Các bản nhạc dance hàng đầu của thập niên 80 năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

"Hung Up"
Các bản nhạc dance hàng đầu của thập niên 80 năm 2022
Đĩa đơn của Madonna
từ album Confessions on a Dance Floor
Phát hành17 tháng 10 năm 2005
Định dạngTải nhạc, đĩa CD
Thu âm2005
Thể loạiDance-pop, house, disco
Thời lượng5:36 (phiên bản album)
3:22 (phiên bản radio)
Hãng đĩaWarner Bros.
Sáng tácMadonna Louise Ciccone, Stuart Price
Sản xuấtMadonna, Stuart Price
Thứ tự đĩa đơn của Madonna
"Love Profusion"
(2004)
"Hung Up"
(2005)
"Sorry"
(2006)
Video âm nhạc
"Hung Up" trên YouTube

"Hung Up" là một ca khúc của nữ ca sĩ nhạc pop người Mỹ Madonna, do cô đồng sáng tác và sản xuất với Stuart Price cho album phòng thu thứ 10 mang tên Confessions on a Dance Floor. Lúc đầu, ca khúc này được sử dụng trong một vài quảng cáo và sê-ri trên truyền hình, sau được phát hành làm đĩa đơn mở đầu cho album vào ngày 17 tháng 10 năm 2005. "Hung Up" có chứa một đoạn nhạc vốn là đoạn dạo của ca khúc "Gimme! Gimme! Gimme! (A Man After Midnight)" của ban nhạc Thụy Điển ABBA, do vậy Madonna phải trông chờ sự cho phép sử dụng đoạn nhạc từ hai nhạc sĩ của nhóm là Benny Andersson và Björn Ulvaeus. "Hung Up" trở thành đĩa đơn đầu tiên của Madonna được phát hành trên iTunes. Về khía cạnh âm nhạc, bài hát chịu ảnh hưởng bởi dòng nhạc pop từ thập niên 1980, với phần nhạc nền mang âm thanh của một chiếc đồng hồ đang kêu tích tắc, gợi ra nỗi lo sợ thời gian trôi qua một cách uổng phí. Về ca từ, ca khúc được sang tác theo khuôn mẫu một bản nhạc dance truyền thống nói về một phụ nữ mạnh mẽ và độc lập nhưng đang phải đối mặt với khó khăn trong những mối quan hệ của mình.

Giới chuyên môn đánh giá cao "Hung Up", họ cho rằng bài hát này sẽ giúp Madonna lấy lại được sự nổi tiếng của mình vốn trước đó đã giảm sút theo sau sự phát hành album American Life vào năm 2003. Các nhà phê bình âm nhạc cũng đánh giá đây là bản nhạc dance hay nhất của cô cho tới nay và đưa ra lời so sánh tích cực với một vài ca khúc khác cùng thể loại của cô. Họ cũng khen ngợi sự động bộ hóa rất hiệu quả giữa đoạn nhạc gốc của ABBA với đoạn mới trong "Hung Up". Ca khúc thu được thành công thương mại trên khắp thế giới, đứng đầu bảng xếp hạng của hơn 45 quốc gia, nhờ đó được đưa vào sách Kỷ lục Guinness.[1] Riêng tại Mỹ, "Hung Up" trở thành ca khúc thứ 36 của Madonna lọt vào top 10 bảng xếp hạng Billboard Hot 100, một kỷ lục giúp cô ngang hàng với Elvis Presley nhưng sau đó bị chính cô phá vỡ với ca khúc "4 Minutes" năm 2008.[2]

Madonna biểu diễn "Hung Up" trong nhiều lần xuất hiện của cô, trong đó có hai chuyến lưu diễn gần đây là Confessions năm 2006 và Sticky & Sweet năm 2008. Video ca nhạc của ca khúc được dàn dựng nhằm tôn vinh nam diễn viên, vũ công và ca sĩ người Mỹ John Travolta cùng các bộ phim của ông. Đạo diễn bởi Johan Renck, video clip bắt đầu với cảnh Madonna khoác lên mình một bộ nịt màu hồng rồi nhảy múa một mình trong một phòng múa ba-lê và tại một cảnh khác, cô tới một cửa hàng game nơi cô nhảy cùng cả một vũ đoàn. Điểm xuyết trong video còn có vài cảnh một số vũ công trình diễn kỹ năng nhảy của mình, trong đó có một khu dân cư của người da đen tại Los Angeles, một nhà hàng nhỏ và tại tàu điện ngầm London.

Tổng quan và phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

"Hung Up" được lấy cảm hứng từ dòng nhạc disco trong thập niên 1970, nổi bật trong đó là nhạc của ABBA, Giorgio Moroder và bộ phim Saturday Night Fever (1977).[3] Madonna tưởng tượng ca khúc của cô là một sự giao thoa giữa loại nhạc hay được chơi tại Danceteria, một hộp đêm ở thành phố New York nơi cô thường lui tới trong những ngày đầu, và âm nhạc của ABBA.[4] Ca khúc "Gimme! Gimme! Gimme! (A Man After Midnight)" năm 1979 của họ đặt nền tảng cơ bản cho Madonna và Price khi sáng tác "Hung Up". Hai nhạc sĩ của ABBA là Benny Andersson and và Björn Ulvaeus thường không cho phép bất kỳ ai mượn bất cứ bài hát nào của họ, một ngoại lệ duy nhất là The Fugees, ban nhạc đã mượn ca khúc "The Name of the Game" cho đĩa đơn "Rumble in the Jungle".[5] Để nhận được sự cho phép mượn đoạn dạo của bài "Gimme! Gimme! Gimme!", Madonna phải gửi người đại diện của mình tới Stockholm với một lá thư cầu cạnh ABBA đồng ý cho cô mượn nhạc của họ và cũng để bày tỏ cô yêu âm nhạc của họ nhiều như thế nào.[5] Cô giải thích với BBC, "Họ không bao giờ để bất kỳ ai mượn nhạc của mình. Ơn Chúa họ không nói "không". [...] Họ phải nghĩ về điều này, Benny and Björn. Họ nói "có" ngay lập tức đâu".[5] Hai nhạc sĩ của ABBA đồng ý cho phép Madonna mượn nhạc của họ sau khi đạt được một thỏa thuận về bản quyền cho phép họ có được một lượng cổ phiếu lớn về tiền bản quyền tác giả từ doanh số sau này và tần suất phát sóng của ca khúc mới trên sóng phát thanh.[6] Trong một cược phỏng vấn với The Daily Telegraph trong tháng 10 năm 2005, Andersson nhấn mạnh "Gimme! Gimme! Gimme!" là cốt lõi của "Hung Up" và nói đùa rằng đây là ca khúc của Madonna mà ông ưa thích cho tới bây giờ.[6] Ông cũng nói thêm rằng:

"Chúng tôi có rất nhiều lời đề nghị từ phía các nghệ sĩ muốn được sử dụng ca khúc của ABBA nhưng thường thì chúng tôi nói "không". Đây mới chỉ là lần thứ hai chúng tôi cho phép. Lần này chúng tôi nói "có" sở dĩ vì rất ngưỡng mộ Madonna và vẫn luôn như vậy. Cô ấy rất có chí và đã nổi bật được 21 năm. Điều này đâu có bất lợi."[6]

"Hung Up" được ra mắt trong tháng 9 năm 2005 trong một quảng cáo trên truyền hình cho chiếc điện thoại ROKR tương thích với iTunes của Motorola. Trong quảng cáo này, Madonna và các nghệ sĩ khác chen chúc nhau trong một bốt điện thoại.[7] Ngày 17 tháng 10 năm 2005, ca khúc chính thức được ra mắt trong một cuộc trò chuyện trực tiếp dài 10 phút trên sóng phát thanh giữa Ryan Seacrest và Madonna. Ca khúc cũng được nhiều nhà cung cấp dịch vụ điện thoại sử dụng làm nhạc chuông thịnh hành (master ringtone).[7] Bài hát được dùng trong các tập phim của sê-ri truyền hình CSI: Miami và CSI: NY (một phần của CSI: Crime Scene Investigation, tạm dịch: Điều tra hiện trường tội ác) vào ngày 7 và 9 tháng 11 năm 2005.[7] Trong khi quảng cáo cho album mới Confessions on a Dance Floor, Madonna bật cả ca khúc "Hung Up" và đĩa đơn tiếp theo "Sorry" tại các câu lạc bộ đêm khắp New York, nơi cô đóng vai một DJ phối khí lại hai bài hát.[8] Về quyết định của mình về việc phát hành ca khúc mới trên iTunes, Madonna nói:

"Tôi là một nữ doanh nhân. Ngành công nghiệp âm nhạc đã đổi thay. Có đầy rẫy sự cạnh tranh và thị trường tràn ngập bởi các ấn phẩm mới - cái này mới cái kia mới. Anh phải tham gia lực lượng với những công ty và nhãn hiệu khác. Nếu không làm như vậy thì anh là một thằng đần."[9]

Video ca nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Các bản nhạc dance hàng đầu của thập niên 80 năm 2022
Madonna trong một cảnh quay của Hung up.

Video clip của "Hung Up" được đạo diễn bởi Johan Renck và được quay từ ngày 7 đến 9 tháng 10 năm 2005 tại trung tâm Trocadero, tàu điện ngầm, phố Great Guldford và khu người Hoa tại London, Anh. Trong video này, Madonna đã thực hiện nhiều điệu nhảy điêu luyện và đẹp mắt, mặc dù cô vừa bị gãy mấy chiếc xương sau cú ngã ngựa vài tuần trước đó. Madonna nói: " Khi tôi quay video này, chẳng chiếc xương nào ăn nhập với nhau cả. Nhiều khi chúng làm tôi cảm thấy đau. Chỉ có mấy bài tập trị liệu, thuốc thang và sự quyết tâm của mình mới giúp tôi hoàn thành tốt công việc."[10]

"Hung Up" được đề cử 5 giải MTV Video Music Awards năm 2006 bao gồm các hạng mục Video của năm,Video của nữ nghệ sĩ, Video pop, Video với vũ đạo đẹp nhất và Video có nghệ thuật bố trí thế nhưng không giành được giải nào[11].

  • Đạo diễn: Johan Renck
  • Sản xuất: Lene Bausager, John Winter
  • Đạo diễn hình: Gosta Reiland
  • Biên tập: Johan Söderberg
  • Công ty sản xuất: Black Dog Films

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm và kế nhiệm xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm:
"And She Said..." bởi Lucas Prata
Đĩa đơn quán quân bảng xếp hạng Billboard Hot Dance Airplay
12 tháng 11 năm 2005 – 31 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"Don't Forget About Us" bởi Mariah Carey
Tiền nhiệm:
"Cool" bởi Gwen Stefani
Đĩa đơn quán quân bảng xếp hạng Billboard Hot Dance Club Play
19 tháng 11 năm 2005 – 10 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"I've Got a Life (It's the Only Thing That's Mine)" bởi Eurythmics
Tiền nhiệm:
"You Raise Me Up" bởi Westlife
Danh sách đĩa đơn quán quân UK Singles Chart của Anh
13 tháng 11 năm 2005 – 27 tháng 11 năm 2005
Kế nhiệm:
"Stickwitu" bởi Pussycat Dolls
Tiền nhiệm:
"Gold Digger" bởi Kanye West hợp tác với Jamie Foxx
Đĩa đơn quán quân tại Úc
13 tháng 11 năm 2005 – 20 tháng 11 năm 2005
Kế nhiệm:
"My Humps" bởi Black Eyed Peas
Tiền nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Đĩa đơn quán quân tại Canada (lần một)
3 tháng 12 năm 2005 – 17 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Tiền nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Đĩa đơn quán quân tại Canada (lần hai)
31 tháng 12 năm 2005 – 18 tháng 3 năm 2006
Kế nhiệm:
"Everyday Is Exactly the Same" bởi Nine Inch Nails

Doanh số và chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách ca khúc và dạng đĩa[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đĩa vinyl 2 x 12" tại Mỹ
  1. "Hung Up" (phiên bản album) — 5:36
  2. "Hung Up" (phiên bản giọng mở rộng - SDP) — 7:57
  3. "Hung Up" (remix bởi Bill Hamel) — 6:58
  4. "Hung Up" (phiên bản dub mở rộng SDP) — 7:57
  5. "Hung Up" (remix bởi Chus & Ceballos) — 10:21
  6. "Hung Up" (Tracy Young's Get Up And Dance Groove) — 9:03
  • Đĩa CD tại Anh và châu Âu
  1. "Hung Up" (phiên bản radio) — 3:23
  2. "Hung Up" (Tracy Young's Get Up And Dance Groove – chỉnh sửa) — 4:16
  3. "Hung Up" (phiên bản giọng mở rộng - SDP) — 7:57
  • Đĩa vinyl 12" tại Anh
  1. "Hung Up" (phiên bản album) — 5:36
  2. "Hung Up" (phiên bản dub mở rộng - SDP) — 7:57
  3. "Hung Up" (phiên bản giọng mở rộng - SDP) — 7:57
  4. "Hung Up" (Tracy Young's Get Up And Dance Groove – chỉnh sửa) — 4:51
  • Đĩa CD lớn tại Mỹ, châu Âu và Canada
  1. "Hung Up" (phiên bản radio) — 3:23
  2. "Hung Up" (phiên bản giọng mở rộng - SDP) — 7:57
  3. "Hung Up" (Tracy Young's Get Up and Dance Groove – chỉnh sửa) — 4:15
  4. "Hung Up" (remix bởi Bill Hamel) — 6:58
  5. "Hung Up" (remix bởi Chus & Ceballos) — 10:21
  6. "Hung Up" (phiên bản dub mở rộng - SDP) — 7:57
  • Đĩa CD tại Úc, Pháp và Nhật
  1. "Hung Up" (phiên bản radio) — 3:23
  2. "Hung Up" (Tracy Young's Get Up and Dance Groove- chỉnh sửa) — 4:15
  3. "Hung Up" (phiên bản giọng mở rộng - SDP) — 7:57

Đội ngũ sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đồng sáng tác và sản xuất - Madonna, Stuart Price
  • Đồng sáng tác đoạn dạo - Benny Andersson, Björn Ulvaeus
  • Bìa đĩa - Giovanni Bianco
  • Ảnh hóa - Lorenzo Irico (Pixelway NYC)
  • Quản lý - Angela Becker, Guy Oseary
  • Hình - Steven Klein
  • Làm tóc và trang điểm - Andy LeCompte

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Glenday, Craig (2007). Guinness Book of World Records 2007 . Bantam Press. ISBN 055358992X.
  2. ^ Bronson, Fred (22 tháng 12 năm 2005). “Chart Beat: How They Got to 17”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  3. ^ Garfield, Simon (20 tháng 11 năm 2005). “Looks good on the dancefloor”. The Guardian. Guardian News and Media Limited. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  4. ^ Cinquemani, Sal (4 tháng 11 năm 2005). “Madonna – Confessions on a Dance Floor – Review”. Slant Magazine. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  5. ^ a b c Bones, Susan (18 tháng 10 năm 2005). “Madonna 'begged' Abba for sample”. BBC. BBC News. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  6. ^ a b c Hastings, Chris (16 tháng 10 năm 2005). “Thank you for the music! How Madonna's new single will give Abba their greatest-ever hit”. The Daily Telegraph. Telegraph Media Group. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  7. ^ a b c Paoletta, Michael (12 tháng 11 năm 2005). “Dancing Queen”. Billboard (bằng tiếng Anh). New York: Nielsen Business Media, Inc. 117 (46): 64. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  8. ^ Mason, Kerri (27 tháng 10 năm 2005). “Madonna's Young Remixer”. Billboard (bằng tiếng Anh). New York City: Nielsen Business Media, Inc. 117 (42): 96. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  9. ^ Paoletta, Michael (7 tháng 11 năm 2005). “Madonna Confesses”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  10. ^ "Madonna no longer ‘Hung Up’ on injury". The State.com (28 tháng 2 năm 2006)
  11. ^ Montgomery, James (31 tháng 7 năm 2006). “Shakira, Chili Peppers, Madonna, Panic! Lead List Of Nominees For MTV Video Music Awards”. MTV. MTV Networks Entertainment Group. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  12. ^ “Australian-charts.com — Madonna — Hung Up (Song)”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  13. ^ a b c d e f g h i j k “Ultratop.be — Madonna – Hung Up (Song)”. Ultratop 50. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  14. ^ a b c d “allmusic (((Madonna > Charts & Awards > Billboard Singles)))”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  15. ^ “Radio Top100 Oficiální – Madonna Hung Up”. International Federation of the Phonographic Industry. IFPIcr.cz. ngày 7 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2009.
  16. ^ Sexton, Paul (ngày 21 tháng 11 năm 2005). “Madonna Dominates U.K. Charts”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  17. ^ Sexton, Paul (ngày 14 tháng 11 năm 2005). “Madonna, Il Divo Lead U.K. Charts”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  18. ^ “Lescharts.com — Madonna — Hung Up (Song)”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  19. ^ “Charts.de — Madonna — Hung Up (Suche)” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  20. ^ “Single (track) Top 10 lista: 2005: 45” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  21. ^ “Irish Top 50 Singles, Week Ending ngày 10 tháng 11 năm 2005”. Irish Recorded Music Association. ngày 10 tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  22. ^ “Charts.org.nz — Madonna — Hung Up (Song)”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  23. ^ “Romanian Top 100: ngày 16 tháng 11 năm 2005”. Romanian Top 100. ngày 16 tháng 11 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2013.
  24. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  25. ^ “Madonan — Artist — Official Charts”. Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  26. ^ Hope, Clover (ngày 24 tháng 11 năm 2005). “Brown's 'Run It!' Holds Pace At No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  27. ^ “Madonna Chart History: Adult Pop Songs”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  28. ^ "Madonna Chart History (Adult Contemporary)". Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  29. ^ “Hits Neue Jahrtausend Download” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. RTL Channel. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  30. ^ “Chart of the decade”. BBC Online. Radio 1. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  31. ^ “Billboard Charts – Decade-end Singles – Dance/Club Play Songs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  32. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2005”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  33. ^ “Austrian Year-end singles for 2005” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  34. ^ “Belgian Flanders Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Đức). Ultratop 50. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  35. ^ “Belgian Wallonia Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  36. ^ “Jaaroverzichten 2005” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  37. ^ “French Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  38. ^ “German Year-end singles for 2005” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  39. ^ “Mahasz Rádiós TOP 100 2005” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  40. ^ “Irish Year-end singles chart for 2005”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  41. ^ “Classifiche annuali 2005 FIMI Nielsen, dominano gli artisti italiani” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  42. ^ “Annual Top 50 Singles Chart 2005”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  43. ^ “Spanish Singles Chart 2005” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  44. ^ “Årslista Singlar – År 2005” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  45. ^ “Swiss Year-end singles chart for 2005”. Swiss Music Charts. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  46. ^ “UK Best Selling Singles (1999–2009)” (PDF). British Phonographic Industry. Bản gốc (pdf) lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2011.
  47. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2006”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  48. ^ “Austrian Year-end singles for 2006” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  49. ^ “Belgian Flanders Year-end singles chart for 2006” (bằng tiếng Đức). Ultratop 50. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  50. ^ “Belgian Wallonia Year-end singles chart for 2006” (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  51. ^ “Jaaroverzichten 2006” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ “German Year-end singles for 2006” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  53. ^ “Mahasz Rádiós TOP 100 2006” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  54. ^ “Classifiche: Charts Annunali 2006 FIMI-AC Nielsen” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  55. ^ “Spanish Singles Chart 2006” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  56. ^ “Årslista Singlar – År 2006” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  57. ^ “Swiss Year-end singles chart for 2006”. Swiss Music Charts. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  58. ^ “UK Top 100 2006” (archive). UK Charts. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2011.
  59. ^ “Hot 100 Songs 2006”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  60. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2005 singles”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  61. ^ “Ultratop − Goud en Platina – 2006”. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch.
  62. ^ “Canada single certifications – Madonna – Hung Up”. Music Canada.
  63. ^ “France single certifications – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique.
  64. ^ “Top 100 des singles les plus vendus du 21ème siècle: le récap!”. Charts in France (bằng tiếng Pháp). ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  65. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Madonna; 'Hung Up')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  66. ^ Paid music distribution certification for February 2014 (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  67. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2008” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển.
  68. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Madonna; 'Hung Up')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  69. ^ “Britain single certifications – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập Hung Up vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  70. ^ “American single certifications – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  71. ^ Trust, Gary (ngày 30 tháng 4 năm 2010). “Ask Billboard: 'Glee'-ful About Madonna”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Video ca nhạc "Hung Up" Lưu trữ 2010-04-11 tại Wayback Machine Yahoo! Music
  • Chi tiết và lời ca khúc "Hung Up" MTV
  • Chi tiết album "Confessions on a Dance Floor" Lưu trữ 2009-06-28 tại Wayback Machine Madonna.com

Tôi đã là một nhà văn trực tuyến trong hơn sáu năm. Tôi đam mê sách, triết học, âm nhạc và ngành công nghiệp âm nhạc.

You can't discuss '80s dance music without discussing Madonna.

Bạn không thể thảo luận về nhạc khiêu vũ thập niên 80 mà không thảo luận về Madonna.

Chrisweger, CC By-SA 2.0, thông qua Wikimedia Commons

Những năm 80 hào nhoáng là một thập kỷ đáng nhớ trong nhạc khiêu vũ. Một số bản hit nhảy lớn nhất xuất hiện trong thập kỷ. Khi cơn sốt vũ trường của thập niên 70 bị mất hơi vào đầu những năm 80, một số nghệ sĩ nhạc khiêu vũ bắt đầu khám phá những cảnh quan âm nhạc mới mở đường cho một cảnh khiêu vũ lai. Khi việc sử dụng ghi âm kỹ thuật số tăng lên, âm thanh của các bộ tổng hợp đã trở thành âm thanh xác định trên các thể loại điện tử. Thật vậy, thập niên 80 là một sự hợp nhất của các phong cách âm nhạc đa dạng đã mang đến cho các bài hát khiêu vũ ý nghĩa mới.

Danh sách dưới đây trưng bày một bộ sưu tập lớn các bài hát khiêu vũ của thập niên 80 từ các thể loại khiêu vũ khác nhau. Nếu bạn là một người yêu thích nhạc khiêu vũ của thời đại hoài cổ này, bạn sẽ muốn nói lên suy nghĩ của mình. Hãy thoải mái với quan điểm, ý kiến ​​và đề xuất bài hát của bạn trong phần bình luận.

Top 10 bài hát khiêu vũ hay nhất của thập niên 80

1. "Giống như một trinh nữ" "

2. Billie Billie Jean,

3. Những cô gái chỉ muốn vui vẻ "

4. Tôi muốn nhảy với ai đó ”

5. Hãy đánh thức tôi dậy trước khi bạn đi-đi trên đường!

6. “Bơm lên kẹt '

7. "Hãy tiếp nhận tôi" "-ha

8. Fun Funkytown trực tuyến

9. Người yêu thời gian bán thời gian "

10. "Tarzan Boy"

Làn sóng mới trong thập niên 80

Âm thanh của làn sóng mới trở nên hoành tráng trong thập niên 80. Trong khi nhiều ban nhạc liên kết với thể loại này đã áp dụng một phong cách định hướng pop, một số nghệ sĩ nhất định đã truyền một âm thanh rock được đánh bóng với những ảnh hưởng punk. Các tô điểm điện tử pop-rock mang đến cuộc sống với âm thanh tổng hợp được sử dụng thẩm mỹ mang lại bản sắc đặc biệt cho làn sóng mới trong các lĩnh vực của nhạc khiêu vũ. Trong khi thể loại này trở nên nổi bật vào cuối những năm 70, đó là những năm đầu thập niên 80 đã mang đến cho những người mới thành công với những bản hit nhảy chéo. Trong khi nhiều nghệ sĩ sóng mới đã đạt được thành công thương mại với các bài hát khiêu vũ của họ, một số lượng lớn các nghệ sĩ này được quy cho là kỳ quan một hit.

Cuộn để tiếp tục

Đọc thêm từ Spinditty

Các cấu trúc khởi động bao gồm với các đoạn riff guitar poppy, bàn phím và phân phối giọng hát cao độ mang lại mang lại cho các nghệ sĩ nhạc rock nhất định liên quan đến bản sắc độc đáo của New Wave Aesthetics. Một số ban nhạc sóng mới đã thử nghiệm những ảnh hưởng đa dạng của Power Pop, Synth-pop, Funk, Disco, Electronic, Bubblegum Pop và Glam Punk đã mang đến một âm thanh nhảy robot độc đáo đồng nghĩa với các ban nhạc và nghệ sĩ synth-pop trong thập kỷ. Phong cách và thời trang được trưng bày bởi các nghệ sĩ sóng mới trong các video âm nhạc của họ đã trở thành một bản sắc lối sống văn hóa với giới trẻ thành thị.

#11 Wap20

11. Tự kiểm soát bản thân

12. Cô gái vật chất ""

13. "Không bao giờ từ bỏ bạn"

14. Đánh bại nó

15. Hãy để Let Let nghe nó cho cậu bé "

16. Cô ấy khiến tôi điên cuồng

17. "Hãy để" nhảy "Bowie

18. Những giấc mơ ngọt ngào (được làm từ này)

19. Bạn quay vòng tôi tròn (như một bản ghi) - chết hoặc sống

20. “Super Super Trouper”

Synth-pop trong thập niên 80

Một tiểu thể của nhạc sóng mới, Synth-pop đã trở nên nổi bật vào những năm 70, và đã thành công chính thống đáng kinh ngạc trong thập niên 80. Các bài hát synth-pop đã tạo thành một phần không thể thiếu của pop chính trong thập niên 80. Một số hành vi synth-pop đã có thành công lớn về bảng xếp hạng trên bảng xếp hạng khiêu vũ câu lạc bộ. Các nhạc cụ kết cấu với nhịp điệu nhảy được sử dụng thẩm mỹ và phân phối giọng hát cảm xúc đã mang lại hương vị độc đáo cho các bài hát tổng hợp. Các chủ đề liên quan đến anomie, cô lập và cảm xúc cảm xúc đã vượt quá phổ biến trong các bài hát tổng hợp của thập niên 80.

Với sự phát triển của âm thanh kỹ thuật số, việc tạo và sử dụng âm thanh điện tử trong các lĩnh vực của nhạc khiêu vũ trở nên dễ dàng hơn vì các loại tổng hợp khác nhau có sẵn với giá cả phải chăng. Điều này đã ảnh hưởng gián tiếp đến triết lý tự làm, nơi các nhạc sĩ bắt đầu tạo ra âm nhạc chủ yếu với việc sử dụng các bộ tổng hợp, máy trống và trình tự. Trong khi những người theo chủ nghĩa âm nhạc chỉ trích các nhạc sĩ synth-pop nghiêm trọng vì các kỹ năng âm nhạc hạn chế và sự phụ thuộc duy nhất của họ vào công nghệ để tái tạo âm nhạc, nhưng thực tế vẫn là các sản phẩm dựa trên tổng hợp của thập niên 80 có một số bài hát khiêu vũ phổ biến nhất trong lịch sử nhạc khiêu vũ.

#21 Wap40

21.

22. Cách mà cách bạn làm cho tôi cảm nhận được

23. Tất cả đêm dài (cả đêm) - Lionel Richie

24. "Thể hiện bản thân"

25. Bờ biển Mickey Mickey

26. Cùng nhau mãi mãi

27. "Nó mưa đàn ông" "các cô gái thời tiết

28. Musique musique không ngừng nghỉ

29. “Khiêu vũ an toàn” ”không có mũ

30.

31. Mọi người đều vui vẻ tối nay ”

32.

33. "Whip It"

34. “Thứ hai màu xanh”

35.

36.

37. Hungry đói như con sói

38. Tin đồn về câu lạc bộ xã hội

39.

40. Cảm giác tình yêu "

Khiêu vũ trong thập niên 80

Cấu trúc âm nhạc hấp dẫn của Dance-pop khiến nó cực kỳ phổ biến với các đài phát thanh đương đại và hộp đêm. Trong khi nguồn gốc của thể loại này bắt nguồn từ những năm 70, sự phát triển của thể loại này đã hình thành sau khi cơn sốt sàn nhảy giảm dần vào đầu những năm 80. Kết hợp các yếu tố đa dạng của nhạc pop và nhạc khiêu vũ với các ảnh hưởng của vũ trường, synth-pop và hậu Disco, Dance-pop đã trở thành của riêng mình trong thập niên 80. Phong cách âm nhạc chính thống này được đặc trưng bởi nhịp đập mạnh mẽ của nó và sản xuất sẵn sàng câu lạc bộ đã cai trị các bảng xếp hạng âm nhạc trong thập kỷ này.

Phù hợp về mặt thẩm mỹ với các thể loại như, R & B đương đại, House, Techno, Trance, New Jack Swing, Electropop, Funk, và Hi-NRG, Dance-pop đã thể hiện một phổ rộng của thẩm mỹ làm cho nó rất phổ biến với giới trẻ. Cấu trúc âm nhạc không phức tạp của các bài hát khiêu vũ trở nên cực kỳ phổ biến với thanh thiếu niên và thanh niên trên toàn cầu. Lữ đoàn trẻ của các nhạc sĩ nhạc pop, đặc biệt là phụ nữ, đã đưa khiêu vũ lên một tầm cao mới trong thập niên 80. Một số lượng lớn các nghệ sĩ nữ gắn liền với thể loại này đã thành công phi thường với những người độc thân và album của họ.

#41 Phong60

41. Năng lượng cao của người Viking.

42. Danh tiếng nổi tiếng "

43. Hãy nói với nó với trái tim của tôi ”

44. Bạn muốn được bắt đầu

45. Câu lạc bộ thiên tài của tình yêu

46. ​​“Tôi thích Chopin”

47. Những gì trong tâm trí của bạn (năng lượng thuần túy) - xã hội thông tin

48. ((Tôi đã có) thời gian của cuộc đời tôi.

49. Chỉ trong những giấc mơ của tôi

50. Lễ kỷ niệm ""

51. Voi vào rãnh

52. Khi tôi nghĩ về bạn,

53.

54. Từ lên!

55. "Nụ hôn"

56. "Đi bộ trên ánh nắng mặt trời" và những con sóng

57. "Cheri, Cheri Lady"

58. "Giống như một lời cầu nguyện" "

59. Phim kinh dị

60. Hãy để Let Let Groove "

Italo Disco trong thập niên 80

Italo Disco Một thể loại âm nhạc phát triển ở Ý vào cuối những năm 70 có rất nhiều thành công ở các nước châu Âu. Các bài hát nhảy Italo Disco được đặc trưng bởi các giai điệu pop hấp dẫn, âm thanh điện tử, máy trống, tổng hợp, giọng hát và lời bài hát có dấu rất nhiều bằng tiếng Anh. Các chủ đề phổ biến liên quan đến tình yêu, không gian và robot được đưa vào cuộc sống với những bài hát này. Mặc dù thể loại này có một sự sùng bái trong phong trào âm nhạc ngầm của thập niên 70, nó không bao giờ có thể đạt được vị thế chính. Tuy nhiên, Fortunes đã thay đổi vào những năm 80, khi phong trào vũ trường Italo lan truyền từ Ý sang nền âm nhạc khiêu vũ khu vực trên khắp châu Âu và Mỹ.

Những nỗ lực của hãng thu âm Đức Zyx Music GmbH & Co. KG, người bắt đầu cấp phép và tiếp thị vũ trường Italo bên ngoài Ý đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình bản thiết kế vũ trường Italo ở Anh và Mỹ. Những âm thanh disco pop-pop nhếch nhác của thể loại này nổi bật với những người hâm mộ nhạc khiêu vũ trên toàn cầu. Cùng với Euro Disco, Italo Disco đã thành công đáng kể trên các bảng xếp hạng nhạc khiêu vũ. Trong khi các nghệ sĩ liên kết với thể loại này không thành công với các album, thì nhiều hành động Italo đã ghi điểm lớn với các đĩa đơn nhảy của họ.

#61 Wap80

61. Lần này tôi biết nó là trò chơi thực sự

62. Sledgenhammer, một người chơi Gabriel Gabriel

63. "Mercedes Boy" "

64. “Papa don don thuyết giảng”

65. Bạn là trái tim của tôi, bạn là tâm hồn của tôi.

66. “Đêm qua một DJ đã cứu mạng tôi”

67. Vòng tròn và tròn ”

68. P.Y.T. (Điều khá trẻ)

69. "Hãy để âm nhạc chơi" "

70.

71. “Đặt tất cả tình yêu của bạn trên tôi”

72. Kiểm soát trực tuyến

73. "Tình yêu"

74. "Tình yêu Shack"

75. Một cách khác, đó là cách tình yêu là thành phố

76. "Fresh"

77.

78. Mở trái tim của bạn

79. "Đưa nó cho tôi em yêu"

80. Viking quét đi

Post-Disco trong thập niên 80

Post-Disco cũng được gọi là Funk Electro, đã trở nên sống động thông qua cảnh vũ trường đang hấp hối vào đầu những năm 80. Khi âm thanh của vũ trường bắt đầu biến mất, âm thanh điện tử của disco mới trở nên sống động thông qua hi-enrg và disco Euro. Đồng thời, một phong trào âm nhạc với tính thẩm mỹ điện tử và âm thanh âm thanh triệt để xuất hiện ở Bờ Đông, và phong cách âm nhạc này dần dần được định hình thành cảnh sau vũ trường. Các bài hát sau Disco được biết đến với các đường bass dự định funk bao gồm các đoạn trung tâm, âm thanh synth và dàn nhạc tươi tốt tương tự như các bài hát vũ trường của thập niên 70.

Âm thanh đô thị của hậu Disco đã tạo ra các hợp âm phù hợp với khán giả trẻ trên toàn cầu. Các bài hát tập trung công nghệ liên quan đến thể loại này được bán trên thị trường các hãng thu âm lớn và các nhà sản xuất thu âm độc lập trong thị trường âm nhạc do người độc thân điều khiển. Trong khi hậu Disco được phục vụ cho các thị trường đô thị thích hợp, thể loại này đã đạt được sự phổ biến lớn theo chủ đạo vào giữa những năm 80. Các hình thức khác nhau của khiêu vũ, nhà, khiêu vũ thay thế và kỹ thuật đã xuất hiện trong suốt thời kỳ hậu Disco. Phong cách R & B khiêu vũ vui nhộn, mọc lên qua hậu Disco đã có thành công trên bảng xếp hạng phi thường vào cuối thập kỷ.

#81 Wap100

81.

82. Cô gái bạn biết nó thật sự

83. Nữ hoàng Caribbean (không còn tình yêu trên đường chạy) - Billy Ocean

84. Chạm vào tôi (tôi muốn cơ thể của bạn)

85. "Bạn gái" "

86. "đáng kính trọng" "và Kim

87. Đẩy nó

88. Khỉ khỉ

89. Đường cao tốc của tình yêu

90. Người yêu thương hiệu mới của thương hiệu ""

91. “Mọi người đều muốn cai trị thế giới”

92. bản thân tôi và tôi và tôi

93. "Gọi cho tôi" "

94. Ngày khiêu vũ ngày "

95. "Không ai" Nhật ký "

96. "Chúng tôi nhắm mắt lại" về phía tây

97. trong tên của tình yêu, cặp song sinh

98.

99.

100. Nói chuyện trong giấc ngủ của bạn

Những bài hát khiêu vũ hay nhất của ‘80s #101

101. ((Tiếp tục cảm thấy) Niềm đam mê

102. Thái độ mới

103. Bạn có thể không bạn (quên tôi)

104. Những cô gái ở West West End

105. Tôi làm thế nào tôi sẽ biết "

106. tình huống ""

107. Tôi có thể chờ đợi

108. “Lần thứ hai xung quanh”

109. Một điều tốt đẹp của người ăn thịt người trẻ tuổi

110. Hãy lấy thời gian của bạn (làm đúng) - S.O.S. Ban nhạc

111. Xe buýt hai lần của người Hà Lan

112. Tôi nên rất may mắn

113. Voi rất nhiều tôi - rất ít thời gian ”

114. Cao trên tình yêu của bạn

115. "Cuộc gọi điện thoại"

116. "Hãy cho tôi tối nay" "

117. Vượt quá tình cảm,

118. "Tình yêu thực sự" "Watley Watley

119. "Hai trái tim" "

120. “Bé Talk”

121. Ngày lễ ”

122. Hãy tiếp tục trên Movin, - linh hồn 2 linh hồn

123. Hiển thị ra ngoài (Nhận tươi trên sàn nhảy)

124.

125. Bạn có muốn tôi "

126. Câu lạc bộ Karma Karma Chameleon

127. Bạn đã thả một quả bom vào tôi.

128. "Điều hoang dã"

129. Viking Show Me

130. Hustle Hustle! (To The Music

131. Chế độ của Strangelove trực tuyến

132. "Ain" không ai tốt hơn "trong thành phố

133. "Trong nhà của tôi" "Jane Girls

134. "Tìm kiếm một tình yêu mới" "Watley Watley

135. trong tình yêu với tình yêu,

136. “Oh Sheila” đã sẵn sàng cho thế giới

137. Tôi muốn trở thành tài sản của bạn

138. Cô ấy làm việc chăm chỉ vì tiền mùa hè

139. "Fading Away" sẽ trở thành quyền lực

140. Liên minh con người của con người

141. "Hãy để nó cuộn"

142. "Nụ hôn Pháp"

143. “Những thứ phù hợp”

144. Đại lộ điện "

145.

146. “Hãy để nó đánh cắp ban nhạc

147. Không có bãi đậu xe (trên sàn nhảy) - Ngôi sao nửa đêm

148. “Sống trên video”

149. Bí mật Rendezvous trực tiếp

150. atlantis đang gọi (s.o.s. for love)

151. Chỉ có thể nhận được đủ chế độ

152. “Mũi tên độc”

153. "Rapture" "

154. "Bạn đã đến"

155. Một người nào đó giống như bạn "

156. "Bạn có yêu những gì bạn cảm thấy" trong thành phố

157. Tình yêu đến nhanh chóng

158. Một số loại người yêu

159. Có thể giả tạo cảm giác

160. "Chạm vào bàn tay của Thần"

161.

162. Tôi đã làm gì để xứng đáng với điều này ?, - Những chàng trai cửa hàng thú cưng với Dusty Springfield

163. Tình yêu sẽ cứu được ngày

164. Nghĩ về bạn, bạn

165. Một người khác không phải là người khác

166.

167. Đang lộn ngược trên mạng

168. “Hãy đến với tôi”

169. Tất cả những gì cô ấy muốn là "

170. Ngôi sao may mắn

171. Chủ đề từ S-Express

172. Nạn nhân của tình yêu "

173. Điểm không trả lại ”

174. “Trên và trên và trên”

17.

176. Chúng tôi là những người trẻ tuổi

177. "mê hoặc" "

178. “Chứng minh tình yêu của bạn”

179. "Hãy để" phát điên "và cuộc cách mạng

180. Bạn có muốn đi xa

181.

182. Cảm xúc thần thánh

183. Hồi K.I.S.S.I.N.G.

184. Chúng tôi gọi nó là acieed

185. “Spy in the House of Love” ”(không phải vậy)

186. Bạn có thể là người dành cho tôi. Xe lửa

187. "Giống như một đứa trẻ" "

188. Một cái nhìn (một cái nhìn là đủ) - Paul Parker

189. "Gửi tất cả tình yêu của tôi" những chiếc máy bay phản lực

190. “Đây là đêm của tôi

191. Cuộc phiêu lưu "

192. Bắt tôi (Tôi đang rơi)

193. "Big Fun" Thành phố

194. "Đây là axit"

195. Từ đầu đến ngón chân

196. "Khi smokey hát"

197. Người yêu

198. "Nói đó là" sức mạnh "

199. “Lời hứa” ”khi ở Rome

200. Go Go Home "

Bài hát khiêu vũ hay nhất của thập niên 80 #201

201. “Em bé tình yêu”

202. Kim cương trực tiếp

203. "Batdance"

204. "Điều thực sự" "

205. “Bơm lên khối lượng”

206. "Lớn ở Nhật Bản"

207. Một số điều nhất định có khả năng là ”

208. Nói rằng đó là một trò chơi

209. "Break Break 4 tình yêu"

210. Hãy nói điều đó, nói điều đó Hằng ngày

211. Hãy để Let Let đi tất cả các cách

212. Cuộc sống tốt lành của thành phố có tính năng của Paris Grey

213. "Tôi thích bạn"

214. Những bức tường đường trên đường

215. Tôi đã ăn xin bạn, bạn

216. “Quay lại và đếm 2 Ten”

217. Chỉ là dự án khiêu vũ / cuối tuần

218. "hét lên" "

219. Tình yêu trên đỉnh của tình yêu "

220. Bạn có muốn bạn muốn tôi

221. Trực tiếp thư giãn

222. Tôi không muốn tình yêu của bạn

223. Voi C hèest la vie

224. Giờ giữ tôi ngay bây giờ, cặp song sinh

225. "Tình yêu" Gonna Get You "

226. Hồi Din Daa daa Hồi

227. Em bé, đừng quên số của tôi

228. Điểm không trả lại ”

229. Hồi 1999

230. Bạn có thể cảm nhận được điều đó

231.

232. Hệ thống sống sót của người sống, Wind & Fire

233. "Nó nói về cuộc sống của tôi" "nói chuyện

234. Nguyên tắc niềm vui

235. Tôi đã ra mắt

236. Rock Rockit

237. Bất cứ khi nào bạn cần ai đó,

238.

239. Không bao giờ để bạn đi "

240. “Ngựa trắng” ”trở lại

241. Lắc lắc tình yêu của bạn

242. "Hãy để" làm việc "

243. Gọi cho tôi Mr. Điện thoại (dịch vụ trả lời) - Cheyne

244. "Điều răn tuyệt vời"

245. Rất vui khi biết bạn,

246. Nhảy đến nhịp đập.

247. "Một người yêu thích ngày lễ" "

248. Chỉ vừa được trả tiền

249. Một người đáng yêu

250. "Gọi cho tôi" về phía tây

251. Tôi đã yêu

252. "Người yêu" "

253. "Giữ chặt" "

254. Tôi có làm thế nào

255. Chàng trai (tình yêu mùa hè) - Sabrina

256. Thanh niên điện điện

257. Lập trường Buffalo

258. "Nếu bạn nên cô đơn"

259. "hết thời gian" "

260. Cuộc sống quyến rũ

261. Không có tình yêu rườm rà

262. Slave Slave to the Rhythm ”

263. "Beat Beat Box Art của tiếng ồn

264. Chụp bắn tốt nhất của bạn.

265. Nói với tôi tôi là tôi không phải là Dreamin

266. Thói quen xấu

267. Suy nghĩ về tình yêu của bạn

268. "Cô gái khó chịu" "

269. Voi tôi sẽ không cho phép bạn

270. LIES '

271. Đúng ngay trên mục tiêu

272. Viking Ai là người Zoomin, ai

273. Tình yêu đi xuống

274. Bạn có thể là người Vikingmadleen Kane

275. “Bài hát y học”

276.

277.

278. Ban nhạc jeopardy

279. Không bao giờ từ bỏ bạn

280. “Tôi muốn có một loại thuốc mới

281. Breaking Breaking và vào

282. Hãy thử nó ra ngoài

283.

284. Từ Don Don đến khóc với tôi

285. Nhịp tim

286. Tôi tự hỏi nếu tôi đưa bạn về nhà

287. Thị trấn vỉa hè

288. Tôi có thể đi cho điều đó (không ai có thể làm), - Daryl Hall và John Oates

289. Người đàn ông thiên thần (G.A.) - Rhetta Hughes

290. Vượt quá tốt

291.

292. “Cảm ơn bạn”

293. Bạn có yêu tôi "

294. Ánh sáng đỏ

295. Bạn có thể quá muộn

296. Động lực học!

297. “Cái nhìn của tình yêu”

298. "Dancin" The Night Away "

299. "Zulu" "nhanh chóng

300. Đi bộ ngay bây giờ

© 2022 Ansel Pereira

Điệu nhảy phổ biến nhất của thập niên 80 là gì?

Break Dancing thường liên quan đến những người độc thân giữa các vũ công để xem ai có thể vượt qua người khác ...
Break Dancing là phong cách nhảy phổ biến nhất của những năm 1980 ..
Những người yêu thích âm nhạc kim loại nặng đã phát triển Slamdancing vào những năm 1980 ..
Băng cassette có lẽ là cách phổ biến nhất để nghe nhạc trong thập niên 80 ..

Một số điệu nhảy từ thập niên 80 là gì?

Những điệu nhảy tuyệt vời di chuyển từ thập niên 80 và 90..
Người đàn ông đang chạy.....
Vũ điệu MC Hammer.....
Vòi phun nước.....
The Moonwalk.....
Kriss Kross nhảy nhảy.....
Con sâu.....
Người máy.....
Bản vá bắp cải ..

Bài hát hit lớn nhất của thập niên 80 là gì?

1. 'Mưa tím' của Hoàng tử.Hoàng tử đã rất sung mãn trong thập niên 80 đến nỗi 90% danh sách này có thể là của ông và nó vẫn sẽ đúng.Purple Rain' by Prince. Prince was so prolific in the '80s that 90% of this list could be his and it would still be correct.

Khiêu vũ nào là một hit trong những năm 1980?

1980s
Năm
Nhảy
1980s
Moonwalk
1980
Joe mắt cotton
1981
Harlem lắc
1981
Agadoo (còn gọi là Agadou)
Khiêu vũ Crazes - Wikipediaen.wikipedia.org, Wiki, Dance_Crazesnull