do lượng máu mất đi rất lớn. Nếu một chi bị chấn thương, cần kiểm tra ngay đó có phải là gãy hở không, kiểm tra các dấu hiệu tổn thương thần kinh, mạch máu (như tê bì, mất vận động cảm giác, giảm tưới máu) và đánh giá hội chứng khoang (đau không tương xứng tổn thương, da nhợt, tê bì, đầu chi lạnh, mất mạch). Bác sĩ lâm sàng có thể nghi ngờ gãy xương chỉ cần dựa trên các triệu chứng cơ năng cũng như kết quả của việc thăm khám thực thể, tuy nhiên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh (thường là X-quang) là cần thiết để xác nhận chẩn đoán. Bệnh nhân gãy xương cần được thăm khám thêm cả hệ thống dây chằng, gân, cơ. Tuy nhiên, việc gãy xương sẽ làm hạn chế việc thăm khám (thí dụ, không thể thực hiện các nghiệm pháp stress vì bệnh nhân quá đau). Khớp trên và khớp dưới vết thương cũng nên được kiểm tra, bởi vì chấn thương đồng thời và đau quy chiếu là phổ biến. Cơ chế (ví dụ, hướng và cường độ của tác động) có thể gợi ý các loại tổn thương. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không nhớ hoặc không thể mô tả chính xác cơ chế chấn thương. Thăm khám bao gồm
Nếu co cơ và đau làm hạn chế thăm khám thực thể (đặc biệt là các nghiệm pháp thăm khám), thăm khám sẽ dễ dàng hơn sau khi bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc có thể thăm khám bệnh nhân lại vài ngày sau khi bất động gãy xương, khi đó các cơ sẽ giảm co thắt. Một số dấu hiệu chính xác gợi ý gãy xương hay một chấn thương hệ cơ xương khác. Biến dạng gợi ý gãy xương, nhưng nó cũng có thể là một trật khớp hay bán trật (trật khớp không hoàn toàn). Sưng nề thường gặp trong gãy xương hoặc những tổn thương khác của hệ cơ xương, tuy nhiên triệu chứng này cần vài giờ để biểu hiện rõ. Nếu không có sưng nề xảy ra trong khoảng thời gian này, thường ít khi có gãy xương. Với một số loại gãy (ví dụ, gãy "oằn" ở trẻ em, gãy không di lệch), triệu chứng sưng nề có thể nhẹ hơn, nhưng rất hiếm khi không có. Đau chói đi kèm với gần như tất cả các tổn thương hệ vận động, đối với một số bệnh nhân, sờ nắn xung quanh khu vực bị thương đều gây khó chịu cho bệnh nhân. Tuy nhiên, đau tăng đột ngột tại một điểm cụ thể (điểm đau khu trú) gợi ý có gãy xương. Một chỗ mất liên tục có thể sờ rõ trên xương gãy. Lạo xạo (một dấu hiệu đặc trưng khi sờ và/hoặc có thể nghe được- xảy ra khi ổ gãy di chuyển) là một dấu hiệu của gãy xương. Nếu có một vết thương gần chỗ gãy thì coi đó là gãy xương hở. Gãy xương hở có thể được phân loại bằng hệ thống Gustilo-Anderson:
Phân độ cao hơn sẽ có nguy cơ viêm tủy xương cao hơn; tuy nhiên thực tế độ tin cậy của hệ thống này không cao (thường chỉ khoảng 60%), các tổn thương cụ thể cần đánh giá thêm trong mổ. Không phải tất cả các trường hợp nghi ngờ gãy xương đều cần chẩn đoán hình ảnh. Một số loại gãy rất nhỏ được điều trị tương tự như chấn thương phần mềm. Ví dụ, hầu hết các chấn thương ở ngón chân 2 đến 5 và hay một số chấn thương ở đầu ngón tay được điều trị triệu chứng đơn thuần dù có gãy hay không, do đó không cần chụp phim. Ở nhiều bệnh nhân bong gân cổ chân, khả năng tìm được đường gãy xương để khiến thay đổi hướng điều trị là rất thấp, do đó ít khi cần chụp phim X-quang. Đối với chấn thương cổ chân, các tiêu chuẩn đã được thừa nhận để chụp X-quang ( ) có thể hạn chế giúp tia X không cần thiết cho bệnh nhân. Nếu cần chẩn đoán hình ảnh, chụp X-quang thường được ưu tiên thực hiện. X-quang thường quy giúp nhìn thấy hình thái xương (và có thể là tràn dịch khớp thứ phát do chảy máu ở các loại gãy xương kín đáo) do đó rất hữu ích để chẩn đoán gãy xương. Chúng thường bao gồm ít nhất 2 tư thế chụp (thường là phim chụp trước-sau và phim nghiêng). Các chế độ xem bổ sung (ví dụ: xiên) có thể được thực hiện khi
Khi chụp tư thế nghiêng của các ngón tay, ngón cần chụp cần được tách biệt ra khỏi những ngón còn lại. Cộng hưởng từ hoặc là CTcó thể được sử dụng nếu
Ví dụ, các dấu hiệu sau khi ngã gợi ý gãy xương vùng háng, MRI nên được tiến hành để phát hiện các gãy xương kín đáo. Một số thăm dò khác có thể được thực hiện để đánh giá các tổn thương kèm theo:
Mô tả ổ gãy trên X-quang bằng cách sử dụng các thuật ngữ như sau:
Các thuật ngữ về vị trí gãy bao gồm
Các loại đường gãy phổ biếnNgang đường gãy vuông góc với trục thân xương. Xiên đường gãy tạo góc với trục. Chéo xoắn gãy xương hậu quả sau cơ chế xoay; trên tia X, chúng được phân biệt với các đường gãy xiên bởi một đường gãy song song với trục dài của xương trên ít nhất một tư thế phim. Gãy vụn có \> 2 mảnh xương. Gãy phức tạp bao gồm gãy nhiều đoạn (2 đường gãy tách rời trên cùng xương). Gãy xương kiểu đứt rời là do gân giật ra kèm xương. Trong gãy nén, các đầu xương gãy được đẩy chặt vào nhau, làm ngắn xương; loại gãy này có thể biểu hiện như một đường tăng mật độ bất thường ổ gãy, hoặc những bất thường ở vỏ xương. Gãy oằn (gãy nén 1 thành xương) và Gãy cành tươi (gãy không rách màng xương) là những loại gãy hay gặp ở trẻ em. Mối liên hệ các mảnh vỡCó thể xảy ra sự giãn cách, di lệch ngang, gấp góc, chống ngắn. Giãn cách là sự tách biệt ra xa của 2 đầu ổ gãy theo trục xương. Di lệch là mức độ mà 2 đầu ổ gãy di lệch khỏi nhau; được mô tả bằng milimet hoặc tỷ lệ phần trăm bề rộng xương. Gập góc là di lệch tạo thành góc của trục 2 đầu xương gãy. Di lệch và gấp góc có thể xảy ra ở mặt phẳng trước sau, trong ngoài hoặc cả hai.
Các dây thần kinh bị đứt cần được phẫu thuật sửa chữa; đối với chứng đau thần kinh và bệnh lý sợi trục, điều trị ban đầu thường là theo dõi, điều trị hỗ trợ và đôi khi vật lý trị liệu. Hầu hết các gãy xương vừa và nặng, đặc biệt là gãy mất vững, cần được cố định ngay bằng cách nẹp (không nên cố định bột tròn kín) để giảm đau và để ngăn ngừa tổn thương thứ phát đến phần mềm do các mảnh vỡ. Ở những bệnh nhân gãy xương dài, việc nẹp cố định có thể giúp ngăn ngừa biến chứng tắc mạch mỡ. Sau khi tiến hành điều trị ban đầu, gãy xương cần được nắn chỉnh, bất động và điều trị triệu chứng. Biến dạng xoay xấu, gập góc hay di lệch nhiều phải được nắn chỉnh (đặt lại xương về giải phẫu), và thường cần tiến hành dưới tác dụng của gây tê hoặc gây mê. Ngoại trừ một số loại gãy ở trẻ em còn trong quá trình phát triển, theo thời gian biến dạng có thể dần dần khắc phục được. Nắn kín (bằng các thao tác kéo, không rạch da) nên được thực hiện nếu có thể. Nếu nắn kín thất bại, cần mổ mở nắn chính; khi đó cần phải gây mê hoặc gây tê. Việc nắn chỉnh ổ gãy thường cần được duy trì bằng bột, tuy nhiên một số loại gãy chỉ cần bất động bằng nẹp hoặc treo tay. Mổ mở nắn chỉnh ổ gãy cần được cố định bằng các phương tiện khác nhau, có thể sử dụng phương tiện cố định bên ngoài và/hoặc bên trong. Trong phẫu thuật mổ mở nắn chỉnh cố định xương bên trong (ORIF), các mảnh được đặt lại và giữa bằng cách sử dụng kết hợp các loại kim, nẹp, vít. Mổ mở nắn chỉnh cố định (ORIF) thường được chỉ định khi
PRICE (bảo vệ [protection], nghỉ ngơi [rest], chườm lạnh [ice], băng ép [compression] và nâng cao chi [elevation]) có thể hữu ích. Bảo vệ giúp tránh các thương tổn thêm. Nó có thể liên quan đến hạn chế hoạt động cơ quan tổn thương bằng việc bột bất động, nẹp bất động hoặc dùng nạng. Nghỉ ngơi có thể ngăn ngừa tổn thương thêm và giúp hồi phục nhanh hơn. Chườm lạnh và băng ép làm giảm sưng và đau. Đá được bọc kín trong túi nilon hoặc khăn và được chườm ngắt quãng trong 24 đến 48 giờ đầu tiên (trong 15 đến 20 phút, mỗi lần chườm). Chấn thương có thể được băng ép thanh, băng thun, hoặc, đối với một số thương tích có thể gây ra sưng nề, băng gạc Jones. Băng ép Jones gồm 4 lớp; lớp 1 (trong cùng) và lớp 3 là bông cotton, và lớp 2 và 4 là băng thun. Nâng cao chi bị thương lên hơn tim trong 2 ngày đầu để không cản trở lượng máu về; vị trí như vậy cho phép dẫn lưu dịch theo trọng lực và giảm phù nề. Sau 48 giờ, phủ ấm chi theo chu kì (ví dụ, bằng một miếng đệm lót sưởi ấm) trong 15 đến 20 phút có thể làm giảm đau và làm lành nhanh chóng. Bất động giúp làm giảm đau và tạo điều kiện cho việc chữa lành thương tổn, ngăn ngừa thương tổn thứ phát và giữ cho đầu gãy đúng trục. Các khớp trên và dưới của thương tổn cũng nên được bất động. Phần lớn các loại gãy được bất động vài tuần trong bột tròn kín. Một số loại gãy liền nhanh, gãy vững (ví dụ, gãy oằn xương cổ tay ở trẻ em) không cần bó bột, vận đông sớm cho kết quả tốt nhất. Bệnh nhân được bất động bằng bột cần được đưa tờ hướng dẫn bao gồm:
Vệ sinh tốt là rất quan trọng. Thanh nẹp (xem hình ) có thể được sử dụng để cố định một số vết thương ổn định, bao gồm một số vết gãy nghi ngờ nhưng chưa được chứng minh và vết gãy lành nhanh cần phải bất động trong vài ngày hoặc ít hơn. Một thanh nẹp không hình vòng; do đó, nó cho phép bệnh nhân chườm đá và vận động nhiều hơn khi phải bó bột. Ngoài ra, nó không gây chèn ép trong một số trường hợp chi bị sưng nề, do vậy không gây ra hội chứng khoang. Một số tổn thương mà cuối cùng cần bó bột được cố định ban đầu bằng nẹp cho đến khi gần hết sưng nề chi. Bất động khớp trong điều trị cấp tính: Một số kỹ thuật thường được sử dụngTreo tay giúp hỗ trợ một phần và hạn chế di động; nó có thể hữu ích đối với một số loại gẫy xương nhất định (ví dụ như gãy xương đòn ít di lệch, gãy đầu gần xương cánh tay), đặc biệt khuyến cáo trong những trường hợp mà việc cố định hoàn toàn là không nên (ví dụ như chấn thương vai, nếu hoàn toàn cố định có thể nhanh chóng dẫn đến viêm dính khớp (đông cứng khớp vai). Băng cuốn (một mảnh vải hoặc một dây đeo) có thể được sử dụng cùng với băng treo để ngăn cánh tay không xoay ngoài, đặc biệt vào ban đêm. Băng cuốn được cuốn vòng quanh lưng và trên vị trí tổn thương. Băng vải cuốn xung quanh thỉnh thoảng được dùng hỗ trợ thêm cho treo tay để bất động trong trường hợp gãy đầu gần xương cánh tay loại 1 mảnh rời. Việc cố định khớp kéo dài (\> 3 đến 4 tuần đối với người trẻ tuổi) có thể gây cứng khớp, co rút và teo cơ và thường không được khuyến cáo. Những biến chứng này có thể phát triển nhanh chóng và có thể vĩnh viễn, đặc biệt là ở người cao tuổi. Một số loại chấn thương liền nhanh được điều trị tốt nhất khi cho phép tập vận động tích cực lại trong vài ngày hoặc vài tuần đầu; sự vận động sớm như vậy có thể giảm thiểu hiện tượng cứng cơ và teo cơ, do đó làm tăng tốc tiền trình hồi phục lại chức năng. Nẹp và bó bột nên cố định khớp ở những vị trí tối ưu hóa khả năng trở lại đầy đủ chức năng (ví dụ, bất động khớp của xương đốt bàn tay ngón tay [MCP] phải định vị khớp của xương đốt bàn tay ngón tay ở trạng thái gập để duy trì sự kéo dài của các gân ở bàn tay). Các nhà trị liệu vật lý sẽ cho bệnh nhân lời khuyên về những gì họ có thể làm trong quá trình bất động để có thể duy trì càng nhiều chức năng càng tốt. Sau khi cố định, các nhà trị liệu vật lý có thể cung cấp cho bệnh nhân các bài tập để cải thiện tầm vận động khớp, sức cơ, tăng cường độ vững của khớp tổn thương, do đó giúp ngăn ngừa trật khớp tái phát và giảm chức năng khớp về sau. Thaykhớp có thể cần thiết, thường là khi gãy xương gây hư hại nghiêm trọng đầu trên xương đùi hoặc xương cánh tay. Ghép xương có thể được thực hiện ngay thì đầu nếu khoảng cách giữa các đầu xương gãy quá lớn. Nó có thể được thực hiện sau này nếu xuất hiện chậm liền hoặc không liền.
Người cao tuổi dễ bị gãy xương vì những lý do sau:
Gãy xương liên quan đến tuổi già bao gồm gãy đầu xa xương quay, đầu gần cánh tay, xương chậu, đầu trên xương đùi và cột sống. Đối với người cao tuổi, mục tiêu điều trị là nhanh chóng quay trở lại các hoạt động của cuộc sống hàng ngày thay vì phục hồi hoàn hảo trục chi, chiều dài chi. Bởi vì việc bất động (bất động khớp hoặc nghỉ ngơi trên giường) gây nhiều nguy cơ, tác dụng phụ, chỉ định mổ mở nắn chỉnh cố định để điều trị gãy xương ngày càng gia tăng. Việc vận động sớm (nhờ mổ) và liệu pháp vật lý là cần thiết cho việc phục hồi chức năng. Các bệnh kèm theo (ví dụ, viêm khớp) có thể ảnh hưởng tới việc hồi phục.
Các loại gãy mất vững cần được cố định ngay lập tức; sử dụng bột hoặc nẹp để cố định ổ gãy ngay sau khi nắn chỉnh. |