Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được phép giữ người trong thời hạn bao lâu

1. Vướng mắc, bất cập

Thứ nhất, khoản 4 Điều 110 BLTTHS quy định “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn…”.

Liên quan đến thời điểm ra quyết định tạm giữ và lệnh bắt người bị giữ, tại Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của VKSNDTC đã giải đáp: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải ra quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của VKS). Quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ban hành trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Với quy định và giải đáp nêu trên thì trong trường hợp quyết định tạm giữ được ban hành trước lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã trở thành người bị tạm giữ, cho nên nếu có căn cứ bắt người thì Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt người bị tạm giữ, việc quy định ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại thời điểm này đã không còn phù hợp.

Thứ hai, BLTTHS quy định biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp dường như không cần thiết. bởi vì, mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn là để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án. Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, nếu xét thấy người bị giữ có thể gây khó khăn cho việc giải quyết vụ việc, Cơ quan điều tra chỉ cần quyết định tạm giữ, sau đó khởi tố bị can chuyển tạm giam hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do mà không nhất thiết phải áp dụng thêm biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, vì làm phát sinh thêm thủ tục  tố tụng, rườm rà, gây mất thời gian, lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền.

Thứ ba, chưa quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người bị bắt

Khi Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp, người bị giữ có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 58 BLTTHS nhưng kể từ thời điểm Cơ quan điều tra ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, họ không còn là người bị giữ nữa mà đã trở thành người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp. Thế nhưng, pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định các quyền, nghĩa vụ cho đối tượng này. Tại Điều 58 BLTTHS mặc dù có quy định quyền, nghĩa vụ của người bị bắt nhưng quy định này chỉ áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã.

Thứ tư, Điều 110 BLTTHS với tiêu đề là “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” nhưng nội dung của Điều luật này lại điều chỉnh đối với cả biện pháp ngăn chặn giữ người và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (lệnh, thủ tục phê chuẩn và thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp) là không phù hợp giữa tiêu đề và nội dung điều luật, đồng thời chưa hợp lý về kỹ thuật lập pháp.

Thứ năm, Khoản 4 Điều 110 và khoản 1 Điều 114 BLTTHS quy định thiếu thống nhất với nhau. Điều 110 quy định trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người có thẩm quyền phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Trong khi đó, Điều 114 Bộ luật này lại chỉ bắt buộc các cơ quan này lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt; không đề cập đến việc ra lệnh bắt người bị giữ và trả tự do cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

2. Kiến nghị

Từ vướng mắc, bất cập nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi BLTTHS theo một trong hai hướng sau:

Thứ nhất, bãi bỏ biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự.

Thứ hai, Trường hợp vẫn giữ biện pháp này thì theo tác giả cần sửa đổi BLTTHS (các điều 110, 114) theo hướng lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải được ban hành trước quyết định tạm giữ để bảo đảm phù hợp về tên gọi và bản chất của biện pháp này là bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn sửa đổi Điều 110 Bộ luật này như sau:

“Điều 110. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp

4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn…”

Bổ sung quyền, nghĩa vụ của người bị giữ sau khi họ bị bắt theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp vào Điều 58 Bộ luật này bằng việc thêm vào khoản 1 Điều này cụm từ “người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp”, cụ thể:

“Điều 58. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt

1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:

a) Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;

b) Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt…”

Công an tỉnh Điện Biên bắt giữ một đối tượng buôn bán ma túy đặc biệt nguy hiểm, đang bị truy nã Ảnh: Chu Dũng

Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự còn đang tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong cách hiểu và cách áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

1. Luật sư tư vấn quy định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, thể hiện tính chất đặc biệt, cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, đồng thời góp phần ngăn ngừa không cho các đối tượng bị nghi thực hiện tội phạm gây khó khăn cho các hoạt động điều tra. 

Nếu bạn còn chưa nắm rõ hoặc muốn tìm hiểu về quy định này của pháp luật, bạn có thể liên hệ với Luật sư của chúng tôi để được hỗ trợ.

Bạn có thể gửi yêu cầu tư vấn hoặc gọi: 1900.6169 để được giải đáp vướng mắc.

Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo bài viết dưới đây để có thêm kiến thức pháp lý về biện pháp khẩn cấp này.

2. Quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định và hướng dẫn cụ thể tại Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung cụ thể như sau:

Điều 110. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp

1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:

a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Quy định về Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

2. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;

c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

3. Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này.

4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.

5. Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm:

a) Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

b) Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ;

c) Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp;

d) Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

đ) Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

6. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.