Bài học kinh nghiệm từ chiến tranh biên giới Tây Nam

Bài học bảo vệ Tổ quốc từ thực tiễn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam

Ngày đăng: 07-01-2019 Lượt xem: 4489

Bước vào những năm 70 của thế kỉ XX, quan hệ Việt Nam - Campuchia xuất hiện những rạn nứt và bất đồng trong nhiều vấn đề ở cấp độ quốc gia, nhất là vấn đề chủ quyền lãnh thổ và khởi nguồn cho những xung đột đó xuất phát từ chính quyền Khmer Đỏ. Được sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều từ các nước gia tăng sức ép, chống đối thù địch với Việt Nam và sự đang lên của chủ nghĩa dân tộc cực đoan ngay trong nội bộ của những người Cộng sản Campuchia đã đưa cách mạng Campuchia đi theo một con đường khác - con đường cực đoan và phát xít tàn bạo.

Chính quyền Khmer Đỏ phát động cuộc chiến tranh xâm phạm vào lãnh thổ của Việt Nam và khơi mào cho một cuộc chiến biên giới kéo dài ở phía Tây Nam của đất nước. Chiến tranh Biên giới Tây Nam là cuộc “chiến tranh bắt buộc” mà quân dân Việt Nam phải tiến hành để tự vệ và bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia trước sự xâm lược trắng trợn của chính quyền Khmer Đỏ.

Sư đoàn trưởng 320 Khuất Duy Tiến [trái] báo cáo phương án đánh trả quân Pol Pot xâm lược với thiếu tướng Nguyễn Quốc Thước, Tư lệnh Quân đoàn 3. Bên phải là Chính ủy sư đoàn Hà Quốc Toản. Ảnh: Quân Đoàn 3

Tính chất cuộc chiến tranh Biên giới Tây Nam 1975 - 1979

Không chỉ có các hành động gây hấn và xâm phạm liên tiếp vào lãnh thổ Việt Nam, Pol Pot còn rất ngạo mạn khi mạnh miệng tuyên Đài phát thanh Phnom Penh rằng: “Trong đời tôi, tôi hy vọng giải phóng Sài Gòn, sáp nhập vùng lãnh thổ Nam Bộ của Việt Nam vào đất nước “Campuchia Dân chủ”, [theo báo Le Monde - Pháp, ngày 8/1/1978]. Với tư tưởng đó, Pol Pot đã ra lệnh mở cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam; giết người, đốt phá trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền, cướp, giết trâu, bò… gây bao đau thương, tang tóc cho nhân dân Việt Nam. Hành động của họ rõ ràng là phi nghĩa, không gì có thể biện minh được.

Từ sự hung hãn của Tập đoàn Pol Pot, có thể khẳng định cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam [1975 - 1979] đó là một cuộc phản công tự vệ chính đáng của quân dân Việt Nam trước các hành động xâm lược trắng trợn nhằm thôn tín vùng lãnh thổ Nam Bộ của Việt Nam vào chính quyền Khmer Đỏ. Nhân dân Việt Nam không hiếu chiến, luôn yêu chuộng hòa bình và khát khao giành độc lập, tự do là một thực tế hiển nhiên. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thực chất là một cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, trước để tự vệ, bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia sau là vì nghĩa cử cao cả, giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng đẫm máu từ chính quyền Khmer Đỏ do tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary lãnh đạo. Quân dân Việt Nam tiến công tiêu diệt quân Khmer Đỏ xâm phạm lãnh thổ và giết hại thường dân ở biên giới và cũng làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi nguy cơ diệt vong. Chính những người lãnh đạo quốc gia Campuchia, Thủ tướng Hun Sen sau này đã khẳng định sự thật hiển nhiên đó.

Ngày 2/1/2012, khiđến tỉnh Đồng Nai dự lễ khánh thành di tích lịch sử Sư đoàn 125, tiền thân của Lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia, Thủ tướng Hun Sen đã gọi bộ đội Việt Nam là “đội quân nhà Phật”. Thủ tướng Hun Sen nói: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và quân đội Việt Nam! Nhân dân Campuchia có niềm tin chỉ có tiên có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên Phật tới cứu thì bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”.

Và đến cuối tháng 12/2013 khi thăm Việt Nam, Thủ tướng Hun Sen tiếp tục khẳng định: “Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia đã hi sinh hàng vạn người, bị thương không biết bao nhiêu. Việt Nam đã phải trả một cái giá rất lớn khi giúp đỡ Campuchia... Vấn đề này không quên được”. Có thể nói, chiến tranh biên giới Tây Nam những năm 1975 - 1979 không chỉ giữ an bờ cõi biên giới Tây Nam Việt Nam mà kết quả của cuộc chiến tranh vệ quốc đó của quân dân Việt Nam còn cứu cả một dân tộc Campuchia đang trên bờ vực của sự tiêu vong do chính sách cai trị tàn bạo, diệt chủng của tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary.

Chiến tranh biên giới Tây Nam [1975 - 1979] còn chứng tỏ sức mạnh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam khi sẵn sàng tiến công đánh bại quân xâm lược Khmer Đỏ và không ngại hy sinh mất mát để giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi diệt vong. Sau ngày giải phóng Phnom Penh ngày 9/1/1979, ngày 18/1/1979 Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia thành lập, ký kết với Chính phủ Việt Nam Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài. Theo đó Campuchia yêu cầu Việt Nam để quân tình nguyện ở lại giúp giữ vững an ninh quốc phòng và xây dựng đất nước bị tàn phá nặng nề trong chế độ Pol Pot. Tư tưởng “giúp bạn là tự giúp mình” trở thành phương châm hành động xuyên suốt từ trên xuống, trong quân sự và các bộ ngành chuyên môn, các địa phương giáp biên giới. Và, có thể khẳng định, hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách nhiệm quốc tế cũng như lương tâm của một dân tộc từng chịu nhiều áp bức, ngoại xâm và sự đóng góp, hy sinh của Việt Nam tại Campuchia vừa vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vừa với tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả.

Những người lính tình nguyện Việt Nam trở về năm 1989, sau 10 năm chiến đấu bảo vệ đất nước bạn. Nhưng quá nhiều đồng đội của họ đã nằm lại nơi đây... Ảnh tư liệu: Tuổi Trẻ

Bài học từ cuộc chiến tranh Biên giới Tây Nam

Chiến tranh biên giới Tây Nam [1975 - 1979], cuộc chiến tranh không mong muốn và là cuộc chiến bắt buộc của nhân dân Việt Nam ở biên giới Tây Nam Tổ quốc. Chiến tranh kết thúc 40 năm nhưng ngày nay nhìn lại cuộc chiến vệ quốc này của quân dân Việt Nam trong những năm 1975 - 1979 gợi cho chúng ta nhiều điều phải suy nghĩ về cuộc chiến tranh này.

Thứ nhất, chiến tranh Biên giới Tây Nam là “cuộc chiến tranh bắt buộc” mà quân dân Việt Nam phải tiến hành để tự vệ, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Quân dân Việt Nam chỉ thật sự chiến đấu khi quốc gia bị xâm lăng và chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh mà nhân dân Việt Nam không mong muốn xảy ra nhưng cuối cùng nó vẫn xảy ra do chính sách xâm lược, hiếu chiến, tàn bạo của chính quyền Khmer Đỏ lúc bấy giờ.

Thứ hai, chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đó là cuộc phản kích tự vệ chính đáng của quân dân Việt Nam trước các hành động xâm lược trắng trợn và những cuộc thảm sát tàn bạo của quân đội và chính quyền Khmer Đỏ đối với thường dân vô tội Việt Nam ở dọc biên giới Tây Nam Tổ quốc.

Thứ ba, chiến tranh biên giới Tây Nam những năm 1975 - 1979 không chỉ là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng của nhân dân Việt Nam mà đó còn là cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa, chân lý và là cuộc chiến cứu trợ nhân đạo do quân tình nguyện Việt Nam tiến hành nhằm cứu giúp và hồi sinh dân tộc Campuchia đang trên bờ vực của sự diệt vong bởi các chính sách đàn áp, khủng bố và thảm sát kinh hoàng từ quân đội và chính quyền Khmer Đỏ đối với nhân dân Campuchia lúc bấy giờ.

Thứ tư, mặc dù chiến tranh biên giới Tây Nam đã vào lịch sử nhưng còn đó những bài học kinh nghiệm đấu tranh cách mạng quý báu vẫn còn nguyên giá trị to lớn trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam ngày nay. Từ trong cuộc chiến chính nghĩa đó, toàn Đảng, toàn quân dân Việt Nam hiện nay và trong tương lai cần nhận thức được rằng phải luôn luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng ngay cả trong thời bình, phải không ngừng ra sức xây dựng phát triển đất nước về mọi mặt, ra sức đấu tranh củng cố, bảo vệ hòa bình và sẵn sàng thực hiện những nghĩa vụ quốc tế cao cả, trong sáng giúp nhân nhân các nước bạn khi có yêu cầu nhằm tô điểm thêm sáng ngời tinh thần quốc tế trong sáng và cao đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Thứ năm, qua các cuộc chiến tranh dựng nước và chúng ta nhận ra rằng sức mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng là to lớn quyết định đến thành bại của cách mạng; phải xác định đúng mục tiêu, thời cơ, phương thức và sử dụng lực lượng phản công [5 cụm mục tiêu chiến lược, thời cơ, mục đích tổng phản công, về sử dụng lực lượng trong tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng]. Và trong vấn đề bảo vệ độc lập, tự do chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay, toàn Đảng, toàn quân dân Việt Nam phải tăng cường chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng vững mạnh, đủ sức để tự vệ và phản công trước bất kỳ đối thủ hùng mạnh nào đe dọa đến nền độc lập, tự do cũng như xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia.

Tóm lại, chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc đấu tranh trên ba mặt quân sự, chính trị, ngoại giao nhưng hoàn toàn khác với cuộc kháng Pháp, chống Mỹ trước đây, ta đánh với một nước “xã hội chủ nghĩa” cực đoan, giả danh chủ nghĩa xã hội đánh trên đất kẻ thù phải đối phó với vấn đề dân tộc, chủ quyền, rất khó cho việc phát động nổi dậy của nhân dân và xác định hậu phương của quân ta. Ở đây bài học về mất cảnh giác, về xây dựng lực lượng quốc phòng trước sự phản bội của Pol Pot; bài học về đấu tranh đối ngoại trong bối cảnh chế độ chính trị phức tạp bất lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa; bài học về xử lý chống bạo loạn trong nội địa và ứng xử với cộng đồng dân tộc thiểu số trong tình huống bức bách…Tất cả là bài học lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay./.

Thái Văn

Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam: Bài học cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước

Theo QĐND

Đánh giá tác giả:

10:46 thứ hai ngày 31/12/2018

Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Truông Bồn

Nằm trong tổng thể hoạt động kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, Hội thảo khoa học cấp quốc gia “40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng [7/1/1979-7/1/2019]” có ý nghĩa rất quan trọng.

Đây là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện hơn tầm vóc, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, rút ra những bài học kinh nghiệm quý để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [XHCN]; đồng thời tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sĩ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã cống hiến, hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vẻ vang này.

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia có chung khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Thế nhưng ngay sau khi lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 4-1975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Xary đã phản bội lại nhân dân Campuchia, phản bội lợi ích dân tộc, thâu tóm quyền lực, tước đoạt mọi thành quả cách mạng, thi hành hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo. Ở trong nước, chúng tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ thành những người nô lệ; thi hành chính sách diệt chủng đối với trí thức, tôn giáo, người dân tộc thiểu số, Việt kiều và đảng viên, công chức, binh lính không đi theo đường lối phản động của chúng... Trong thời gian Pol Pot cầm quyền, chúng đã giết hại hàng triệu người vô tội, đặt dân tộc Campuchia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm trọng an ninh của các nước trên bán đảo Đông Dương. Đất nước Campuchia xinh đẹp trở thành đống đổ nát, hoang tàn, biệt lập, chết chóc và đau thương.

Không chỉ thi hành chính sách diệt chủng dã man, tàn bạo đối với đồng bào mình, được các thế lực phản động quốc tế giật dây, giúp sức, tập đoàn Pol Pot-Ieng Xary đã thay đổi thái độ với Việt Nam, ra sức xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động hằn thù dân tộc, đòi hoạch định lại biên giới, coi Việt Nam là “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”. Từ năm 1975 đến 1978, chúng trắng trợn mở nhiều cuộc tiến công xâm lấn, đánh chiếm các đảo, biên giới nước ta với quy mô, tần suất ngày một gia tăng, gây nên hàng loạt cuộc thảm sát đẫm máu đối với nhân dân ta dọc biên giới Việt Nam-Campuchia. Hành động của tập đoàn Pol Pot đã xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây tổn hại cho mối quan hệ giữa hai nước.

Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, Đảng, Nhà nước ta một mặt chỉ đạo các quân khu, địa phương, đơn vị tăng cường chuẩn bị lực lượng và thế trận, kiên quyết đập tan các cuộc tiến công xâm lược của địch; mặt khác, kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, tìm cách cứu vãn hòa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán với Chính phủ Campuchia Dân chủ nhằm giải quyết những bất đồng. Song, tập đoàn Pol Pot-Ieng Xary không những cự tuyệt, khước từ mọi thiện chí của ta mà còn đẩy mạnh hoạt động chống phá, xâm lược Việt Nam. Được nước ngoài hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn quân sự, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Cuối năm 1978, chúng huy động 10 sư đoàn cùng vũ khí, trang bị, kỹ thuật về biên giới Tây Nam Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công xâm lược nước ta.

Trước tình hình đó, đầu tháng 12-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm mở cuộc tổng phản công-tiến công chiến lược trên tuyến biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang [LLVT] yêu nước Campuchia đánh đổ tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, từ ngày 23-12-1978, bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp đó, đáp lại đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và trên tinh thần quốc tế trong sáng, “giúp bạn là mình tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với LLVT Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnôm Pênh [7-1-1979] và toàn bộ đất nước Campuchia [17-1-1979].

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã đập tan âm mưu, thủ đoạn thâm độc của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary và các thế lực phản động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xóa bỏ chính quyền phản động Pol Pot-Ieng Xary, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bờ vực của thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự; chặn đứng mưu đồ chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời của ba nước Đông Dương.

Sĩ quan trẻ Việt Nam - Campuchia giao lưu tại đêm dạ hội thanh niên quân đội Việt Nam - Campuchia với chủ đề "Chung dòng Mê Kông - Nghĩa tình sâu nặng". Ảnh: XUÂN CƯỜNG.


Chiến thắng ngày 7-1-1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia; thắng lợi của tinh thần quốc tế cao cả, sự giúp đỡ vô tư, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia. Quan hệ Việt Nam-Campuchia chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ phát triển hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước. Đồng thời góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; vạch trần bản chất phản động của tập đoàn Pol Pot-Ieng Xary, cảnh báo cho nhân loại nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa diệt chủng, chủ nghĩa phát xít mới.

Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã để lại nhiều bài học kinh nghiêm quý trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Một là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù.

Nằm ở vị trí có ý nghĩa chiến lược trọng yếu cả về chính trị, quân sự, Việt Nam luôn là đối tượng nhòm ngó, xâm lược của các thế lực ngoại bang. Từ thực tế đó, trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, đề cao cảnh giác đã trở thành ý thức thường trực của dân tộc ta. Để đất nước không bị bất ngờ, chúng ta luôn đề cao cảnh giác, đánh giá đúng tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn của địch và đề ra phương án ứng phó kịp thời, hiệu quả.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuất phát từ những nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, chúng ta chưa kịp thời đánh giá đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; tư tưởng “xả hơi” sau hòa bình đã xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân... Vì thế, thời gian đầu, quân và dân ta bị động, bất ngờ trong việc xác định đối tượng tác chiến, gặp khó khăn trước các đợt tiến công xâm lấn của đối phương. Sau khi nắm chắc tình hình, xác định đúng nguồn gốc, nguyên nhân, mục tiêu gây chiến tranh của kẻ thù, Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia rất đúng đắn, sáng tạo.

Điều đó cho thấy, để đất nước không bị động, bất ngờ, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”[1]. Đặc biệt, trong tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp như hiện nay, càng phải mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, sớm phát hiện, nhận rõ kẻ thù; xác định, đánh giá đúng đối tượng và đối tác trong từng thời điểm; chủ động chuẩn bị về tư tưởng, lực lượng, thế trận, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Các đơn vị quân đội, nhất là cơ quan tham mưu chiến lược, phải quán triệt, nắm vững Nghị quyết số 347-NQ/QUTW ngày 23-5-2015 của Quân ủy Trung ương “Về nâng cao chất lượng tham mưu và dự báo chiến lược quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; chủ động phối hợp với các lực lượng, nhất là công an, ngoại giao để nắm chắc những biến động, dự báo chính xác tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới, nhất là diễn biến trên Biển Đông, khu vực biên giới và trong nội địa. Trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước chủ trương, chính sách phù hợp nhằm kịp thời ngăn chặn, triệt tiêu nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tích cực quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia; quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất. Xây dựng và nâng cao sức mạnh bảo vệ, tự bảo vệ của các cấp, các ngành, địa phương về mọi mặt, trước hết là về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Toàn quân, nhất là các đơn vị đóng quân ở vùng biên giới, biển, đảo phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu. Cơ quan quân sự địa phương các cấp phải phối hợp với lực lượng công an, biên phòng tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phòng và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Hai là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân [QPTD] vững mạnh, nhất là ở những địa bàn chiến lược, trọng điểm, biên giới, hải đảo.

Mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng nền QPTD vững mạnh là tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước, giữ vững hòa bình, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách quốc phòng của ta là “hòa bình, tự vệ”.

Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo quân và dân cả nước tập trung xây dựng thế trận quốc phòng và an ninh [QPAN]; triển khai lực lượng, thế trận phòng thủ, bảo vệ biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, thời gian đầu, do “việc bảo vệ biên giới chưa được tiến hành một cách chủ động và có hiệu quả theo một kế hoạch thống nhất, chặt chẽ, sức mạnh tổng hợp của các LLVT và của nhân dân địa phương chưa được phát huy mạnh mẽ”[2]; một số đơn vị, địa phương chưa chủ động xây dựng khu vực phòng thủ và phương án tác chiến bảo vệ địa bàn, cơ sở cách mạng vùng căn cứ dọc biên giới Tây Nam không được củng cố... nên khi bị địch tiến công đã rơi vào thế bị động, lúng túng. Từ năm 1977, nhất là sau khi có Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư [tháng 7-1978] của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, nhờ phát huy được sức mạnh của LLVT ba thứ quân, xây dựng thế trận QPTD vững chắc, xây dựng được kế hoạch đánh địch tại chỗ và kế hoạch phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, biết tập trung lực lượng hợp lý trên các khu vực trọng điểm, quân và dân ta đã đánh bại nhiều cuộc tiến công của địch, bảo vệ được chủ quyền đất nước.

Bài học này là cơ sở khẳng định, để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, ngay trong thời bình, quân và dân ta phải thường xuyên chú trọng xây dựng, củng cố thế trận QPTD vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận lòng dân và lực lượng tại chỗ, Bộ đội Biên phòng-lực lượng đầu tiên đối đầu với sự tiến công xâm lược của kẻ thù, trực tiếp bảo vệ biên giới, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; không ngừng bồi dưỡng và phát huy nhân tố chính trị-tinh thần, ưu thế hơn hẳn của sức mạnh quân sự, quốc phòng Việt Nam. Đồng thời phải có kế hoạch phối hợp tác chiến cụ thể với lực lượng của cấp trên trong nhiều tình huống giả định khác nhau, ở từng khu vực.

Trong tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp như hiện nay, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần chủ động, tích cực tham gia xây dựng, củng cố thế trận QPTD trên địa bàn, nhất là ở địa bàn chiến lược, trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Cơ quan quân sự các cấp phải đề cao trách nhiệm, phát huy vai trò nòng cốt, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tham mưu, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, tổ chức triển khai xây dựng thế trận QPTD vững mạnh. Trong quá trình thực hiện, phải thấu triệt quan điểm của Đảng về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền QPTD vững mạnh toàn diện cả về tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, QPAN.

Các cấp, các ngành, các địa phương và LLVT cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, Luật Quốc phòng và Nghị định của Chính phủ về công tác quân sự, quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ; chú trọng phát triển kinh tế-xã hội gắn với QPAN, xây dựng thế trận QPTD vững chắc gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm theo hướng: Bảo đảm vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc QPAN, cần phải đặc biệt coi trọng xây dựng thế trận lòng dân vững chắc ngay từ cơ sở bằng các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở nước ta.

Ba là, chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nhờ phát huy cao độ nhân tố chính trị-tinh thần, ý chí, quyết tâm chiến đấu, sáng tạo trong tổ chức lực lượng, xây dựng thế trận và cách đánh, LLVT ta, nòng cốt là Quân đội nhân dân đã đánh bại các cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, hòa mình, gắn bó với nhân dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, không chỉ tô thắm thêm truyền thống Bộ đội Cụ Hồ mà còn được nhân dân Campuchia ca ngợi, tôn vinh, gọi là “Bộ đội nhà Phật”. Tuy nhiên, thời gian đầu, do bố trí lực lượng còn phân tán, chỉ huy nhiều nơi còn lỏng lẻo, cách đánh chưa phù hợp... nên LLVT ta gặp không ít khó khăn.

Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sự nghiệp xây dựng quân đội đang đặt ra những yêu cầu cao hơn. Sức mạnh của Quân đội ta là tổng hòa của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó nội dung cơ bản được Đảng ta đặt lên hàng đầu là xây dựng nhân tố chính trị-tinh thần, xem đó là nền tảng để xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội. Do đó, trước hết và quan trọng nhất là phải tập trung xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, không ngừng củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, vai trò chủ đạo của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội. Chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân; xây dựng, phát triển quan hệ đoàn kết, thống nhất, bình đẳng, yêu thương, giúp đỡ nhau như ruột thịt giữa cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới; giữ vững nguyên tắc tập trung, dân chủ, đề cao kỷ luật tự giác nghiêm minh; xây dựng tinh thần quốc tế cao cả, “giúp bạn là mình tự giúp mình”...

Chăm lo xây dựng quân đội theo hướng: Tinh, gọn, mạnh, có sức cơ động cao; bảo đảm cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Điều chỉnh thế bố trí lực lượng phù hợp trên các vùng, miền, nhất là các khu vực trọng điểm về QPAN, vùng biên giới, biển, đảo. Quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, chỉ lệnh về công tác huấn luyện, nhất là Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”; chú trọng diễn tập hiệp đồng quân-binh chủng, diễn tập cơ động và diễn tập khu vực phòng thủ, đáp ứng yêu cầu tác chiến mới, nhất là tác chiến trên biển, đảo. Tập trung nâng cao năng lực tư duy phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình của đội ngũ cán bộ chiến dịch, chiến lược và năng lực tổ chức, chỉ huy, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, tạo bước chuyển biến mới, vững chắc trong công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa, nhất là đối với các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại: Hải quân, Phòng không-Không quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật, Cảnh sát biển, cơ yếu và tác chiến không gian mạng; đẩy nhanh lộ trình thực hiện “từng bước hiện đại” ở các lực lượng khác; đồng thời đặc biệt quan tâm chất lượng, hiệu quả hoạt động tình báo chiến lược của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các lực lượng khác. Tích cực xây dựng, triển khai Đề án “Bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng lục quân đến năm 2020 và những năm tiếp theo” theo hướng hiện đại. Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị, khóa XI “Về đẩy mạnh xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”.

Bốn là, nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới, khu vực, tăng cường hợp tác, đối ngoại quốc phòng với các nước, nhất là các nước láng giềng.

Cùng với chủ trương phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tinh thần độc lập, tự chủ, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và không ngừng tăng cường, củng cố đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, nội lực với ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù, giữ vững nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan, chủ quan, sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã đánh giá không đúng mức về tương quan lực lượng trên thế giới cũng như trong khu vực; chưa thấy hết xu hướng đặt lợi ích quốc gia lên trên sự liên kết về ý thức hệ. Do đó, chúng ta bị bất ngờ, rơi vào thế bị động trước những diễn biến mới của thời cuộc.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đòi hòi chúng ta phải luôn bám sát tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng cục diện thế giới, đề ra đường lối, chính sách phù hợp phục vụ cho chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, phải nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực cũng như mục tiêu, lợi ích, ý đồ chiến lược của từng nước, nhất là các nước lớn; dành ưu tiên cho việc củng cố quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước láng giềng trên ba tầng nấc: Các nước có chung biên giới, các nước trong khu vực Đông Nam Á, các nước châu Á và Thái Bình Dương; đồng thời phải nhận thức sâu sắc quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, không ngừng tăng cường, giữ vững quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.

Để góp phần khẳng định và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, ngăn chặn nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh, cần có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi; quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Trong quan hệ đối ngoại, phải hết sức tỉnh táo, giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược; tích cực chuyển hóa đối tượng thành đối tác, gắn chặt lợi ích đối tác với lợi ích QPAN, bảo vệ chủ quyền đất nước. Thời gian tới, công tác đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác cả trên bình diện song phương và đa phương, toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung vào những lĩnh vực thiết thực, đưa quan hệ, hợp tác quốc phòng đi vào chiều sâu, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với tất cả các nước, nhất là với các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước khu vực ASEAN; tránh xung đột, đối đầu hoặc để bị cô lập, phụ thuộc.

Hiện nay, tình hình biên giới vẫn còn một số tồn đọng phải giải quyết; tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều thách thức. Chúng ta cần tiếp tục nỗ lực quản lý và bảo vệ tốt đường biên, mốc giới; tăng cường hợp tác với các nước láng giềng để hoàn thành việc phân định, cắm mốc biên giới trên bộ, trên biển, xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững; tích cực, chủ động tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển và tiếp tục triển khai các diễn đàn đàm phán để giải quyết các vấn đề trên biển với các nước có liên quan; đấu tranh với những vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền phù hợp với pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, vận động, tổ chức kiều bào Việt Nam cùng tham gia bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, dựa vào luật pháp quốc tế và cơ chế, quy tắc khu vực; sẵn sàng thực hiện quyền tự vệ chính đáng khi chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc bị xâm phạm.

Nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước. Tự hào, biết ơn công lao và sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh, chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc mọi diễn biến của tình hình, xác định rõ đối tượng, đối tác của cách mạng, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng và thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm độc lập, chủ quyền của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đồng thời tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia vì hòa bình, độc lập dân tộc và sự ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng


-------------------

1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2009, tr.317.

2. Báo cáo số 26-QU/TW ngày 22-7-1978, Văn phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ 1022, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam: Bài học cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu

Tin liên quan Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Truông Bồn

Tối 1-11, tại Khu di tích lịch sử quốc gia Truông Bồn, xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, UBND tỉnh Nghệ An và Báo Nhân Dân phối hợp tổ chức …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết

Từ khóa: Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên giới Tây Nam

TT - Quân và dân VN ngày 17-2-1979 buộc phải cầm súng một lần nữa, chiến đấu kiên cường trước quân Trung Quốc đông hơn nhiều lần, trên một phòng tuyến biên giới dài gần 600km.

Không ai quên ngày 17-2Pò Hèn còn mãi khúc caTháng 2 trên đỉnh Pò HènMột ngày xuân bi tráng...

TS NGUYỄN MẠNH HÀ, viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, nguyên đại tá, chính ủy sư đoàn 308 anh hùng, nhiều năm là viện phó Viện Lịch sử quân sự [Bộ Quốc phòng]. Những ngày tháng 2 này, ông chia sẻ với Tuổi Trẻ về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc từ ngày 17-2 đến 5-3-1979.

Phóng to
Một người dân đến thắp hương tri ân các liệt sĩ tại đài tưởng niệm Pò Hèn [Quảng Ninh] tháng 2-2013 - Ảnh: Lê D9ức Dục
Phóng to
Ông Trương Tấn Sang - khi là ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban Bí thư - đến thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Pò Hèn [Quảng Ninh] ngày 26-5-2010 - Ảnh tư liệu

Phóng toTS Nguyễn Mạnh Hà - Ảnh: V.Dũng

* Thưa ông, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra đến nay đã được 34 năm. Ông nói về sự kiện này như thế nào?

- Cuộc chiến tranh biên giới không chỉ bắt đầu từ ngày 17-2-1979, không chỉ bắt đầu sau câu chuyện “nạn kiều” 1978, cũng không chỉ bắt đầu từ những rạn nứt trong quan hệ Việt - Trung sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1975, một chiến thắng mà một số nhà sử học trên thế giới đã cho rằng Trung Quốc không mong muốn. Cũng không phải hoàn toàn như vậy mà nó có gốc rễ sâu xa từ những tính toán trong lợi ích chiến lược của cả Liên Xô và Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu chứ không chỉ với một nước nhỏ như VN.

Lịch sử dân tộc ta có tới 17 cuộc chiến tranh chống xâm lược thì chúng ta đã chiến thắng 14, còn ba cuộc kháng chiến dai dẳng, hàng chục, thậm chí hàng trăm năm chúng ta bị nước ngoài đô hộ nhưng rồi dân tộc ta vẫn chiến thắng.

Có thể trong lịch sử hiện đại, khái niệm biên giới quốc gia không còn được tính bằng các cột mốc nữa mà bằng “biên giới mềm”, “sức mạnh mềm”, bằng sự xuất hiện của hàng hóa, hình ảnh, văn hóa của quốc gia nào đó trên đất nước mình, nhưng tôi vẫn tin là chúng ta sẽ bảo vệ được nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của mình, một khi cả dân tộc kết thành một khối, dưới sự lãnh đạo của Đảng dày dạn kinh nghiệm cả trong chiến tranh và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc

TS NGUYỄN MẠNH HÀ

Sai sót lớn là chúng ta đã nhận ra quá muộn bản chất của chế độ Pol Pot. Năm 1977, đồng chí Lê Trọng Tấn được Quân ủy Trung ương cử vào biên giới Tây Nam nghiên cứu tình hình xung đột biên giới với Campuchia trở về, khi trở ra Hà Nội đã bức xúc khẳng định: “Đây không còn là xung đột nữa. Đây là một cuộc chiến tranh biên giới thật sự”. Lúc đó, chúng ta mới tìm hiểu đằng sau Pol Pot là ai. Là rất nhiều cố vấn nước ngoài từng giúp chúng ta trong cuộc kháng chiến trước đó.

Khi chúng ta tổ chức phản kích, tiến vào giải phóng Phnom Penh ngày 7-1-1979, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh thì đúng 40 ngày sau, Trung Quốc phát động chiến tranh biên giới, với chiêu bài “dạy cho VN một bài học”. Quân chủ lực VN lúc đó đã tăng cường cho chiến trường Campuchia, Trung Quốc hi vọng VN sẽ gục ngã vì bất ngờ.

Quân và dân VN bị buộc phải cầm súng một lần nữa, đã chiến đấu kiên cường trước một đội quân đông hơn nhiều lần, trên một phòng tuyến biên giới dài gần 600km, và đã đánh bật được quân Trung Quốc về bên kia biên giới sau khi làm tổn thất đáng kể sinh lực đối phương.

* Liệu việc bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh có làm chúng ta chịu những thiệt thòi nhất định như những điều kiện đi kèm thường thấy trong các hiệp định mà nước lớn thường áp đặt cho nước nhỏ?

- Cuộc chiến tranh biên giới chính thức kéo dài chỉ 17 ngày, từ 17-2 đến 5-3-1979. Nhưng những cuộc xung đột còn kéo dài đến tận năm 1988. Trong suốt chín năm, một phần đáng kể nhân tài vật lực của chúng ta đã phải dồn cho biên giới phía Bắc, trong khi Mỹ cấm vận, viện trợ của Liên Xô cắt giảm so với trước và Trung Quốc thì từ bạn thành thù. Có thể nói VN đã hao tốn nhiều sức lực vì cuộc chiến biên giới đó. Nếu căng thẳng tiếp tục kéo dài, VN càng ngày càng bất lợi. Chính vì vậy, năm 1988, khi VN chủ động rút quân chủ lực lùi xa biên giới 40km, tình hình biên giới lắng dịu ngay, và đến năm 1991 thì VN và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ sau cuộc gặp giữa lãnh đạo hai nước ở Thành Đô, Trung Quốc.

Là một người nghiên cứu lịch sử, nhưng cũng là một người lính, tôi xin nói thẳng là dù bất cứ hoàn cảnh nào thì hòa bình vẫn là quý giá nhất. Chiến tranh biên giới kết thúc thật sự, chúng ta mới có thể tiếp tục sự nghiệp đổi mới, có những chính sách lâu dài và bền vững để phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống nhân dân, để có một vị thế mới trong bản đồ ngoại giao thế giới như hôm nay.

Nhưng như vậy không có nghĩa là trang sử về chiến tranh biên giới đã khép lại. Lịch sử bản chất là sòng phẳng, khách quan, cái gì đã xảy ra rồi cũng có lúc sẽ được đặt lại trên bàn cân lịch sử để luận định. Chúng ta nhìn lại chiến tranh biên giới, trước hết là để học bài học cho chính mình: cái gì lẽ ra đã có thể tránh được, cái gì cần nhớ để nhắc lại cho thế hệ sau.

Chúng ta cần có những sự vinh danh và tri ân các liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi mà đằng đẵng đó. Chúng ta cũng cần rút kinh nghiệm xương máu từ thực tế lịch sử của dân tộc mình khi hoạch định đường lối đối ngoại trong một thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày, lợi ích các bên đan xen nhau cực kỳ phức tạp. Cần hiểu rõ bạn - thù và phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trước hết và trên hết thì mới có chính sách đúng được.

Mục lục

  • 1 Khái quát
  • 2 Bối cảnh
  • 3 Lực lượng hai bên
    • 3.1 Việt Nam
    • 3.2 Khmer Đỏ
  • 4 Chiến dịch phản công [tháng 12 năm 1978 - tháng 1 năm 1979]
    • 4.1 Đánh chiếm bờ đông sông Mekong
    • 4.2 Đánh chiếm Phnom Penh
    • 4.3 Hướng nam, Sihanoukville
    • 4.4 Kết quả
  • 5 Truy quét tàn quân Khmer Đỏ [tháng 1 năm 1979 - tháng 5 năm 1979]
    • 5.1 Đánh Siem Reap và Battambang
    • 5.2 Khu vực Tây Nam
    • 5.3 Thành lập chính quyền mới tại Campuchia
    • 5.4 Căng thẳng biên giới với Thái Lan
  • 6 Phản ứng quốc tế
  • 7 Giai đoạn bình định lãnh thổ [1980-1989]
    • 7.1 Hoa Kỳ, Trung Quốc và Thái Lan hỗ trợ Khmer Đỏ
    • 7.2 Việt Nam hỗ trợ chính quyền mới và truy quét quân Khmer Đỏ
  • 8 Hoạt động hỗ trợ tại Campuchia của quân tình nguyện Việt Nam
  • 9 Hội nghị Paris về Campuchia
  • 10 Hiệp định Paris về vấn đề tái lập hòa bình tại Campuchia
  • 11 Những xung đột cuối cùng
  • 12 Đánh giá
  • 13 Chú thích
  • 14 Tham khảo
  • 15 Xem thêm

Khái quát

Cuộc chiến có thể chia làm 4 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978: Khmer Đỏ tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, phá hủy nhiều ngôi làng và giết hại hàng ngàn thường dân Việt Nam. Phía Việt Nam chỉ tổ chức phòng ngự và cố đàm phán tìm giải pháp hòa bình, nhưng Khmer Đỏ bác bỏ.
  • Giai đoạn 2: Từ tháng 12 năm 1978 đến tháng 5 năm 1979: Khmer Đỏ tổ chức cuộc tấn công lớn nhất vào lãnh thổ Việt Nam với 19 sư đoàn nhưng bị phía Việt Nam bẻ gãy. Sau cuộc tấn công, Việt Nam thấy không có cơ hội để đàm phán hòa bình nên đã tổ chức tấn công lớn vào Campuchia, lật đổ Khmer Đỏ và lập nên chế độ mới do Heng Samrin đứng đầu. Tàn quân Khmer Đỏ chạy sang ẩn náu bên kia biên giới Thái Lan.
  • Giai đoạn 3: Từ giữa năm 1979 đến cuối năm 1985: Khmer Đỏ với sự trợ giúp về lương thực, vũ khí của Thái Lan, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tổ chức đánh du kích và đe dọa sự tồn tại của chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Năm 1982, Việt Nam rút bớt quân khỏi Campuchia, ngay sau đó Khmer Đỏ hoạt động mạnh trở lại và chiếm một số khu vực. Nhận thấy quân đội Cộng hòa Nhân dân Campuchia còn rất yếu ớt nên không thể tự chống cự được, Việt Nam buộc phải tiếp tục đóng quân tại Campuchia để bảo vệ chế độ Hun Sen và truy quét Khmer Đỏ. Mùa khô 1984 - 1985, cuộc tấn công quyết định của Việt Nam đã phá hủy các căn cứ chính của Khmer Đỏ, khiến Khmer Đỏ suy yếu đi nhiều và không còn đủ sức đe dọa chế độ mới của Campuchia.
  • Giai đoạn 4: Từ 1986 tới 1989: Sau chiến dịch mùa khô năm 1985, nhận thấy chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã tự đứng vững được, từ năm 1986, Việt Nam rút dần quân khỏi Campuchia và đến năm 1989 thì rút hết. Nhân việc Việt Nam rút quân, các lực lượng tàn quân của Khmer Đỏ định tái hoạt động, nhưng bị quân đội Hun Sen đánh bại. Khmer Đỏ dần tan rã, các lãnh đạo bị bắt và bị đưa ra xét xử ở tòa án quốc tế.

Bối cảnh

Bài chi tiết: Xung đột biên giới Việt Nam-Campuchia [1975-1978]

Từ cuối Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Phạm Văn Trà cho biết: năm 1972, nhiều đơn vị của Quân khu 9 sang Campuchia đã bị Khmer Đỏ giết hại. Một bệnh viện của Sư đoàn 1 tại Takéo cũng bị Pol Pot cho phá hủy. Tính 6 tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 [Quân khu Đông Nam của Campuchia] đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Khmer Đỏ gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí.[22]

Từ năm 1970 đến 1973, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và chế độ tay sai ở miền Nam thì Khmer Đỏ đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và binh lính của họ.[23]

Khmer Đỏ tăng cường xâm lấn vùng tây sông Sa Thầy, nam đường 19 thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Đêm 3/1/1976, Khmer Đỏ tràn sang làng Xộp [xã Mo Ray, huyện Sa Thầy] đốt hết nhà cửa, cướp phá tài sản và bắt đi 130 dân làng. Đến tháng 6/1976, Khmer Đỏ tăng cường lực lượng ra sát biên giới, xâm canh lấn đất ở các tỉnh Long An, Bình Phước, Tây Ninh... và thực hiện các hành động khiêu khích như bắn vào đội tuần tra, uy hiếp nhân dân đang đi lại làm ăn gần đường biên, tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn gây sát thương. Do bị Khmer Đỏ truy sát, hàng chục ngàn người Campuchia đã chạy trốn sang Lào, Thái Lan, Việt Nam. Trong 2 năm [1975 - 1976], đã có trên 15.000 người Campuchia chạy sang Việt Nam[24].

Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, 6 ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu.[25][26] Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.[27]

Tiếp theo sau cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập quy mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào đêm 30 tháng 4 năm 1977, quân chính quy Khmer Đỏ sử dụng lực lượng cấp sư đoàn và lực lượng địa phương các tỉnh biên giới, bất ngờ đồng loạt tiến sâu 10km vào lãnh thổ Việt Nam. Khmer Đỏ đánh vào 13 đồn công an vũ trang và 14/16 xã trên dọc tuyến biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Ngay trong đêm 30/4/1977, Sư đoàn 330 của Việt Nam được lệnh cơ động chiến đấu trên biên giới tỉnh An Giang, phối hợp với lực lượng vũ trang An Giang thực hiện nhiều trận đánh phản kích, khôi phục những địa bàn bị Khmer Đỏ chiếm đóng.[28]

Cuộc tấn công lớn thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1977, 9 sư đoàn chủ lực Khmer Đỏ cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công đánh sang các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh. Riêng ở tỉnh Tây Ninh, 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành, đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.[29] Tính từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến tháng 6 năm 1977, quân Khmer Đỏ đã xâm phạm biên giới Việt Nam trên 2.000 lần, sát hại hơn 4.000 người dân.[28] Các cuộc tiến công và pháo kích vào An Giang tính đến ngày 19/5/1977 đã giết hại 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà dân, cướp 134 tấn lúa và nhiều tài sản của nhân dân.[cần dẫn nguồn]

Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công, đánh thiệt hại 5 sư đoàn Khmer Đỏ, đánh vào sâu 20–30km trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Đến thời điểm này Việt Nam vẫn tin rằng ban lãnh đạo Khmer Đỏ chia thành hai phái thân Việt Nam và chống Việt Nam và chưa rõ phái nào sẽ thắng thế[30]. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối. Ngày 31 tháng 12 năm 1977, Pol Pot đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và giao tranh tiếp diễn.

Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu[31] người Việt Nam".[32] Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15–20km.

Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3.157 dân thường bị giết hại, trong đó hơn 100 gia đình bị giết cả nhà. Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới.[33] Tính từ tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, quân Khmer Đỏ đã giết hại hơn 5.230 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt cóc hoặc đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người[cần dẫn nguồn]

Ngày 5/2/1978, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố ba điểm đề nghị 2 bên thương lượng, tránh tiếp tục đổ máu:[cần dẫn nguồn]

  • [1] Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách biên giới 5km;
  • [2] Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, ký hiệp ước về biên giới;
  • [3] Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế.

Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.[34] Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.

Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, hơn 30 vạn thường dân Việt Nam phải tản cư vào sâu trong nội địa, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. Theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Văn Hồng, trong các trận đánh dọc biên giới trong giai đoạn này, ước tính Việt Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người.[14]

Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11/1978, Việt Nam đã giúp lực lượng Campuchia thân Việt Nam phát triển 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo sau khi đánh đổ Khmer Đỏ.

Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn [khoảng 80.000 đến 100.000 quân] tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự [Đồng Tháp], 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi [An Giang], 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng [xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang]. Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.

Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer Đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể tiến lên. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12/1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer Đỏ, bắt sống 5.800 lính khác.[13] Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17.000 quân Khmer Đỏ.[35]

Lực lượng hai bên

Việt Nam

Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là trung tướng Lê Trọng Tấn, lực lượng được huy động bao gồm[36]:

  • Quân khu 5 của thiếu tướng Đoàn Khuê: gồm hai sư đoàn 307, 309 và Lữ đoàn đặc công 198 xuất quân từ căn cứ ở Ou Ya Dav [Rattanakiri] mà Quân khu 5 đã làm chủ được từ tháng 11/1978 đánh dọc theo quốc lộ 78 [Campuchia, nối với đường 19 Việt Nam], quốc lộ 64, quốc lộ 62 về hướng Tây để tiêu diệt quân Khmer Đỏ ở Rattanakiri, Stung Treng, và các tỉnh tây bắc Campuchia giáp Lào và Thái Lan.
  • Quân khu 7 của trung tướng Lê Đức Anh: gồm các sư đoàn 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đoàn công binh 25 quân khu 7 [gồm các tiểu đoàn 739 cầu đường, tiểu đoàn 278 bom mìn, tiểu đoàn 98 xe máy, tiểu đoàn 741 cầu phà], 3 tiểu đoàn Khmer UFNSK. Lực lượng quân khu 7 từ phía bắc Tây Ninh và từ khu căn cứ của UFNSK quanh Snuol tiến quân lên hướng Bắc dọc theo Quốc lộ 13 [Việt Nam] và Quốc lộ 7 [Campuchia] đánh chiếm Kratié [đông bắc Campuchia], vượt sông Mekong ở Sambour đánh vu hồi vào Kampong Cham rồi sang Kampong Thom, Siem Reap, Battambang.
  • Quân đoàn 3 của thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ sung Sư đoàn 302, đánh từ Tây Ninh, vượt qua tỉnh Kampong Cham cũ đến sông Mê Kông và đánh vào Phnom Penh từ phía bắc.
  • Quân đoàn 4 của thiếu tướng Hoàng Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2 [quân khu 5], cùng Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh và 3 tiểu đoàn Khmer của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia [UFNSK] thân Việt Nam, tấn công từ hướng tây và tây nam Tây Ninh, sau khi đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, theo đường 1 qua tỉnh Svay Riêng nhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong để đến Phnom Penh.
  • Quân đoàn 2 do thiếu tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh và thiếu tướng Lê Linh làm chính ủy, gồm các Sư đoàn 304, 325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên [An Giang - Hà Tiên] đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9 đánh về Phnom Penh, chiếm Kampot và vùng duyên hải Đông Nam Campuchia. Sư đoàn 306 mới thành lập không kịp tham gia chiến dịch vì chưa hoàn thành công tác huấn luyện.[37] Từ An Giang, quân Việt Nam chia quân tấn công hai hướng. Hướng thứ nhất theo Quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh về Phnom Penh. Hướng thứ hai tiến theo duyên hải về hướng Tây đánh chiếm hải cảng Kompong Som, Sư đoàn 304 được dùng làm dự bị, có thể được dùng tăng cường trong trường hợp Quân đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
  • Quân khu 9 của thiếu tướng Nguyễn Chánh: gồm các sư đoàn 4, 330, 339 từ khu vực Tịnh Biên tấn công qua tỉnh Takéo, hướng về Phnom Penh.
  • Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn 126 và Lữ đoàn 101 hải quân đánh bộ đổ bộ vào vùng duyên hải đông nam Campuchia để chiếm Ream và cảng Sihanoukville trên bán đảo Kampong Som.
  • Đoàn 901 không quân: gồm Sư đoàn không quân 372 được trang bị máy bay tiêm kích F-5, máy bay cường kích A-37, máy bay trực thăng UH-1, Mi-24, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47 và 1 phân đội[38] MiG-21 từ Trung đoàn 921.
  • Tổng quân số ước tính: 250.000 người, gồm 18 sư đoàn bộ binh, nhiều trung đoàn, lữ đoàn binh chủng và đội địa phương. Về trang bị vũ khí có 600 tăng thiết giáp, hơn 400 khẩu pháo cỡ lớn và 139 máy bay chiến đấu, máy bay vận tải, 10.000 xe ô tô.

Các sư đoàn Việt Nam đều có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo phòng không và một lữ đoàn công binh. Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000 quân UFNSK tham gia chiến dịch, tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là con số phóng đại, chỉ có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến dịch, còn lại đại bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần, phiên dịch...

Để phát huy tối đa hiệu suất chiến đấu, QĐNDVN tái sử dụng lại một số máy bay, xe thiết giáp của Mỹ mà họ tịch thu được trong chiến tranh trước đây [xe thiết giáp M113, máy bay A-37, trực thăng UH-1]. Đồng thời, QĐNDVN đã huy động một số cựu binh quân đội Sài Gòn cũ để vận hành và bảo trì những thiết bị đó; cũng như huy động tối đa lực lượng thanh niên xung phong các tỉnh Nam Bộ làm công tác tải đạn, tản thương và tiếp tế.

Khmer Đỏ

Theo phía Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ gồm có 23 sư đoàn, còn theo tác giả Steven Heder thì quân Khmer Đỏ gồm chừng 15 sư đoàn. Các sư đoàn này được trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung thành đến cuồng tín, nhưng các sư đoàn này cũng đã bị nhiều hao tổn trong những lần giao tranh trước và quân số mỗi sư đoàn chỉ chừng 3.000-5.000 người, bằng một nửa quân số của sư đoàn Việt Nam.

Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902

  • Một số máy bay chiến đấu T-28.
  • Một phân đội MiG-19, số MiG-19 này không kịp tham chiến vì không có phi công và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ chiếm Phnom Penh[39]
  • Một sư đoàn thủy quân lục chiến, nhưng chiến đấu như bộ binh
  • Một sư đoàn hải quân, nhưng hầu hết chiến đấu như bộ binh
  • Một sư đoàn không quân, nhưng chiến đấu như bộ binh.
  • Nhiều đơn vị xe tăng và pháo.

Chiến dịch phản công [tháng 12 năm 1978 - tháng 1 năm 1979]

Tới đầu tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié.[40] Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19.[41] Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia vào ngày 25 tháng 12 năm 1978.

Đánh chiếm bờ đông sông Mekong

Ngày 25 tháng 12 năm 1978 sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 3 tháng 1 năm 1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được thị xã Stung Treng.

Ở hướng của Quân khu 7, Sư đoàn 5 tiến từ hướng đông và Sư đoàn 303 từ Snuol [tỉnh Kratié sát biên giới với Bình Phước] tiến đến hướng tây bắc cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 Khmer Đỏ phòng thủ. Các sư đoàn này gặp phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong cuộc tiến quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33, sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa.[42] Các đơn vị quân Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và suýt chiếm được sở chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, tới ngày 29 tháng 12, thị xã Kratié rơi vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị trấn Chhloung [Kratié] do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4 tháng 1, họ chiếm được Chhloung. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ đông bắc Campuchia ở phía đông sông Mekong coi như bị quân đội Việt Nam kiểm soát.

Ở hướng tấn công của Quân đoàn 3 Việt Nam, sáng ngày 31 tháng 12 được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham [Tboung Khmum hiện nay]. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết. Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.

Trong khi đó, ngày 28 tháng 12, ở phía nam, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công phòng ngừa dọc biên giới. Quân Khmer Đỏ tiêu diệt một số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Cuộc tấn công này làm cho tình hình Quân đoàn 2 của tướng Nguyễn Hữu An trở nên rất khó khăn. Quân Khmer Đỏ đã chiếm được khu vực đầu cầu mà Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9 định dùng để tiến vào Campuchia, đồng thời giành được một chiến lũy tự nhiên cản đường tiến của quân Việt Nam. Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo.

Tại hướng chủ yếu Tây Ninh, sau ba ngày tấn công, với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp... Quân đoàn 4 Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về Campuchia thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So. Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm[43] bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer Đỏ ở Don So. Tuy nhiên sau hai ngày giao chiến với nhiều tổn thất, Sư đoàn 7 vẫn chưa chọc thủng được tuyến phòng phủ của Khmer Đỏ. Tới đêm ngày 1 tháng 1, tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận. Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị thua ở Tây Ninh, quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ có hỏa lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan rã. Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.

Tới ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.

Đánh chiếm Phnom Penh

Ngày 6 tháng 1, Quân đoàn 4 và Quân đoàn 3 Việt Nam gồm 9 sư đoàn làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam qua phà Neak Luong và từ phía Bắc qua ngả Kampong Cham.

Ở cánh phía nam, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 của Quân đoàn 4 là mũi chủ công tiến theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 được 1 tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Khmer Đỏ trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà. Ngày 7 tháng 1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào.

Ở cánh phía bắc, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh quyết liệt với quân Khmer Đỏ ở Kampong Cham để vượt sông Mekong. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối bắn trùm lên mặt sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn một chút, quân Khmer Đỏ bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm và 155mm để bắn vào quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong. Đêm ngày 5 tháng 1, một toán quân gồm lính trinh sát, công binh và bộ binh định vượt qua bờ sông chiếm một đầu cầu nhỏ, nhưng quân Khmer Đỏ đánh bật họ lại. Tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Mặc dù rất nhiều thuyền bị trúng đạn của quân Khmer Đỏ, Quân đoàn 3 cuối cùng cũng đã thiết lập được một đầu cầu. Một đại đội xe lội nước vượt sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; 2 tiểu đoàn bộ binh cũng vượt được sông, đến 8:30 sáng hôm sau, Kampong Cham thất thủ. Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh.[44] Tuy nhiên Quân đoàn 3 đã không kịp chặn đường Chính phủ Polpot rút chạy khỏi Phnom Penh.

Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ máy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua mặt trận ngược về phía Việt Nam để tập hợp tàn quân của các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và Khieu Samphan được vài xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat. Ieng Sary chạy về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài trăm nhân viên Bộ ngoại giao. Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng hàng ngàn nhân viên không được thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tán Phnom Penh bị tắc nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. Như vậy với việc ban lãnh đạo sơ tán, khoảng 40 ngàn dân chúng và binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị phòng thủ các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc tự thân vận động.[45]

Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chhnang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược[46] mà họ không kịp mang theo.

Ngày 8 tháng 1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.

Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống cự đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap.

Hướng nam, Sihanoukville

Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3 tháng 1 năm 1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5 tháng 1 năm 1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa biên giới và Chhuk. Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có thể đánh tan tuyến phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.

Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các quân xa của Việt Nam gồm xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ phục kích phá hủy một số xe và pháo, sở chỉ huy của tướng An cũng bị tổn thất và tạm thời mất liên lạc với các lực lượng còn ở phía sau. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3, và trong quá trình tiến công đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.

Trong hai ngày 4, 5 tháng 1 năm 1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ, hai tàu khu trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.

Sẩm tối ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các tàu tuần tiễu loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream và các bến cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao chiến trên biển, do có ưu thế về số lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt Nam cũng bị trúng đạn, khiến nhiều thủy thủ bị thương vong.[47] Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16 tháng 1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.

Tối ngày 7 tháng 1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville. Lữ đoàn đổ bộ được toàn bộ 3 tiểu đoàn và số xe lội nước, xe bọc thép, nhưng do thủy triều lên cao, không có đủ chỗ triển khai đội hình, nên không đổ bộ được số xe tải, và đến tối, 3 tiểu đoàn nữa theo dự định cũng sẽ đổ bộ lại phải rút ra ngoài.

Theo kế hoạch, lực lượng Hải quân đánh bộ phải triển khai một lực lượng lớn, theo vùng ven biển đánh chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng và giao điểm Veal Renh dẫn về bán đảo Kampong Som. Tuy nhiên, một chỉ huy lực lượng lính thủy đánh bộ do nóng vội, đã tập hợp tiểu đoàn của mình, chở trên 12 xe tăng và xe bọc thép tiến về Sihanoukville trước khi trời sáng. Đơn vị này bị một lực lượng lớn Khmer Đỏ vây đánh từ chiều, qua đêm đến suốt ngày hôm sau và cuối cùng bị tiêu diệt gần như hoàn toàn. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải quân mới đổ bộ thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 101 lên bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới lên bờ được.

Sư đoàn 304 vốn được dùng làm dự bị để tham gia đánh về Phnom Penh, nhưng do Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom Penh từ ngày 7 tháng 1, nên tướng An dùng sư đoàn này để nhanh chóng giải cứu lực lượng lính thủy đánh bộ và đánh chiếm Sihanoukville. Dẫn đầu bởi một đơn vị xe M-113, Trung đoàn 66 của sư đoàn, kế tiếp là Trung đoàn 9 hành quân suốt đêm ngày 9.

Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân đánh bộ, chuẩn bị giao chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66 tổ chức chiếm cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải quân đánh bộ đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230 Campuchia, quân Việt Nam chiếm được Kampot. Trung đoàn 9 không đến kịp vì một cây cầu sụp đổ khi xe tăng dẫn đầu trung đoàn đi qua. Khi Trung đoàn 9 và Lữ đoàn xe tăng 203 đến thành phố thì Kampot đã rơi vào tay quân Việt Nam, nên lực lượng này được đưa đi đánh quân cảng Ream. Được sự trợ lực của pháo hải quân bắn từ bến cảng lên, cánh quân này chiếm được quân cảng Ream và hải cảng Kampong Som. Tuy nhiên, quân Khmer Đỏ phản công chiếm lại Kampong Som ngày 14 tháng 1, nhưng quân Việt Nam tái chiếm lại vào ngày hôm sau.

Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.

Kết quả

Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công của Việt Nam kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17 tháng 1 thị xã cuối cùng là Koh Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Từ ngày 23/12/1978 đến 17/1/1979, quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn Khmer Đỏ [diệt 12.000 lính, bắt 8.800 lính, gọi hàng 3.200 lính và làm tan rã tại chỗ 44.000 lính]; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật quân sự, đập tan bộ máy chính trị của Khmer Đỏ từ trung ương đến cơ sở.[cần dẫn nguồn]

Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu, gây ra nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia.

Video liên quan

Chủ Đề