Các baì thơ của nhà văn hải phòng trước năm1975

Như đã nói ở trên, tôi không viết bài phê bình thơ Hoài Thanh. Tôi thường dè dặt khi thấy những nhà phê bình đưa ra nhiều thứ phương pháp luận để xét đoán táv phẩm của người khác, bỏ tác phẩm vào trong những cái rọ hay những cái khung của hiện tượng luận, phân tâm luận, cấu trúc luận, hiện thực xã hội chủ nghiã .v.v... để nhào nắn trước khi công bố bản án hay bản tuyên dương. Đọc thơ, tôi chỉ muốn cảm được thơ và thơ cảm được tôi để thích thú với tình ý, tứ thơ và lời thơ. Nếu thơ và người đọc không cảm được nhau thì đó là một thất bại. Lôí nhận định có vẻ cổ điển và sơ đẳng này giúp tôidễ gần gũi với thơ và dễ cảm thông với tác giả hơn.

Về tình và ý trong thơ Hoài Thanh, tôi đã trình bày ở những phần trên. Đó là những tình ý rất chân thật, rất con người, rất gần gũi với đời thường, không có gì là cao siêu, bí hiểm. Hoài Thanh không luận về triết lý của phận người Ôn Như Hầu trong Cung Oán Ngâm Khúc, không bàn về thuyết tài mệnh tương đố như Nguyễn Du trong truyện Kiều, không “nhớ rừng” như Thế Lữ, không thương nhớ nước non Hời như Chế Lan Viên… Tình ý của thơ Hoài Thanh là tình ý của một phụ nữ Việt Nam bình thường, quen thuộc và gần gũi như hàng cau bụi chuối bên nhà. Khác chăng là nó được diễn tả bằng một tâm hồn bén nhậy, từ một hoàn cảnh có ít nhiều khác biệt. Chính việc diễn tả bằng thơ những tình ý gần gũi hiền hòa này đã nói lên sự tiếp nối truyền thống yêu thơ của người ViệtNam. Người Việt Nam làm thơ, ngâm thơ và hát thơ trong mọi hoàn cảnh.

Nói về tứ thơ, đó là cái gì rất khó định nghĩa, là cái cốt yếu làm cho thơ khác với văn xuôi. Tứ thơ có thể là một ý, một lời, một hình ảnh đánh trúng vào tình cảm của người thưởng ngoạn, khiến người đó cảm thấy sững sờ hay thích thú. Nó làm cho những câu thơ có hồn, làm cho người ta thích ngâm nga, thích nghe đi nghe lại. Chúng ta hãy thử tìm tứ thơ trong những câu sau đây của Nguyễn Bính:

Xóm giềng đã đỏ đèn đâu Chờ em ăn giập miếng trầu đã sang Đôi ta cùng ở một làng Cùng chung một ngõ, vội vàng chi anh? Em nghe họ nói mong manh Hình như họ biết chúng mình với nhau…

Câu cuối cùng làm cho đoạn thơ hay hẳn lên. Nó vừa diễn tả một sự e ngại kỳ thú của kẻ ăn vụng sợ người biết, vừa là một lời xác nhận tình yêu, vừa là một lời hứa hẹn rất tình tứ. Đó là tứ thơ nằm trong ý.

Bốn câu thơ sau đây của Vũ Hoàng Chương lại có tứ thơ kiểu khác:

Sao đọng kim cương sáng ngập bờ Lúa thì con gái mượt như tơ Gốc đa cổ thụ duyên còn đượm Và cái trăng vàng qúa lẳng lơ

“Sáng ngập bờ” làm người đọc thấy trăng sao in hình trong làn nước ngập tràn bờ ruộng. “Luá thì con gái mượt như tơ”, mới đọc lên người ta có thể hiễu chữ “thì” là động từ đi trước những chữ chỉ trạng thái. Đúng ra, “thì” này là “thơì”, lúa vào thời con gái tới tuổi dậy thì mới mượt như tơ, nhưng chữ “thì” đắc địa hơn chữ “thời” cả về cách nói lẫn âm điệu. “Cái trăng vàng” làm tăng thêm cái “lẳng lơ”. Vì thế lhông thể thay thế bằng “mặt trăng” hay “ông trăng”. Tứ thơ trong trường hợp này nằm ở lời và hình ảnh.

Dĩ nhiên khó có thể so sánh tứ thơ trong thơ của Hoài Thanh với thơ của Nguyễn Bính hay Vũ Hoàng Chương. Không thể nói chyện hơn thua vì mỗi người có nét độc đáo riêng. Phải nhận rằng tứ thơ của Hoài thanh cũng rất đặc sắc, có khả năng làm cho những câu thơ nên đẹp và đánh động lòng người đọc:

Giương cung đừng nhé người ơi! Vết thương thuở trước luân hồi còn đau

Hai câu trên diễn tả rất thơ những nỗi đau còn kéo dài, vết thương vẫn nhức nhối từ kiếp này sang kiếp khác. Đó là tứ thơ nằm trong ý với hình ảnh diễn tả theo câu văn cổ “cung kinh chi điểu” (con chim sợ cây cung).

Hai câu sau đây lại có tứ thơ kiểu khác, ý hay và lời đẹp:

Tiếng gà xưa thức trong mơ Tiếng xanh sợi tóc thuở chưa đổi màu

Tiếng thì không thể có màu. Vậy “tiếng xanh sợi tóc” là tiếng gà gáy trong mơ, mơ về tuổi thanh xuân. Tứ thơ rất đạt.

Ở một trường hợp khác, tứ thơ cùa Hoài Thanh rất gần với ca dao:

Giờ thì ước được như trăng Bao nhiêu tuổi vẫn ngang bằng ngọn tre

Tứ và lời của hai câu thơ này chúng ta liên tưởng tới hai câu ca dao đã được hát trong một bài quan họ:

Sáng trăng suông sáng cả cái đêm trăng rằm Nửa đêm về sáng (chứ) trăng bằng cái ngọn tre

Có thể nói tứ thơ trong thơ của Hoài Thanh cũng giản dị, đôn hậu, rất gần với ca dao. Điều này lại càng xác định thơ của Hoài Thanh rất gần với dòng truyền thống cuả thơ Việt.

Hoài Thanh cũng sử dụng thể thơ mới có vần một cách rất điêu luyện:

Vết thương cũ chưa lành Vết thương sau còn mới Người đã bỏ đi mà ta vẫn đợi Như sen trong hồ khát hạ để hồi xuân Ta đợi người ban trưa nắng cũng tần ngần…

Nhưng da số thơ mới của Hoài Thanh không có vần. hoặc không chú trọng vần, chỉ thỉnh thoảng gieo vần ở một đôi câu rất tình cờ:

Tôi ở dưới vực sâu kêu lên Tôi chỉ xin Một ánh trăng cô đơn Tỏa xuống vực sâu để cứu rỗi linh hồn

Điều đặc biệt là lối làm thơ thoải mái không vần, không giới hạn câu, chữ của Hoài Thanh không thể xếp vào thể thơ tự do, bởi lẽ những câu thơ đó có vẻ không được cố tình làm mới (hay làm dáng), không kéo dài lê thê, vẫn ngắn gọn, ít lời và có nhạc điệu của thơ:

Tôi yêu anh tôi kể với đám mây Gió thổi mây bay đi Tôi kể với cơn mưa Mưa thành suối ra sông gặp biển Tôi kể với con mèo Mèo bỏ ra sân tìm nắng Tôi yêu anh chẳng biết tìm ai mà nói.

Về lời thơ, chúng ta đừng mong tìm được những chữ “xuất thần” hay cầu kỳ trong thơ Hoài Thanh. Ý thơ, tứ thơ của Hoài Thanh đã dung dị thì lời thơ cũng không đi ra ngoài đặc tính ấy. Những câu thơ sau đây lời thơ tuy giản dị nhưng chữ dùng rất “đắt địa” và rất “thơ”:

Nắng trưa thì trú tàn cây Tuổi thơ trú ở những ngày bâng khuâng Người ta đi hỏi cầu vồng Con đường ấy có còn không ở trời

Ngoài ra, thơ Hoài Thanh còn có đặc tính “lời ít nói nhiều”. Chỉ bằng một câu hỏi và một câu trả lời, Hoài Thanh đã diễn tả được nỗi nhớ nhung người anh đã xa nhà từ lâu:

“Mẹ ơi cầu có tự bao giờ?” em hỏi mẹ Mẹ bảo tuổi cầu cùng tuổi với anh

Chỉ cần nhắc chuyện mua bán khi đi qua một ngôi chợ, Hoài Thanh đã nói lên nỗi đau đớn của một người chị khóc em đến không còn nước mắt:

Chỉ một thứ chẳng ai cần mua là nước mắt Em mặc cả với đời mang nó đi theo

Tôi ngạc nhiên khi đọc thơ của Hoài Thanh. Ngạc nhiên vì không hiểu tại sao thơ Hoài Thanh đã “cảm” tôi một cách dễ dàng như thế? Ngạc nhiên vì những vần thơ dung dị, gần gũi đã nói lên được nỗi lòng và hoàn cảnh của một kiếp người, một kiếp người Việt Nam, đặc biệt là một phụ nữ phải kinh qua giai đoạn thăng trầm quá dài của đất nước với rất nhiều đổ vỡ và chia ly. Thơ Hoài Thanh chỉ là những lời tâm sự của môt người bạn, rất ôn tồn, nhẹ nhàng nhưng thấm thía.

Tôi cảm nhận thơ Hoài Thanh như thế và tôi nghĩ rằng đất nước này, dân tộc này vẫn còn vô số những “thi sĩ cần được khám phá”, cần được giới thiệu như Hoài Thanh để những vần thơ hay và đẹp không bị mai một và di sản văn hóa Việt Nam không bị thiệt thòi.