Barium enema là gì

 

Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới.  Riêng tại Hoa Kỳ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người.   Rồi đây con người sẽ sống thọ hơn, và người già sẽ nhiều hơn, và số người bị ung thư ruột già sẽ tăng lên.   Ung thư ruột già đến với phụ nữ hơi nhiều hơn một chút.

Hầu hết các bướu độc ung thư ruột già phát sinh từ những bướu thịt lành tính có tên “adenomatous polyps”.  Trong lòng ruột già, hay có những chỗ lồi lên, tạo thành những bướu thịt dư ra gọi là “polyps”. Tùy theo cấu trúc của các bướu thịt dư này, người ta chia chúng ra làm 3 loại: juvenile polyp [nonneoplastic hamartoma], hyperplastic polyp [hyperplastic mucosal profiferation] và adenomatous polyp.  Theo thời gian, chỉ có loại bướu thịt dư adenomatous polyp là có thể biến thành ung thư.

Đến 30% người lớn tuổi có bướu thịt adenomatous polyps trong ruột già, và thường thì chúng im lặng, chẳng gây triệu chứng  gì để ta có thể biết được.  Tuy nhiên, không phải tất cả bướu thịt adenomatous polyp nào sau cũng biến thành ung thư.

I- NHỮNG AI DỄ BỊ UNG THƯ RUỘT GIÀ?

Một số yếu tố được xem dễ đưa đến ung thư ruột già:

Tuổi tác; 90% các trường hợp ung thư ruột già xảy ra ở người 50 tuổi trở lên.

Di truyền:  25% số người bị ung thư ruột già có người thân trong gia đình cũng bị ung thư ruột già.   Như vậy, trong nhiều trường hợp, tính di truyền của loại ung thư này rất mạnh.  Đi khám bệnh, nếu có người thân trong gia đình bị ung thư ruột già, bạn nên nói cho bác sĩ biết.

Người trước đã bị ung thư ruột già dễ có ung thư ruột già nữa.  Người có bưới thịt adenomatous polyp trong ruột già dễ bị ung thư ruột già hơn người khác.

Thực phẩm:  Tuy nguyên nhân gây ung thư ruột già chưa được biết rõ, nhưng có lẽ ung thư ruột già là bệnh của những người thích ăn thịt.  Người ta nhận thấy ung thư ruột già xảy ra thường hơn ở người thuộc tầng lớp khá, sinh sống nơi phồn hoa đô thị.  Những khảo cứu làm tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới cho thấy càng ăn nhiều chất đạm từ thịt [ meat protein], càng tiêu thụ nhiều dầu mỡ [dietary fat and oil], càng dễ tử vì ung thư ruột già.  Di dân từ những nơi ít có ung thư ruột già, khi đến một quốc gia mới có thói quen ăn thịt, cũng sẽ dễ bị ung thư ruột già giống như người bản xứ ở quốc gia mới đến cư ngụ.  Người theo đạo Mormons ít ăn thịt, ít bị ung thư ruột già hơn những ông bà bạn hàng xóm của họ không theo đạo Mormons, ăn thịt nhiều hơn.  Người Nhật, trước ít bị ung thư ruột già, bây giờ nhiều hơn, vì nay họ có thói quen ăn uống giống với người phương Tây.

Bệnh viêm ruột [inflammatory bowel disease]: 

Bệnh viêm ruột “inflammatory bowel disease” gồm hai bệnh “ulcerative colitis” và “granulomatous colitis”, cứ hay đi cầu ra máu, đau bụng, lâu lâu lại tắc ruột.  Sau 25 năm mang bệnh mang bệnh với các triệu chứng tái phát như vậy, triển vọng bị ung thư ruột già rất cao [8-30%].  Sau 15 năm mang bệnh viêm ruột, căn bệnh vẫn hay hành, cắt bỏ hẳn ruột già sẽ làm giảm nguy cơ ung thư, đồng thời cũng giúp người bệnh đỡ khổ vì các triệu chứng.

Thuốc lá:  Hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư ruột già.

Thiếu vận động:  Đời sống thiếu vận động cũng khiến ung thư ruột già dễ xảy ra.

Ngược lại, theo vài nghiên cứu,  Calcium [ít nhất 1000 mg mỗi ngày, từ thực phẩm hoặc thuốc uống] có thể giúp giảm nguy cơ ung thư ruột già, thuốc aspirin và cá thuốc chống viêm không chứa steroid [nonsteroidal antìinflammatory drugs] như ibuprofen, naproxen, . . .  cũng vậy.

II- TRIỆU CHỨNG:

Ruột già dài, gồm nhiều đoạn.  Triệu chứng của ung thư ruột già tùy vào chỗ ruột già  bị ung thư.

Khi từ ruột non vào ruột già phía bên phải của bụng, phần tương đối còn lỏng lẻo nên ung thư nằm ở đoạn ruột già bên phải bụng [gọi là ruột già lên, ascending colon, vì nó đi từ bụng dưới bên phải lên phía bụng trên bên phải], cả đến khi nó đã rất to, thường không không gây triệu chứng gì cả.  Bướu ung thư tại đây thường gây loét, khiến chỗ loét cứ âm thầm chảy máu tí một, tí một, mắt ta không nhìn thấy, và phân trông vẫn bình thường.  Nhưng chảy máu rỉ rả như vậy, về lâu về dài sẽ đưa đến thiếu máu, loại thiếu máu do thiếu chất sắt [iron deficiency anemia].  Người có ung thư ruột già bên phải, vì thiếu máu, hay thấy mệt mỏi, hồi hộp, có khi đau ngực [angina] do tim không đủ máu nuôi, thử máu thấy các tế bào hồng huyết cầu vừa thiếu, vừa nhỏ, vừa tái, không đỏ như bình thường, làm ta nghĩ đến loại thiếu máu do thiếu chất sắt.  Vì thế, ở người lớn tuổi, nhất là sau 50 tuổi, ai bị thiếu máu do thiếu chất sắt nhưng không có lý do nào rõ rệt để có thể giải thích việc này [ cũng như phụ nữ đã mãn kinh, không còn ra kinh mỗi tháng, mà sao vẫn thiếu máu], cần được tìm hiểu xem có ung thư ruột già hay không.

Khi đến đoạn ruột già ngang [transverse colon, chạy từ bụng trên bên phải sang bụng trên bên trái] và ruột già xuống [descending colon] bên trái bụng, phân sẽ trở thành cứng hơn, nên ung thư ở những phần ruột già này cản phân, khiến phân khó di chuyển, gây đau bụng.  Ruột có thể tắc, có khi thủng.

Ung thư vùng trực tràng [rectosigmoid area] gần về phiá hậu môn hay làm đi cầu ra máu, đi cầu khó phải rặn nhiều [tenesmus], phân ra bé hơn bình thường.  Thiếu máu ít khi xảy ra.  Đi cầu ra máu khiến chúng ta thường nghĩ đến bệnh trĩ; nhưng bất cứ khi nào đi cầu ra máu, và thói quen đi cầu tự dưng thay đổi, nên nghĩ đến ung thư ruột già.  Nhờ bác sĩ dùng ngón tay khám trực tràng, hoặc soi vùng trực tràng bằng phương pháp soi proctosigmoidoscopy.

III- ĐỊNH BỆNH:

Nghĩ đến ung thư ruột già, nhất là ở các vị trên 50 tuổi trở lên, ta đã đặt được bước đầu tiên trên con đường định bệnh. 

Thiếu máu do thiếu chất sắt ở đàn ông hoặc phụ nữ đã mãn kinh mà không có lý do rõ rệt, ta nghĩ đến ung thư ruột già.  Đau bụng, thói quen đi cầu thay đổi [mới bón hoặc tiêu chảy thời gian gần đây thôi], đi tiêu ra máu, đi cầu phải rặn dữ quá, phân ra bé tẹo, . . ., cũng vậy.

Những phương pháp hiện được dùng để khám phá ung thư ruột già: thử phân để tìm trong phân có máu không [fecal occult blood test], khám trực tràng bằng ngón tay [digital rectal examination], chụp phim ruột già [barium enema], soi đoạn cuối của ruột già gần về phía hậu môn [sigmoidoscopy], và soi toàn ruột già [colonoscopy].

Soi toàn ruột già được xem là phương pháp khám phá ung thư ruột già chính xác nhất.  Sau khi ruột già đã súc rửa sạch sẽ, bác sĩ đặt một ống soi mềm vào hậu môn và đi ngược lên phía trực tràng, rồi từ từ lên cao hơn nữa, quẹo phải trên đoạn ruột cong  hình chữ S sigmoid, xong, ngược lên đoạn ruột già xuống bên trái bụng, quẹo trái khi gặp đoạn ruột già ngang, đi hết đoạn ruột gà ngang, lại quẹo trái nữa, xuống đoạn ruột già lên bên phải bụng.  Với ống soi, vừa đi như vậy, bác sĩ vừa xem xét kỹ lòng ruột già, và nếu gặp bất cứ chỗ nào khả nghi, sẽ cắt lấy một miếng thịt để đem thử.

Phương pháp soi toàn ruột già tốt, khám phá ung thư rất chính xác, song có thể gây biến chứng chảy máu, thủng ruột già, vì việc đi xa trên cả một cái ruột già dài và vòng vèo như thế, thỉnh thoảng cũng gặp bất trắc.  Tuy vậy, những biến chứng này ít khi xảy ra, và nếu cần phải soi toàn ruột già để khám phá hoặc truy tìm ung thư, ta chẳng nên ngần ngại.

IV- CHỮA TRỊ:

Việc chữa trị ung thư ruột già tùy thuộc vào việc khám phá được ung thư sớm hay trễ, nó còn tại chỗ hay đã ăn sâu xuống, lan đi xa.  Ung thư tiến triển qua 5 giai đoạn [Dukes staging system]:

-A: khi ung thư còn ở nông trên lớp niêm mạc hoặc dưới đó một chút [cancer limited to mucosa and submucosa].

- B1: ung thư xuống đến vùng bắp thịt của lòng ruột già [cancer extends into muscularis].

-B2: ung thư xuống sâu đến lớp bao phủ mặt ngoài ruột già [cancer extends into or through serosa].

-C: ung thư đã ra ngoài ruột già, lan đến các hạch bạch huyết quanh đấy [cancer involves regional lymph nodes].

-D: ung thư lan xa đến các cơ quan khác như gan, phổi, . . .  [distant metastases].

Trước khi chữa trị, để biết ung thư lan đến đâu, cần soi toàn bộ ruột già [nếu chưa soi], chụp phim ngực [chest X-ray], phim Cat scan bụng và vùng chậu [abdominal and pelvic CT scan].

Phát hiện trong giai đoạn A, khi ung thư mới còn trên lớp niêm mạc, chưa ăn sâu xuống lòng của ruột già, sự chữa trị giản dị, mổ cắt bướu ung thư là xong.  Tỉ lệ sống sót được 5 năm [5 year survival rate] của người bệnh rất cao, trên 90%.  Mặc dù vậy, cần phải theo dõi sát trong vòng 5 năm đầu sau khi mổ cắt bướu ung thư thành công, bằng cách đo chất CEA trong máu [carcinoembryonic antigen, một chất tăng cao trong máu khi có ung thư ruột già] mỗi 3 tháng, khám bệnh đều mỗi 6 tháng, và soi lại hoặc chụp phim ruột già mỗi 3 năm.

Ở các giai đoạn B và C, sau khi giải phẫu cắt bỏ ung thư, thường ta phải trị liệu thêm bằng tia phóng xạ [radiation  therapy] và các chất hóa học [chemotherapy], với hy vọng tiêu diệt hết những tế bào ung thư chưa cắt hết được.

Nếu để quá trễ, khi ung thư đã sang giai đoạn D, lan xa đến các cơ quan khác, sự chữa trị chính là hóa học trị liệu [chemotherapy], dùng các thuốc có tác dụng diệt ung thư, nhờ thuốc đến mọi nơi trong cơ thể có tế bào ung thư để giết chúng.  Việc này không thành công nhiều, và tỉ lệ sống sót 5 năm của nguời ung thư chỉ khoảng 5%.

TRUY TÌM UNG THƯ RUỘT GIÀ
 

Theo thống kê, tại Hoa Kỳ , năm 2008, có 139.000 người lớn được chẩn đoán bị ung thư ruột già, với hơn 50.000 tử vong.  Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ căn bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn.   Các thử nghiệm truy tìm sàng lọc ngừa ung thư ruột già [colon cancer screening] này có thể sớm nhận diên bướu thịt [polyp] đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo.

Vậy các thử nghiệm đó là gì và được thực hiện thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

1- Khám hậu môn với ngón tay

Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn.  Chổng mông để thầy thuốc thọc ngón tay vào, ngoáy qua ngoáy lại từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.  Xem xét mặt trong ruột có trơn tru, có cái u nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su.  Với cách khám hậu môn với ngón tay, thầy thuốc cũng đồng thời kiểm tra xem cái tuyến tiền liệt của qúy ông có sưng có gồ ghề không.

Thử nghiệm này giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích.  Thử nghiệm giúp ta sớm tìm ra lối 10% căn bệnh sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh.  Cần nên làm mỗi năm.

Nếu thử nghiệm thấy có máu trong phân thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột.

2- Tìm máu ẩn trong phân

Bình thường , phân không có máu và đàm.  Phân có máu là dấu hiệu chủ một bệnh nào đó của ống tiêu hóa.

Máu có thể đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sậm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn.

Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da xung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng.

Máu bầm đen trong các bệnh loát dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu.

Số lượng máu có thể nhiều hay ít như trường hợp máu ẩn [ occult blood].  Máu ẩn có rất ít trong phân mà mắt thường không thể thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học.  Nguồn gốc máu ẩn có thể từ viêm loét dạ dày, viêm đường ruột, ung thư hoặc polyp trong ruột già.

Tìm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm.  Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột.  Do đó , bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi để trực tiếp quan sát đường ruột.

3- Nội soi toàn ruột già

Nội soi toàn ruột già là tiêu chuẩn vàng [golden standard] để sàng lọc ung thư ruột già-trực tràng.

Có phương tiện, chúng ta nên nội soi toàn ruột già [colonoscopy] mỗi 10 năm để truy tìm và ngừa ung thư ruột già.

Nội soi toàn ruột già giúp bác sĩ nhìn trực tiếp niêm mạc lót lòng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có.

Trước khi làm nội soi ruột già, bệnh nhân ăn lỏng [clear liquid diet], uống thuốc xổ để súc sạch ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát.  Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho bệnh nhân ngủ, đưa một ống soi bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình.  Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột già, qua đèn, nhìn ruột rõ, nào là gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột,...  Thấy chỗ nào bất thường, qua ống soi, bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt.  Nhắc lại, trong trường hợp bình thường, lòng ruột già trơn mềm như mặt trong của má.

Nội soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách lòng ruột già với tỉ lệ 1/1000.  Vì bệnh nhân được cho ngủ, hôm đi soi, bệnh nhân cần có người lái xe đưa về nhà, và không thể đi làm trong cùng ngày.

Hội Ung Thư Hoa Kỳ đề nghị những ai từ 50 tuổi trở lên nên làm nội soi toàn ruột già mỗi 7-10 năm.

4- CT colonography

 CT colonography [computed tomography colonography] là phương pháp dùng máy CT scan để chụp phim ruột già.  Với hình ảnh 2 hay 3 chiều cho bởi máy CT scan, bác sĩ quang tuyến dễ nhận diện các bướu thịt hoặc ung thư trong lòng ruột già.   Nếu bình thường, có thể làm lại CT colonography mỗi 5 năm.

Điểm lợi của phương pháp truy tìm này, bệnh nhân không cần phải ngủ, không xảy ra những biến chứng chảy máu, rách ruột.

Vài điểm bất lợi của chụp phim ruột già bằng máy CT scan là ruột vẫn cần được súc rửa sạch sẽ; nếu phim cho thấy có gì bất thường, bệnh nhân lại phải nhờ bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nội soi ruột già để xác định lại, nếu cần bác sĩ sẽ cắt lấy chỗ bất thường đem thử; phim có thể cho thấy những chỗ bất thường không đáng kể, nhưng trông giống bướu thịt hoặc ung thư, trường hợp này bệnh nhân cũng phải nhờ đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa soi ruột già để xác định lại, tốn thêm lần tiền nữa. 

Hiện Medicare và các bảo hiểm ở Mỹ chưa trả cho phương pháp truy tìm ung thư ruột già với CT colonography.

5- Sigmoidoscopy

Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già [phần ruột già bên trái] gần về phía hậu môn [ống soi chỉ vào sâu 60 cm].  Sigmoidoscopy, nếu bình thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm.

Chiều hôm trước ngày soi sigmoidoscopy, bệnh nhân ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi.  Thường khi soi, bệnh nhân không phải ngủ và có thể đi trở lại làm việc trong ngày.

Soi sigmoidoscopy có thể khám phá cá bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi.  Việc soi ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách lòng ruột già.   Về giá cả, sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, nhưng có điều bất lợi là sigmoidoscopy không tìm được bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải ruột già.   Ngay cả khi tìm thấy bướu thịt hoặc ung thư ruột già tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy để soi toàn ruột già, vì bướu thịt hoặc ung thư có thể thường xuất hiện luôn cả những vùng ruột già bên phải.

6- Chụp phim ruột già

Chụp phim bằng cách bơm thuốc cản quang vào ruột già [double contrast barium enema] là cách cổ điển được hay dùng để khám phá ung thư ruột già từ trước, nhưng nay không còn được dùng nhiều như trước.

Độ chính xác của phim chụp không bằng CT colonogram, có thể sót, không phát hiện được những bướu thịt hay ung thư nhỏ. 

 


Bác sĩ LÊ ÁNH
3/2017

Video liên quan

Chủ Đề