Bài học của câu chuyện vắt có chày ra nước

Cùng Top lời giảitrả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản Vắt cổ chày ra nước?”và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Ngữ văn 10.

Trả lời câu hỏi: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản Vắt cổ chày ra nước?

- Phương thức biểu đạt trong văn bản Vắt cổ chày ra nước là: Tự sự.

Kiến thức tham khảo và mở rộng về Tự sự và tác phẩm Vắt cổ chày ra nước

1. Tác phẩm Vắt cổ chày ra nước

Một hôm, chủ nhà bảo anh đầy tớ về quê có việc, người đầy tớ xin mấy đồng tiền để uống nước dọc đường. Chủ nhà ngâm nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Thằng này ngôc thật, hai bên đường thiếu gì ao hồ. Khát nước thì xuống đó mà uống, tìm vào quán xá cho nó phiền phức.

- Thưa ông, độ này trời đang cạn, ao hồ ruộng nương cạn khô hết cả.

- Thế thì tạo cho mày mượn cái này!

Nói rồi đưa cho anh đây tớ cải khố tải. Người này chưa hiều ra sao, thì chủ nhà đã giải thích luôn cho biết ý tứ: Vận vào người, khi khát vặn ra mà uống.

Người đầy tớ liền thưa:

- Dạ, trời nóng thế này vận khổ tải ngối lắm! Hay là ông cho tôi mượn cái chày giã cua vậy.

- Để mày làm gì chứ?

- Dạ, vắt cô chày ra nước ạ!

[Vắt cô chày ra nước, Tinh hoa văn học dân gian người Việt- Truyện cười, NXB Khoa học xã hội, 2009, tr.119-120]

2. Phương thức Tự sự

- Tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.

- Có thể hiểu, tự sự là văn bản kết nối các ý tưởng, khái niệm hoặc sự kiện, trình bày cho người đọc hoặc người nghe bằng một chuỗi câu viết hoặc nói, hoặc một chuỗi hình ảnh.

- Tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Cốt truyện được khắc họa nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, bao gồm chi tiết sự kiện, xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách, chi tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống, văn hóa, lịch sử; lại còn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được.

- Tự sự có thể được sử dụng như một từ đồng nghĩa của "tường thuật". Nó cũng có thể được sử dụng để dẫn dắt chuỗi các sự kiện được mô tả trong một câu chuyện. Tự sự cũng có thể được lồng vào trong những tự sự khác, chẳn hạn như một câu chuyện được kể bởi nhữngngười kể chuyện không đáng tin cậythường được tìm thấy trong các thể loạihư cấu noir. Một phần quan trọng của tự sự làchế độ tường thuật, tập hợp các phương pháp được sử dụng để giao tiếp tự sự thông qua một quá trình tường thuật.

- Cùng vớithuyết minh,nghị luậnvàmiêu tả, tự sự, theo nghĩa rộng, là một trong bốnchế độ tu từcủa bài luận. Theo nghĩa hẹp hơn, nó là mộtlối viết trong tác phẩm hư cấu, theo đóngười kể chuyệngiao tiếp trực tiếp với người đọc.

- Cấu trúc của một bài văn tự sự gồm ba phần:

+ Mở bài: Giớithiệu nhân vật và sự việc chính của câu chuyện.

+ Thân bài: Diễn biến sự việc theo một trình tự nhất định, thể hiện được tư tưởng mà người kể muốn biểu đạt.

+ Kết bài: Kết thúc câu chuyện, thái độ của người kể.

- Miêu tả bên ngoài: Ngoài hình nhân vật, miêu tả cảnh vật.

- Miêu tả nội tâm nhân vật: Diễn tả tâm tư tình cảm, cảm xúc…

- Biểu cảm: Phương thức này sẽ giúp cho nội tâm nhân vật được thể hiện rõ ràng hơn.

- Lập luận: Thể hiện thông qua các cuộc đối thoại giữa các nhân vật hay độc thoại nội tâm. Chính hình thức này sẽ giúp câu chuyện mà bạn kể thêm phần triết lí sâu sắc.

3. Câu chuyện thực tế của Vắt cổ chày ra nước

- Đáp án chính xác cho câu hỏi này là "Vắt cổ chày ra nước", ý châm biếm những người keo kiệt, bủn xỉn. Sự kiệt sỉ được diễn tả qua hành động "vắt cổ chày" - tức là khối gỗ dùng để giã, vốn không thể ra nước được. Hành động cố vắt nước ở cổ chày cho thấy sự keo kiệt, bủn xỉn đến cùng cực.

- Khoảnh khắc hài hước này đã trở thành "câu trả lờikinh điển" trên sóng truyền hình suốt nhiều năm qua và thỉnh thoảng lại được khán giả chia sẻ lại.

- Các chương trình, cuộc thi trí tuệ trên sóng truyền hình vẫn thường lựa chọn những thành ngữ, tục ngữ như một đề tài hấp dẫn. Tuy nhiên không phải ai cũng thông thuộc vốn thành ngữ, tục ngữ.

- Một cô gái khi đứng trước ống kính máy quay, nhiều áp lực, bối rối đã gặp sự cố cười ra nước mắt khi được hỏi về một cây thành ngữ tưởng chừng rất quen thuộc. Cụ thể trong chương trìnhĐối mặt[phát sóng trên VTV3 cách đây 10 năm], một người chơi tên Hương nhận được câu hỏi từ MC Quang Minh:"Để chỉ những người keo kiệt, có câu thành ngữ "vắt cổ... ra nước", đó là câu thành ngữ với chữ cái gợi ý đầu tiên là chữ Ch".

- Khoảnh khắc hài hước này đã trở thành "câu trả lời kinh điển" trên sóng truyền hình suốt nhiều năm qua và thỉnh thoảng lại được khán giả chia sẻ lại.

- Sau một hồi suy nghĩ, cô gái tên Hương đưa ra đáp án "Vắt cổ chim ra nước" khiến cả MC và khán giả phải bật cười. Thực tế cũng có thể hiểu cho áp lực của thí sinh khi ấy, vừa bị giới hạn thời gian vừa áp lực trước ống kính truyền hình.

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcMở đầu1. Lý do chọn đề tài.1.1. Nghiên cứu văn bản dưới góc độ ngôn ngữ, Trong cuốn Văn bản vàliên kết trong văn bản, tác giả L.Hjelmslev [nhà ngôn ngữ học Đan Mạch] đãviết: Cái duy nhất đến với người nghiên cứu ngôn ngữ với tư cách khởi điểm []đó là văn bản trong tính hoàn chỉnh tuyệt đối và không tách rời của nó[4,Trang5].Nếu ở lĩnh vực Ngữ pháp văn bản, văn bản được nghiên cứu như một sảnphẩm đã hình thành thì ở lĩnh vực Phong cách học văn bản, văn bản được nghiêncứu với tư cách là một phương tiện ngôn ngữ, được sử dụng nhằm mục đích tu từ.Tác giả Đinh Trọng Lạc đã khẳng định: Văn bản với tư cách là sản phẩm của hoạtđộng lời nói, không phải là một chuỗi câu hoặc đoạn văn được tạo lập ra một cáchtuỳ tiện mà là một thể thống nhất toàn vẹn được xây dựng theo những quy tắc nhấtđịnh.[5,trang7]Dựa vào những cách thức phối hợp cách sử dụng các mảnh đoạn của vănbản, căn cứ vào tính chất của kiểu quan hệ tồn tại giữa các bộ phận văn bản,tác giả Đinh Trọng Lạc đưa ra ba biện pháp tu từ văn bản: biện pháp quy định;biện pháp hòa hợp; biện pháp tương phản.Việc nghiên cứu lý thuyết chung về văn bản ở góc độ phong cách học làmột điều rất mới mẻ mà tác giả Đinh Trọng Lạc là người đặt nền móng chomột chuyên ngành khoa học ngôn ngữ mới và đầy triển vọng. Chính vì vậy,trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi xin được vận dụng lý thuyết phongcách học văn bản của tác giả Đinh Trọng Lạc để đi sâu tìm hiểu hiệu quả nghệthuật của việc sử dụng biện pháp tu từ quy định trong truyện cười dân gianViệt Nam. Chúng tôi hy vọng khóa luận này sẽ đóng góp một phần nhỏ vàoviệc tìm hiểu và khẳng định một vấn đề lý thuyết về phong cách học.1.2. Tìm hiểu các tác phẩm được giảng dạy tại trường phổ thông, chúngtôi thấy rằng: truyện cười dân gian Việt Nam chiếm một vị trí quan trọngLưu Xuân Bình - K29G1Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họctrong bộ phận Văn học dân gian Việt Nam. Thể loại văn học dân gian này đãđược đưa vào trong chương trình giảng dạy ở phổ thông từ rất lâu.Truyện cười dân gian Việt Nam dù có yếu tố thanh hay tục, dù chỉ là nhằmmục đích gây cười - giả trí hay mang mầu sắc xã hội với nội dung triết lý, giáodục thì đều là những tác phẩm văn chương có giá trị thể hiện ý thức có thẩmmỹ của cộng đồng, đậm đà bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của cả mộtdân tộc. Mặt khác, truyện cười còn là những tác phẩm văn học đặc sắc về nghệthuật. Làm nên sự thành công của truyện cười và để lại ấn tượng sâu sắc tronglòng người đọc chính là việc tác giả dân gian đã sử dụng thành công biện phápquy định.Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đềtài Hiệu quả của biện pháp quy định trong Truyện cười dân gian ViệtNam đề góp phần tìm hiểu sâu hơn về thể loại truyện cười, đồng thời thấyđược tác dụng to lớn của biện pháp quy định đối với truyện cười dân gian ViệtNam. Kết quả của quá trình nghiên cứu còn là nguồn tư liệu cần thiết trongquá trình giảng dạy và công tác sau này của bản thân.2. Lịch sử vấn đề.2.1. Nghiên cứu từ góc độ văn học.Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau và dướinhiều góc độ đối với thể loại truyện cười.2.1.1. Trong phần Lời nói đầu của cuốn sách Tiếng cười dân gian ViệtNam, hai tác giả Trương Chính và Phong Châu căn cứ vào tính chất phê phánđã chia đối tượng của tiếng cười làm hai loại. Một loại dựa vào tính cách đểphản ánh [như: lười biếng, tham ăn, hà tiện...], còn mội loại dựa vào những cánhân trong xã hội để phản ánh [vua quan, thầy đồ, thầy nho...].Hai tác giả đã phân tích những thủ pháp gây cười được sử dụng trongtruyện cười dân gian như: thủ pháp chơi chữ [dựa vào hiện tượng đồng âm, dịnghĩa; những từ nhiều nghĩa; nói lái; triết tự chữ Hán...]; nghệ thuật cườngLưu Xuân Bình - K29G2Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcđiệu; cách diễn đạt chân lý dưới hình thức nghịch lý, trái với logic. Đặc biệt,khi đề cập tới nghệ thuật của truyện cười, hai tác giả Trương Chính và PhongChâu đã nhấn mạnh tới hai biện pháp gây cười chủ yếu là: sự phóng đại và yếutố kịch tính. Phóng đại ở truyện cười là sự cường điệu tâm lý, tâm trạng, thóihư, tật xấu của nhân vật còn kịch tính trong mỗi câu chuyện hài là sự thay đổiđột ngột của hoàn cảnh.Như vậy, truyện cười dân gian Việt Nam đã được hai nhà nghiên cứuTrương Chính và Phong Châu đề cập tới ở những khía cạnh cơ bản nhất. Đâylà những cơ sở quan trọng cho chúng tôi tìm hiểu thể loại văn học dân gianViệt Nam đặc sắc này.2.1.2. Tác giả Đinh Gia Khánh trong cuốn giáo trình Văn học dân gianViệt Nam cũng đã nghiên cứu truyện cười trên nhiều phương diện khác nhau.Giáo sư Đinh Gia Khánh cũng chia Truyện cười thành hai loại: Truyện khôihài và Truyện trào phúng. Tác giả đã đề cập tới giá trị nghệ thuật cũng như giátrị nội dung của thể loại này. Về kết cấu, truyện cười thường ngắn gọn, khôngmiêu tả dài dòng, mỗi truyện thường là một vở hài kịch nhỏ có đầy đủ các cấpđộ xung đột của kịch. Ngôn ngữ của truyện cười ngắn gọn và rất sắc. Ngônngữ của nhân vật thường gây ra yếu tố bất ngờ ở cuối truyện. Đối tượng phảnánh của truyện cười chủ yếu là tầng lớp giai cấp thống trị như vua chúa, quanlại... Ngoài ra truyện cười còn tập trung phản ánh những thói hư, tật xấu như:tham ăn, lười biếng, dốt nát của người dân lao động.2.1.3. Ngoài hai công trình tiêu biểu vừa nêu, truyện cười dân gian ViệtNam còn được đề cập ở một số tài liệu khác như:- Nguyễn An Tiêm, Cái hài mua vui giải trí trong Truyện cười dân gianViệt Nam , Tạp chí Văn hóa dân gian, 96[1],tr.31-34.- Huỳnh Công Tín, Cái hài dân gian Bắc bộ - Nam bộ, Tạp chí Văn hóadân gian ,2002[5],tr.60-64.Lưu Xuân Bình - K29G3Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcNhìn chung, các tác giả đã chú ý nghiên cứu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữtrong truyện cười, các thủ pháp chơi chữ, biện pháp quy định cũng đã được đềcập và xem xét nhưng chưa cụ thể và chưa thành hệ thống.Chính vì vậy, những kết quả nghiên cứu đã nêu sẽ là những định hướng vôcùng quý giá giúp cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu truyện cười, đặc biệt là nghệthuật sử dụng ngôn ngữ.2.2. Nghiên cứu từ góc độ Ngôn ngữ học.ở góc độ ngôn ngữ, Giáo sư Đinh Trọng Lạc là người đầu tiên tìm hiểubiện pháp tu từ văn bản. Có thể coi ông là người đặt viên gạch đầu cho việcxây dựng nền móng nghiên cứu các biện pháp tu từ văn bản.Trong Tạp chí Ngôn ngữ, với bài Vấn đề xác định, phân loại và miêu tảcác phương tiện tu từ và các biện pháp tu từ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã đưara sự phân biệt của mình về biện pháp tu từ và phương tiện tu từ xét ở góc độvăn bản. Giáo sư Đinh Trọng Lạc đã định nghĩa: Biện pháp tu từ văn bản lànhững cách phối hợp nội dung các mảnh đoạn của văn bản có khả năng đemlại hiệu quả tu từ có sự tác động qua lại các mảnh đoạn này với nhau[18,Trang46]. Dựa trên kiểu quan hệ của các mảnh đoạn văn bản, tác giả đưara ba kiểu quan hệ: quan hệ quy định; quan hệ hòa hợp; quan hệ tương phản.Như vậy quan hệ quy định là một trong những biện pháp tu từ văn bản, có tácdụng chi phối điệu tính tu từ của đoạn văn chứa đựng biện pháp này.2.2.2. Biện pháp quy định còn được Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Trọng Lạc đềcập tới trong một số cuốn sách khác như:- Đinh Trọng Lạc [1994], Phong cách học văn bản, Nxb Giáo Dục, HàNội.- Đinh Trọng Lạc [1997], Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, HàNội.- Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa [1999], Phong cách học Tiếng Việt,Nxb Giáo Dục, Hà Nội.Lưu Xuân Bình - K29G4Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcQua việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ ĐinhTrọng Lạc, chúng ta không thể phủ nhận vai trò cũng như đóng góp quantrọng của tác giả đối với vấn đề lý thuyết của biện pháp quy định2.2.3. Qua khảo sát chúng tôi thấy đã có một khóa luận tốt nghiệp đi sâunghiên cứu về biện pháp quy định. Đó là khóa luận: Tìm hiểu hiệu quả nghệthuật của việc sử dụng biện pháp quy định trong truyện ngắn Nam Caocủa tác giả Nguyễn Thị Yên - Sinh viên K24H - Ngữ văn - ĐHSPHN 2.Nghiên cứu về truyện cười, cô giáo Thạc sỹ Lê Kim Nhung có bài viết: Tìmhiểu nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Việt Nam-Báo cáo khoahọc tại Hội thảo Ngữ học trẻ Xuân 2007.Xuất phát từ thực tiễn khoa học và thực tế của công trình đã nghiên cứu vềbiện pháp tu từ quy định, chúng tôi nhận thấy: phần lớn những bài nghiên cứutrên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát lý thuyết, mang tính chấtkhám phá minh họa trong khuôn khổ của một giáo trình đại học hoặc là mộtbài nghiên cứu. Cho đến nay, trong số các tài liệu mà chúng tôi có được, chưacó tài liệu nào trùng tên với đề tài khóa luận này.Trên nền tảng lý thuyết của tác giả Đinh Trọng Lạc và dựa vào sự phântích những kết quả ngữ liệu thống kê từ kho tàng truyện cười Việt Nam, chúngtôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Hiệu quả của biện pháp quy định trongTruyện cười dân gian Việt Nam. Khóa luận này sẽ đi sâu tìm hiểu biện phápquy định trong truyện cười dân gian Việt Nam một cách cụ thể. Đồng thời gópphần khẳng định hơn những tiền đề lý thuyết của các nhà nghiên cứu ngônngữ học đã mở đường.3. Mục đích và nhiệm vụ.3.1. Mục đích.Nghiên cứu đề tài: Hiệu quả của biện pháp quy định trong Truyện cườidân gian Việt Nam, chúng tôi nhằm khám phá ra một khía cạnh mới mẻ vềLưu Xuân Bình - K29G5Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcgiá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật trong truyện cười dân gian ViệtNam từ góc độ phong cách học.Trên cơ sở những nhận xét cơ bản bước đầu được rút ra, chúng tôi hy vọngđược khẳng định thêm vai trò của biện pháp quy định trong tác phẩm Văn họcdân gian. Đồng thời góp phần củng cố lý thuyết về phong cách học văn bản.Qua đó nâng cao hơn nữa những hiểu biết về truyện cười dân gian Việt Nam.Những kiến thức được tập hợp trong khóa luận này cũng sẽ là nguồn tư liệucho quá trình giảng dạy sau này của bản thân.3.2. Nhiệm vụ.- Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.- Khảo sát, thống kê những trường hợp có sử dụng biện pháp quy địnhtrong các truyện cười dân gian Việt Nam.- Vận dụng phương pháp phân tích phong cách học văn bản để chỉ ra hiệuquả nghệ thuật của biện pháp quy định trong những tác phẩm tiêu biểu củatruyện cười dân gian Việt Nam.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.4.1. Đối tượng nghiên cứu:Hiệu quả của biện pháp quy định trong truyện cười dân gian Việt Nam.4.2. Phạm vi nghiên cứu:Khảo sát biện pháp quy định qua 233 truyện cười dân gian Việt Namtrong hai cuốn:- Tiếng cười dân gian Việt Nam [Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997]của Trương Chính và Phong Châu- Truyện tiếu lâm Việt Nam [Nxb Văn học, Hà Nội, 2005] của Lê HồngPhong.5. Phương pháp phân tích:- Khảo sát thống kê, phân loại các trường hợp có sử dụng biện pháp quy định.- Phân tích ví dụ minh họa tiêu biểu rồi rút ra kết luận chung.Lưu Xuân Bình - K29G6Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcPhần nội dung1.Cơ sở lý luận.1.1. Một số khái niệm cơ bản.1.1.1. Theo tác Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Trọng Lạc, biện pháp tu từ là nhữngcách thức phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ[không kể là trung hòa diễn cảm] để tạo ra hiệu quả tu từ [tức là tác dụng gợi hình,gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật...] do sự tác động qua lại giữa các yếu tố trongmột ngữ cảnh rộng] [1,Trang61].Như vậy biện pháp tu từ có thể coi là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệttrong hoàn cảnh cụ thể, nhằm một mục đích tu từ nhất định. Nó đối lập với biệnpháp sử dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh nhằm mục đích diễn đạtlý trí.Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được phối hợp sửdụng, biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng; biện pháp tu từ ngữnghĩa; biện pháp tu từ cú pháp; biện pháp tu từ văn bản.1.1.2. Tác giả Đinh Trọng Lạc cũng cho rằng Biện pháp tu từ văn bản lànhững cách sử dụng phối hợp các bộ phận của văn bản để tạo ra hiệu quả tu từ dosự tác động qua lại các bộ phận của văn bản với nhau [2,Trang207]. Dựa vào tínhchất của kiểu quan hệ tồn tại giữa các bộ phận của văn bản biện pháp tu từ văn bảnđược chia thành: biện pháp quy định, biện pháp hòa hợp, biện pháp tương phản.1.1.3. Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ văn bản, tác giảĐinh Trọng Lạc đã đưa ra khái niệm về biện pháp quy định như sau: Biện pháp tutừ văn bản thuộc kiêu quy định là biện pháp trong đó mảnh đoạn được đánh dấu vềtu từ học xác định điệu tính tu từ của toàn văn bản. Mảnh đoạn này thường ở các vịtrí mạnh: vị trí mở đầu hoặc vị trí kết thúc.[32,Trang207]1.2. Những đặc trưng cơ bản của Truyện cười dân gian Việt Nam.1.2.1.Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học truyện cười dân gian đượcđịnh nghĩa như sau: Truyện cười dân gian là một thể loại văn học dân gian chứaLưu Xuân Bình - K29G7Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcđựng cái hài, dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phêphán, châm biếm, đả kích cái xấu xa và mua vui giải trí [16,Trang369].1.2.2. Truyện cười dân gian chia thành hai loại: truyện cười kết chuỗi vàTruyện cười không kết chuỗi. Trong truyện cười không kết chuỗi lại gồm các kiểuloại khác nhau: truyện khôi hài, truyện trào phúng và truyện tiếu lâm. Phạm vinghiên cứu của đề tài sẽ bao gồm cả: Truyện cười kết chuỗi và Truyện cười khôngkết chuỗi. Như vậy, trong truyện cười, biện pháp tu từ học văn bản thuộc kiểu quyđịnh chính là những mảng đoạn văn bản, những chi tiết nghệ thuật có tác dụng hàihước, gây cười hoặc để thực hiện chức năng phê phán, châm biếm. Ngoài tác dụnggây cười và phê phán, các biện pháp này còn có chức năng khái quát hóa nội dung,quy định giọng kể và định hướng cách hiểu tác phẩm.Trên cơ sở lý luận đã trình bày, căn cứ vào chức năng của biện pháp quy địnhđối với toàn văn bản, chúng tôi tìm hiểu hiệu quả của biện pháp tu từ quy định quaviệc khảo sát các truyện cười dân gian Việt Nam được sưu tầm trong các cuốn sáchđã nêu ở mục 4.2 [Phạm vi nghiên cứu.]2. Kết quả khảo sát - thống kê - phân loại:Qua khảo sát, chúng tôi thu được 256 phiếu từ 233 truyện cười dân gian ViệtNam trong hai cuốn: Tiếng cười dân gian Việt Nam,Trương Chính và PhongChâu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, [1997] và Truyện tiếu lâm Việt Nam,Lê Hồng Phong, Nxb Văn học, Hà Nội, [ 2002].Căn cứ vào cấu tạo và điệu tính tu từ học của biện pháp quy định đối vớitoàn văn bản, chúng tôi phân loại thành bốn phương thức biểu hiện chính củabiện pháp quy định trong truyện cười đó là:- Biện pháp quy định là một hàm ẩn.- Biện pháp quy định là một chi tiết, một phát ngôn thể hiện trí tuệ, tàinăng của con người.- Biện pháp quy định là sự chờ đợi hụt hẫng, bất ngờ.- Biện pháp quy định được thể hiện bằng thủ pháp chơi chữ.Lưu Xuân Bình - K29G8Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcở mỗi phương thức biểu hiện, căn cứ vào chức năng, đặc điểm cấu tạo màchia thành các tiểu loại nhỏ hơn. Kết quả cụ thể được chúng tôi thể hiện ởbảng phân loại sau:Kết quả thống kê:STTSốTỷ lệphiếu[%]51,96525,4176,6trí tuệ tài năng của 2. Yếu tố quy định là một kết thúc tốtcon người.41,6Biện pháp quy định 1. Sự chờ đợi hụt hẫng là một kết luận135,19537,2Biện pháp quy định 1.Chơi chữ dựa vào các phương tiện4617,9được thể hiện bằng ngôn ngữ được sử dung trên văn bản.thủ pháp chơi chữ2.Chơi chữ dựa vào tiền giả định là114,3256100Biện phápTiểu loại1.Hàm ẩn thể hiện qua những yếu tố1Biện pháp quy địnhlà một hàm ẩndư thừa, cố tình.2.Hàm ẩn thể hiện qua những câunói, lời nhận xét mang màu sắc triếtlý, đa nghĩa.Biện pháp quy định 1.Yếu tố quy định là một hành động2là một chi tiết, một hoặc phát ngôn thể hiện trí tuệ, tàiphát ngôn thể hiện năng.đẹp, có hậu.là sự chờ đợi hụt vô lý của lập luận.3hẫng, bất ngờ.2.Sự chờ đợi hụt hẫng là một chi tiếtbất ngờ, hài hước, trái ngược với dựđoán.4các dữ liệu văn học, văn hóa.Tổng cộngLưu Xuân Bình - K29G9Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại học3. Phân tích kết quả thống kê:3.1. Biện pháp quy định là một hàm ẩn:Theo Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Hữu Châu, hàm ẩn là ý nghĩa mà nó phảidùng đến cái thao tác suy ý, dựa vào ngữ cảnh và các quy tắc điểu khiển hànhvi ngôn ngữ, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại... mới nắm bắt được[6,Trang359].Như vậy, nói một cách dễ hiểu, hàm ẩn chính là sự mơ hồ không rõràng về ý nghĩa. Trong truyện cười, theo hai tác giả Trương Chính và PhongChâu thường thường yếu tố hài hước không được bộc lộ ra mà ẩn giấu ở chỗthầm kín của hiện thực... phải đặt đối tượng vào những hoàn cảnh ngộ nghĩnh,oái oăm, bắt nó làm trò cười[7,Trang23].Tìm hiểu truyện cười dân gian Việt Nam, chúng tôi thống kê được 70phiếu [~ 27,3%] có nội dung chứa đựng yếu tố hàm ẩn. Tính chất hàm ẩnkhông chỉ xuất hiện ở truyện khôi hài mà còn cả ở những truyện trào phúng.Căn cứ vào nội dung của hàm ẩn, chúng tôi chia yếu tố hàm ẩn trong truyệncười thành một số tiểu loại sau:3.1.1. Hàm ẩn thể hiện qua những yếu tố dư thừa, cố tình tạo ratrong phát ngôn.Một phát ngôn được coi là bình thường nếu như người đưa ra phát ngônvà người nhận phát ngôn đều hiểu được nội dung thông tin đó. Tuy nhiên,trong thực tế có rất nhiều lúc chúng ta bắt gặp những phát ngôn thừa lượng tin,gây khó khăn cho người nhận phát ngôn. Điều đáng nói là lượng tin thừa nàylại do chính người đưa ra phát ngôn cố tình tạo nên. Truyện Lợn cưới, áomới là một ví dụ như vậy.Nhân vật chính của truyện là hai anh chàng có tính hay khoe của. Mộtanh thì vừa may được cái áo mới, anh láng giềng thì nhà vừa có một con lợnLưu Xuân Bình - K29G10Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcchuẩn bị làm cỗ cưới. Sẵn tính hay khoe của, anh áo mới liền đứng ngaycổng nhà mình đợi mọi người đi qua để khoe. Anh đợi mãi mà chẳng được aiđể ý tới.Đang rất bực mình thì anh áo mới lại gặp được người hàng xóm cũng cótính hay khoe chạy tới hỏi: Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đâykhông ?. Người mặc áo mới ngay lập tức giơ vạt áo của mình ra và nói: Từlúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây. Nghecâu nói này, người ngoài cuộc không thể không bật cười. Cuộc đối thoại củahai anh nông dân vừa hài hước, vừa lố bịch, bởi nó chứa đựng những hàm ẩnsâu xa.Chúng ta không cần biết trước đó hai anh là người thế nào nhưng thôngtin thừa ở câu nói của họ đã cho thấy họ là người có tính khoe khoang, hợmmình. Thông tin lợn cưới, áo mới không phù hợp trong ngữ cảnh bởi đặcđiểm để nhận diện con lợn phải là đặc điểm hình thức [lợn ỉn, lợn nái, lợnkhoang...] chứ không phải là chức năng dùng để cưới. Tương tự như vậy, áomới không phải là một đặc điểm để xác định về thời gian [từ lúc tôi mặc áomới]. Chính vì thế, hai cụm từ lợn cưới áo mới đã tạo ra hàm ẩn. ý nghĩahàm ẩn ở đây là khoe sắp cưới vợ và khoe áo mới. Người đọc bật cười vì sự trẻcon, hồn nhiên của hai anh chàng khi phát hiện ra sự hàm ẩn của thông tin dưthừa.3.1.2. Hàm ẩn thể hiện qua những câu nói, lời nhận xét mang màusắc triết lý, đa nghĩa.Sự tham gia của yếu tố hàm ẩn là lời nhận xét, câu nói mang tính triếtlý, không những tạo nên tiếng cười mà còn làm cho truyện thêm sâu sắc, cótính giáo dục cao.a. Hàm ẩn là đoạn văn có màu sắc triết lý và có hình ảnh.Mục đích của truyện cười là hài hước, gây cười nhanh, trực tiếp, vì vậyviệc sử dụng những đoạn văn, câu văn triết lý không phải là phương thức đượcLưu Xuân Bình - K29G11Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcsử dụng nhiều. Loại này chúng tôi thống kê được 13 phiếu [~ 5,07%]. Phươngthức này xuất hiện trong những truyện ngoài mục đích hài hước, gây cười còncó dụng ý phê phán. Các truyện như: Trâu chui lọt, Hai kiểu áo, Xin làm bốchúng nó, Còn phải học gì nữa... được xây dựng trên cơ sở này.Truyện Trâu chui lọt là một ví dụ tiêu biểu về việc sử dụng câu vănmang tính triết lý. Kết thúc tác phẩm, người em đã có câu khuyên nhủ rất sâusắc với người anh của mình: Anh ơi! Cơ nghiệp nhà ta to gấp mấy lần contrâu cũng chui lọt qua lỗ xe điếu, huống hồ cửa chuồng này còn to gấp mấyvạn lần, nó không chui lọt hay sao?. Nội dung tư tưởng của truyện được kháiquát hóa ở đoạn văn cuối tác phẩm. Câu nói của người em chính là sự phêphán, nhắc nhở người anh nhẹ nhàng mà lại thâm thúy. Người anh vốn chẳnglo làm ăn, chỉ suốt ngày rượu chè, thuốc phiện. Khuyên nhủ mãi không được,cuối cùng người em phải lựa chọn một giải pháp rất kỳ quặc: anh ta khôngtháo cửa chuồng trâu nhưng lại cứ quát trâu ra. Từ việc làm cụ thể, người emkhái quát thành một lời khuyên thiết thực, dễ hiểu: lỗ xe điếu còn bé gấpnhiều lần cửa chuồng này mà nhà cửa còn chui qua lọt, không lẽ gì cửachuồng trâu to thế mà con vật kia lại không bước qua.Lập luận logic và chặt chẽ của người em đã tạo tiếng cười bất ngờ chongười đọc. Nhưng ẩn dấu đằng sau nụ cười đó là hàm ý phê phán, phản đốiviệc ăn chơi sa đọa của anh mình. Chính vì thế mà trong câu nói người em đãnhắc tới xe điếu, con trâu, cơ nghiệp nhà ta là những thứ có liên quanđối với gia sản, cơ nghiệp của gia đình.Tác dụng giáo dục của câu chuyện không chỉ dừng lại trong phạm vi giađình mà còn là lời nhắc nhở mà còn là bài học kinh nghiệm đối với tất cảnhững ai còn ham chơi, thích hưởng thụ. Như vậy, hàm ẩn có tác dụng kháiquát hóa nội dung tư tưởng, quy định giọng kể hài hước, triết lý của tác phẩm.Cũng vẫn là sự chiêm nghiệm về cuộc đời, truyện ngắn Xin làm bốchúng nó lại mang đến cho người đọc về một cảnh đời hết sức chua chát.Lưu Xuân Bình - K29G12Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcAnh đi ở xuống tới âm phủ mà vẫn chưa trả hết nợ, Diêm vương thấy vậy liềnhỏi đầu đuôi sự tình, anh đi ở thưa rằng : Làm kiếp trâu thì có hạn , làm bốchúng nó thì phải lo lắng cho chúng nó cả đời, lúc chết có nghìn, có vạn cũngđẻ lại cho chúng nó cả, lại vì còn một nỗi chúng nó bóp hầu, nặn họng, nghịchngợm, trêu trọc người ta , nguời ta cũng mang bố chúng nó ra mà chửi !.Đoạn văn mang đậm tính triết lý trong truyện không những khép lạicuộc đời của một con người đầy gian truân, bất hạnh mà còn hàm chứa rấtnhiều điều làm nhức nhối người đọc. Người đầy tớ dứt khoát khẳng định phảiđược làm bố chúng nó và quyết không thể làm trâu kéo cày. Phải chăng, từcuộc đời bất hạnh của mình, anh đã đúc kết thành chân lý cho những người bịbóc lột. Giọng điệu chát chúa, dứt khoát của anh đầy tớ chi phối toàn bộ âmhưởng của truyện và góp phần bộc lộ sắc nét hơn cuộc đời người nông dân cảkiếp sống bị áp bức, bóc lột của họ.Nhìn vào cái kiếp làm bố chúng nó [ở đây là bố bọn quan lại, tầnglớp địa chủ, phú nông...], chúng ta thấy cũng chẳng có gì làm sáng sủa. Anhmuốn làm bố chúng nó để trả được nợ là vì phải lo cho chúng cả đời người,rồi những khi ngang tai, trái mắt thì người ta cũng mang ra mà chửi. Thì ra, sựphũ phàng của kiếp làm bố kia còn khổ hơn cả kiếp trâu bò. Kiếp làm trâu bòthì chỉ bị đầy đọa về thể xác, còn kiếp làm bố thì còn chịu khổ cả về tinh thần.Lời nói của anh đầy tớ là một tiếng nói phản kháng mãnh liệt của ngườinông dân nhằm vào giai cấp thống trị. Tiếng cười bật ra từ truyện là thái độđấu tranh không khoan nhượng của người nông dân lao động.b. Hàm ẩn là câu nói có ẩn ý.Nhà văn Nga - L.Tônxtôi đã nói: Ngôn ngữ trong tác phẩm vănchương khác với lời nói thường ở chỗ nó gợi ra một tập hợp không sao kể xiếtnhững ý tác giả, những tình cảm, những sự giải thích.... Một tập hợp khôngsao kể xiết đó chính là ý nghĩa hàm ẩn của văn chương.Lưu Xuân Bình - K29G13Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcTruyện cười có sử dụng yếu tố hàm ẩn là những câu nói của nhân vậtchiếm số lượng rất lớn [có 47/70 truyện có sử dụng yếu tố hàm ẩn] như: Quanhuyện thanh liêm, Ông khách nói mát, Sang cả mình con, Da mặt dày,Chọn người gầy mà chữa, Giả ơn con lợn... Qua những truyện này tác giảdân gian vừa làm cho người đọc cất lên tiếng cười mà còn kích động tình cảmcủa chúng ta. Tình cảm ấy là sự phẫn nộ, sự căm ghét, sự khinh bỉ, sự đauxót[37,Trang371].Truyện Sang cả mình con là một ví dụ tiêu biểu. Một lão địa chủ đichơi về, mùa hè nóng nực, mồ hôi hắn ra ướt như tắm. Lão bắt người ở quạt.Được một lúc sau, chú bé quạt khô mồ hôi cho chủ nhưng đến lúc này mồ hôicủa chú lại chảy ra đầm đìa. Thấy người mình không còn ướt nữa, lão chủ nhàsung sướng hỏi người quạt: Ơ mồ hôi của tao nó đi đâu mất cả rồi nhỉ?.Người ở thật thà thưa: Dạ! Nó sang cả mình con rồi ạ!. Câu nói của ngườiở rất dễ bị độc giả hiểu lầm và cho rằng anh là người dở hơi ngốc nghếch. Mồhôi thì không thể nào chuyển từ người này sang người khác, trừ trường hợp nódính từ người nọ sang người kia. Tiếng cười bật ra nhưng là tiếng cười xót xa,cười ra nước mắt.Chúng ta cần phải ngẫm lại, phải suy nghĩ nhiều hơn thì mới thấy ýnghĩa của câu nói này. Việc người ở vất vả cực nhọc, chịu nóng bức để quạtcho lão địa chủ, trong khi hắn ta chỉ việc ngồi hưởng thụ đã làm cho mồ hôichuyển từ tên địa chủ sang người đầy tớ. Trong hoàn cảnh như vậy, câu nóicủa người ở là một hàm ẩn rất có ý nghĩa. Người đọc buồn thương cho thânphận của người dân nghèo và căm ghét giai cấp thống trị. Hàm ẩn trong câunói của người đầy tớ chính là thái độ phê phán và phản kháng quyết liệt củangười dân đối với xã hội phong kiến đương thời.Cũng sử dụng câu nói chứa đựng những hàm ẩn, truyện Quan huyệnthanh liêm lại mang đến cho người đọc cái nhìn cận cảnh về cuộc sống củabọn quan lại tham ô. Nhân vật của truyện là hai vợ chồng quan huyện nổiLưu Xuân Bình - K29G14Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họctiếng khắp vùng bởi sự thanh liêm trong sạch. Quan ông được giới thiệu làngười không bao giờ nhận của hối lộ. Một lần, có làng nhờ quan giúp chothắng vụ kiện. Dân làng mang lễ vật đến mấy lần đều bị quan gạt đi. Họkhông biết làm thế nào, liền nhờ tới quan bà giúp đỡ. Theo sự mách bảo củaquan bà, dân làng mang đến biếu nhà quan huyện một con chuột bạc và coiđây là vật kỷ niệm vì quan ông cầm tinh con chuột. Khi biết chuyện, quan ôngvô cùng bực tức và trách móc, đổ lên đầu quan bà cơn giận dữ Sao bà ngốcthế, lại đi bảo là tuổi Tý! Cứ bảo tuổi Sửu có được không?.Thì ra sự thanh liêm của quan chỉ là sự giả tạo, không giống như nhữnggì quan đã làm với dân chúng. Người đọc ngỡ rằng chỉ quan bà là người thamlam, đáng trách. Nhưng mọi điều hoàn toàn ngược lại, chính câu nói nửađùa, nửa thật của quan huyện lại mở ra cho người đọc cách hiểu hoàn toànkhác.Chính quan ông mới là kẻ tham lam. Biểu hiện tham lam của quan ông làsự chủ động, là bản chất có tính toán hơn thiệt cho mình. Nghĩa của hàm ẩnđược thể hiện khi người đọc ngầm liên tưởng và so sánh giữa con chuột và contrâu. Từ đó câu chuyện đã vạch trần tim đen của những tên quan lại khônngoan nhất, nhưng cũng đạo đức giả nhất. Câu chuyện là một đòn giáng chímạng vào cái được gọi là sự thanh liêm của những viên quan trong xã hộiphong kiến. Tác phẩm đã khẳng định chân lí phổ biến: Đã là quạ thì con nàocũng đen, đã là quan lại thì tên nào cũng tham ô, đục khoét.c. Hàm ẩn gợi ý nghĩa một câu thành ngữ, tục ngữ.Thành ngữ, tục ngữ là những thể loại văn học dân gian có tính chất đúckết kinh nghiệm, tri thức dưới dạng những câu nói ngắn gọn, súc tích. Do vậymà nó thường dễ hiểu, dễ truyền đạt, dễ nhớ. Mặt khác, những câu thành ngữ,tục ngữ lại rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động.Truyện Thừa một con thì có là tiếng cười nhẹ nhàng hóm hỉnh trướcnhững thiếu sót trong lí trí của con người. Nhân vật chính của truyện là anhchàng Ngốc. Anh ra chợ mua bò và tìm được sáu con bò ưng ý. Anh ngồi lênLưu Xuân Bình - K29G15Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họclưng con đầu đàn để về nhà. Dọc đường đi, chàng Ngốc quay lại đếm bò,quanh quẩn mãi vẫn thấy thiếu một con. Về đến nhà, Ngốc mếu máo nói vớivợ rằng mình làm mất một con bò. Chị vợ hỏi đầu đuôi sự việc và hiểu ra vấnđề, người vợ bật cười và nói với chồng rằng thừa một con thì có.Câu chuyện của hai vợ chồng anh Ngốc giống như một vở hài kịch.Người xem vở kịch đó còn muốn thưởng thức nhiều hơn nữa bởi câu nói ởcuối truyện. Từ con mà người vợ nhắc đến đã giải đáp cho sự thắc mắc củangười chồng. Chị đã giúp chồng mình tìm ra con bò còn thiếu nhưng thú vịhơn là đàn bò bây giờ không những đủ sáu con mà còn thừa hẳn một con. Vậycon bò thừa ấy ở đâu mà có? Từ nội dung câu chuyện, người đọc liên tưởng tớicâu thành ngữ Ngu như bò, muốn chỉ những người dốt nát, kém thôngminh... Liên hệ ý nghĩa của câu thành ngữ với ý nghĩa câu nói của người vợtrong ngữ cảnh, người đọc hiểu hàm ẩn sâu xa trong hình ảnh thừa một con.Một con thừa chính là người chồng vì anh chàng ngu như bò. Sự khôi hài,trào lộng ở đây chính là con bò thứ bẩy đó còn có thêm một đặc tính nữa làngu. Để hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn, ngoài căn cứ là yếu tốngữ cảnh và câu chữ, người đọc còn phải sử dụng kiến thức văn học, vốn sống.ở đây, ý nghĩa của câu thành ngữ đã góp phần quy định cách hiểu nội dungtruyện.Không chỉ có sự ngốc nghếch, ăn tham, sợ vợ... được dùng làm để tàicủa những truyện khôi hài mà tính keo kiệt, ki bo... cũng được lấy làm đốitượng để phản ánh, giáo dục con người. Truyện Vắt cổ chày ra nước là mộtminh chứng rất rõ nét.Nhan đề truyện là một câu thành ngữ Vắt cổ chày ra nước đã gópphần thể hiện tính keo kiệt, hà tiện của nhân vật. Truyện được phát triển trêncơ sở những xung đột giữa người ở và lão địa chủ keo kiệt. Do không muốn bỏtiền cho người đầy tớ đi đường uống nước, gã hà tiện đã viện hết lý do nàysang lý do khác để từ chối. Hắn ta xui người ở nếu khát thì uống nước... ao hồ.Lưu Xuân Bình - K29G16Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcHơn thế, hắn còn khuyên anh đầy tớ vắt áo của mình ra để lấy mồ hôi uống.Phẫn nộ bởi thái độ của tên hà tiện nhưng người đọc lại được cười hả hê bởi sựứng xử thông minh của người đầy tớ. Anh bất ngờ xin ông chủ cái... chày giãcua! Theo anh ta thì chày cũng giúp anh ta khỏi khát nước bởi lẽ vắt cổ chàycũng ra nước.Lý lẽ mà anh đầy tớ nêu ra đã ngầm phê phán lão chủ nhà keo kiệt. Câuchuyện là đòn tấn công trực diện vào thói xấu của con người. Anh đã mượn ýcủa câu thành ngữ Vắt cổ chày ra nước chỉ sự tính toán, keo kiệt, chi linhằm đáp trả lại tên chủ nhà.* Tiểu kết:Như vậy, tìm hiểu yếu tố hàm ẩn trong truyện cười dân gian Việt Namcũng là một cách thức tiếp cận tới vẻ đẹp của văn chương. Lớp nghĩa nàythường ẩn đằng sau câu chữ và phải được suy ra từ tình huống phát ngôn, từngữ, lẽ thường... Do vậy, nó được dùng như thủ pháp nghệ thuật tạo ra sự hàihước, gây cười trong truyện cười dân gian. Khai thác yếu tố hàm ẩn trongtruyện cười còn giúp cho người đọc thấy được vai trò của nó trong việc quyđịnh giọng kể [giọng tự sự, trầm lắng hay gấp gáp] của truyện. Mặt khác, tínhhàm ẩn còn quy địng cách thức tìm hiểu tác phẩm, từ đó giúp người đọc thấyđược giá trị nội dung, tư tưởng của truyện cười.3.2. Biện pháp quy định là chi tiết, hình ảnh thể hiện tài năng,phẩm chất tốt đẹp của con người.Ngoài những câu chuyện trào phúng phê phán, đả kích thói hư tật xấucủa bọn vua chúa, quan lại... trong hệ thống truyện cười dân gian còn có mộtbộ phận những tác phẩm ca ngợi tài trí thông minh, những phẩm chất đạo đứctốt của con người.Khảo sát truyện cười dân gian, chúng tôi thống kê được 21 truyện [~9,01%] có sử dụng biện pháp quy định là những chi tiết, hình ảnh thể hiện tàinăng, phẩm chất tốt đẹp của con người. Đa số những truyện này thường ít tínhLưu Xuân Bình - K29G17Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họchài hước, gây cười. Truyện có kết cấu gần với truyện cổ tích vì thường kếtthúc có hậu, cái tốt, cái lương thiện, người nghèo khổ luôn chiến thắng cái áccái xấu xa. Nhân vật chính trong những truyện cười có sử dụng biện pháp quyđịnh này thường là những ông trạng, người học trò thông minh, người dânlương thiện.3.2.1. Yếu tố quy định là một hành động hoặc phát ngôn thể hiện trítuệ con người.Trong mọi thời đại trí tuệ con người luôn được đề cao và tôn vinh. Rấtnhiều tác phẩm văn học dân gian lấy sự tài trí thông minh của con người làmđối tượng để phản ánh. Trong truyện cười dân gian, sự thông minh trí tuệ củacon người còn được dùng như là thủ pháp nghệ thuật tạo ra tiếng cười.Truyện Hết khoe chữ là một ví dụ minh chứng tiêu biểu. Truyện hấpdẫn người đọc bởi sự tài trí thông minh, hóm hỉnh của anh học trò. Người họctrò đi thăm cảnh chùa và gặp vị sư chủ trì ngôi chùa. Nhà sư này vốn là mộtngười hay đối đáp và rất thích... khoe chữ. Gặp cậu học trò, sư ra ngay một vếđối để thách đối lại. Vế đối mà sư ông đưa ra là một câu đố cố ý, hạ thấp giễucợt những người đi học: Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhìsĩ. Người học trò thấy vế đối này có ý châm chọc mình, liền đáp trả nhà sưngay lập tức bằng một vế đối rất chỉnh: Trên sư dưới vãi, ngảng lưng trở lạitrên vãi dưới sư. Có thể thấy, vế đối đã thể hiện sự thông minh tuyệt vời củacậu bé bởi tính chuẩn xác trong cả việc đối từ lẫn đối ý. Mặt khác, sự thôngminh của cậu học trò chính là sự ứng khẩu nhanh và kịp thời trước hành độngchâm chọc của nhà sư.Vế đối của nhà sư làm cho người đọc bật cười bởi những từ ngữ mangtính bông đùa [nhất, nhì, hết gạo, chạy rông....]. Nhưng vế đối của cậu học tròlàm cho người đọc ngạc nhiên không chỉ bởi câu chữ tài tình mà còn bởi tácdụng vạch trần những hành động phạm giới lố lăng của nhà sư. Có thể nói, tácgiả dân gian miêu tả sự đối đáp của cậu bé như một thủ pháp nghệ thuật gópLưu Xuân Bình - K29G18Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcphần tạo nên tiếng cười, đồng thời giúp cho người đọc hiểu được ý nghĩa phêphán của tác phẩm.Trong hệ thống truyện Trạng thì Thi vẽ là một câu chuyện hay và độcđáo. Truyện nói về nhân vật Trạng Quỳnh là người có cách ứng xử thông minhkhi đối đáp với sứ Trung Quốc. Sứ nhà Tàu sang nước ta hống hách và nghênhngang, rất coi thường dân ta. Với mưu đồ muốn làm nhục cả triều đình nướcta, sứ Tàu thách nhà vua thi vẽ với hắn. Sau một hồi trống hai bên phải hoànthành vẽ một con vật. Sứ Tàu nhận vẽ trước và chưa hết một hồi trống hắn đãvẽ được một con rồng. Trong lúc cả triều đình đang lo sợ vì không thực hiệnđược điều kiện mà hắn đưa ra thì Trạng Quỳnh xin vua cho được thi vẽ. Bằngmười đầu ngón tay, cùng một lúc, Trạng Quỳnh đã vẽ được mười con giun chỉsau một tiếng trống. Qua việc thi vẽ vừa nêu, chúng ta đã thấy được sự tài tríthông minh của người dân lao động. Bằng mưu trí của mình, họ đã chiếnthắng tên sứ Tàu hống hách. Sự chiến thắng của Trạng Quỳnh cũng chính là sựchiến thắng của cả một dân tộc. Sự chiến thắng đó đã khép lại câu chuyệnnhưng lại mở ra rất nhiều ý nghĩa sâu sắc. Chiến thắng đó một mặt thể hiệnđược tinh thần và ý thức của dân tộc, mặt khác nó đã thể hiện sự thông minhtrí tuệ của người Việt. Đặc biệt hơn, sự thông minh hóm hỉnh của TrạngQuỳnh còn là yếu tố góp phần tạo nên tiếng cười trong truyện.Ngoài những câu chuyện vừa nêu, chúng ta còn bắt gặp thủ pháp gâycười này ở những truyện khác như: Da mặt dày, Đón lên tỉnh rồi, Thơ quanvõ, Con vịt đáng chết, Quan thị và quan võ xỏ nhau...3.2.2. Yếu tố quy định là một kết thúc tốt đẹp, có hậu.Yếu tố quy định là một kết thúc tốt đẹp, có hậu là một kiểu kết cấugiống với truyện cổ tích. Trong truyện cười, kết thúc có hậu cũng là một yếutố góp phần quy định chiều hướng phát triển của truyện, để từ đó người đọchiểu được ý nghĩa của tác phẩm.Lưu Xuân Bình - K29G19Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcTruyện Quả đào trường thọ là sự đề cao những con người thôngminh, khôn khéo trong ứng xử với giai cấp thống trị. Không những vậy, truyệncòn rất có ý nghĩa bởi một kết thúc có hậu. Xuyên suốt tác phẩm là giọng tựsự trầm lắng, bình thản. Nhưng ẩn sau đó là một lớp sóng ngầm về cuộc đốiđáp, tranh luận, cam go và quyết liệt giữa vua [đại diện cho giai cấp thống trị]và Trạng Quỳnh [đại diện cho nhân dân lao động]. Trạng Quỳnh nhận tội xửchém vì đã cố tình ăn đào trường thọ trước mặt vua. Trước khi chết, TrạngQuỳnh xin vua được nói vài lời: Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh,sợ số chết non, thấy quả gọi là quả trường thọ thèm quá, ăn vào được sống lâunhư Bành Tổ, để được thờ vua cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồmmà đã chết đến cổ. Hạ thần trộm nghĩ nên đặt tên quả ấy là quả đoản thọthì phải hơn và xin vua trị tội đứa nào đã dâng đào để trừ kẻ xu nịnh. Ngườiđọc rất bất ngờ trước lập luận sắc bén, chắc chắn của Trạng Quỳnh. Sự thôngminh của Trạng Quỳnh thể hiện ở chỗ đã khéo léo lập luận ý nghĩa của cụm từđào trường thọ. Từ ý nghĩa đó, Quỳnh đặt vào hoàn cảnh của mình đangphải chịu tội chết để phản bác lại ý nghĩa trường thọ của quả đào. Khôngchỉ bác lại, Quỳnh còn khôn khéo vạch trần bản chất lừa dối, xu nịnh của kẻdâng đào.Như vậy, nhờ tài biện bác, lập luận mà Trạng Quỳnh được nhà vua thatội chết. Cái nghịch lý mà Trạng Quỳnh chỉ ra chính là sự hài hước gây cườicủa truyện. Lập luận của Trạng Quỳnh chính là sự thắt nút và đồng thờicũng là sự mở nút cho kịch tính của truyện. Khép lại câu chuyện, Quỳnhthoát khỏi tội chết và kẻ xấu bị vạch mặt. Truyện kết thúc có hậu và mang ýnghĩa nhân sinh sâu sắc.Đề cao sự lương thiện của con người và mong muốn họ có cuộc sống tốtđẹp là chủ đề của truyện cười Tưởng bở. Tiếng cười của truyện là sự đan càigiữa hai nghịch lý. Một bên là lão nhà giàu muốn kén chàng rể nhiều tiền, cònmột phía là chàng trai nghèo lại mong muốn lấy được con gái của tên địa chủ.Lưu Xuân Bình - K29G20Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcAnh nhà nghèo biết được ý đồ của lão nhà giàu liền lập mưu để đánhlừa lão. Hàng ngày, anh mượn thuyền của lão già và cố tình để quên tiền trênthuyền. Gã nhà giàu bị mắc lừa, tưởng anh giàu có liền gả con gái út cho. Khibiết được sự thật, lão địa chủ vô cùng bực tức, nhưng sự đã rồi. Câu chuyệnkết thúc gần giống một truyện cổ tích và phản ánh đúng theo sự mong đợi củangười đọc. Mặc dù nghèo khổ và không thể lấy được vợ nhưng cuối cùngchàng trai đã được toại nguyện theo mong ước: lấy được con gái lão nhà giàu.Người đọc không chỉ cười vì anh nhà nghèo lấy được vợ giàu mà còn cười tênnhà giàu tham lam, ngu dốt.* Tiểu kết:Như vậy, việc phân tích một số truyện cười tiêu biểu có yếu tố quy địnhlà một hành động, phát ngôn thể hiện tài năng, phẩm chất của con người,chúng ta thấy rõ giá trị của biện pháp quy định trong truyện cười dân gianViệt Nam. Yếu tố quy định không chỉ góp phần tạo ra tiếng cười hài hước chocâu chuyện mà còn thể hiện được dụng ý sâu xa của tác giả dân gian. Đó là sựca ngợi trí thông minh đạo đức của người lao động. Đồng thời cũng là tiếngnói phê phán những mặt trái trong xã hội như: thói kiêu căng, hách dịch củacon người; sự tham lam độc ác của bọn cường hào, địa chủ... Có thể nói yếu tốquy định đã góp phần khẳng định giá trị nội dung tư tưởng của truyện cườidân gian Việt Nam, tạo nên những tiếng cười đa sắc điệu để lại dư âm tronglòng người đọc.3.3. Yếu tố quy định và sự bất ngờ, hụt hẫng.Cơ sở tâm lý của yếu tố quy định này dựa trên nguyên tắc tính liên tụccủa lời nói. Yếu tố đi trước bao giờ cũng chuẩn bị cho sự xuất hiện của yếu tốđi sau. Khi tiếp xúc với văn bản, người đọc đón nhận sự xuất hiện của yếu tốđi sau như một lẽ thường và nó phù hợp với quy luật tâm lý, logic khách quan.Tuy vậy, nếu yếu tố xuất hiện sau là cái không được chuẩn bị trước hay ngượcLưu Xuân Bình - K29G21Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcvới sự chuẩn bị trước sẽ tạo ra sự hụt hẫng, bất ngờ tới nhận thức và tâm lýngười đọc.Trong truyện cười dân gian để tạo ra tiếng cười, tác giả dân gian đã sửdụng rất nhiều thủ pháp khác nhau, trong đó có biện pháp sử dụng sự chờ đợihụt hẫng, bất ngờ. Theo Giáo sư Đinh Gia Khánh: Để gây ra tiếng cười thựcgiòn giã, truyện cười dân gian dùng yếu tố bất ngờ, sự bất thường gây ra xúccảm mạnh... Xúc cảm mạnh có thể là sự ngạc nhiên, bất ngờ.[10,Trang388].Theo thống kê, yếu tố quy định là một chi tiết bất ngờ, hụt hẫng chiếm sốlượng nhiều nhất trong số 233 truyện cười dân gian Việt Nam mà chúng tôitiến hành khảo sát [có 108 truyện ~ 46,35%]. Các truyện như: Cháy nhà,Quan huyện thanh liêm, Mất chiếc ống vôi, Thầy bói và thầy lang xỏ nhau,May không đi giầy... được xây dựng trên cơ sở này.3.3.1. Sự bất ngờ, hụt hẫng là kết luận vô lý của lập luận.Người đàn ông trong truyện Mua kính làm người đọc tập trung sựchú ý bởi hành động rất kỳ quặc của hắn. Anh ta là kẻ dốt đặc cán mainhưng lại mắc thêm cái thói sĩ diện, rởm đời. Vào cửa hàng, bắt chước mọingười, anh ta chọn cho mình một đôi kính. Anh ta chọn mãi mà chẳng đượcđôi kính nào ưng ý. Chủ hiệu đưa kính nào hắn vẫn lắc đầu chê xấu, đòithay kính khác. Lý do đòi thay kính của anh là kính không đọc được chữ. Đâylà lập luận hợp lý của người mua kính, vì có thể kính mờ, kính chưa phù hợpnên anh ta không đọc được. Như vậy, người đọc có thể thông cảm cho anhchàng khó tính này.Song mọi chuyện lại không theo chiều hướng suy luận tất yếu này.Người mua kính không đọc được chữ không phải vì kính mà bởi vì anh takhông biết chữ. Anh ta kết luận: Biết chữ thì đã không cần mua kính. Sự vôlý trong suy nghĩ của người mua kính làm bật ra tiếng cười, đồng thời cũngvạch trần sự dốt nát, ngô nghê của anh.Lưu Xuân Bình - K29G22Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họcCũng qua việc xây dựng tiếng cười bằng những lập luận hết sức tráikhoáy của nhân vật, truyện Mất chiếc ống vôi đã tạo ra sự hài hước bằng sựđãng trí, ngờ nghệch của con sen.Truyện kể về cuộc đối thoại giữa hai nhân vật trên một con đò. Con senăn trầu nhỡ tay làm rơi cái ống vôi bạc của cô chủ xuống sông. Sợ chủ mắng,nó mới giả vờ hỏi rằng: Cái gì mà mình biết nó ở đâu rồi thì có cho là mấtđược không ạ?. Tất nhiên là con sen có thể dự đoán được câu trả lời như thếnào, vì nó thừa hiểu đã mất thì không thể biết ở đâu được. Nhưng theo dõi tớicâu đối thoại tiếp theo của con sen với cô chủ, người đọc mới hiểu được sự tráingược trong hai câu nói mà đứa ở đưa ra. Người đọc đã bị bất ngờ với câukhẳng định chắc như đinh đóng cột của con sen: Thế thì cái ống vôi củacô không mất. Con biết nó nằm ở dưới đáy sông.... Kết luận vô lý của consen đã tạo ra không khí hài hước cho câu chuyện. Câu trả lời có vẻ ngớ ngẩnnhưng lại rất thông minh bởi như vậy con sen đã chứng minh là mình khôngcó lỗi và chiếc ống vôi cũng không mất. Câu nói của con sen làm người đọcbất ngờ và tạo ra tiếng cười cho độc giả.Tiếng cười bật ra từ những kết luận vô lý của lập luận cn bắt gặp trongnhững truyện như: Treo biển, Đẽo cày giữa đường, Thầy bói xem voi...3.3.2. Sự chờ đợi hụt hẫng là do một chi tiết bất ngờ, hài hước; tráingược với dự đoán.Những truyện có yếu tố quy định thuộc loại này thường có một số đặcđiểm như sau:- Nhân vật chính của truyện thường là những người ngốc nghếch, nhữngngười dân thường, sư sãi, thầy đồ...- Nội dung phản ánh của những truyện cười này đề cập tới thói hư tậtxấu như sự nhầm lẫn, hớ hênh, ngô nghê... trong sinh hoạt hàng ngày.- Những truyện cười này chủ yếu gây cười, mua vui mà ít có ý nghĩaphê phán, đấu tranh.Lưu Xuân Bình - K29G23Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họca. Yếu tố gây cười là sự hớ hênh ngốc nghếch.Sự mất cảm giác đúng đắn về hiện thực, những hiện tượng ngược đờitrong đời sống xã hội cũng được làm đối tượng phản ánh trong truyện cười.Những truyện: Tay ải tay ai, Con xin chịu, Ăn vụng khoa, Máy móc, Buônvịt trời, Sát sinh tội nặng lắm... được xây dựng trên cơ sở này.Truyện Ăn vụng khoai, là một ví dụ tiêu biểu. Nhân vật chính củatruyện là anh chàng ăn tham sợ vợ. Nhân lúc vợ đi chợ chưa về, anh chồng ăntham mang khoai ra nướng. Thật không may cho người chồng, khoai vừa chínthì vợ về. Là người có tính sợ vợ, lại trong tình huống ăn vụng nên anh vôcùng hốt hoảng không biết giấu củ khoai vào chỗ nào. Người đọc bất ngờ khianh ta chọn chỗ giấu khoai là... cạp quần. Sự hớ hênh này khiến anh ta phải trảgiá. Do khoai nóng quá, không chịu được anh chồng cứ phải nhảy lên nhảyxuống trước mặt vợ. Hành động kỳ quặc này của anh ta làm vợ vừa ngạcnhiên lại vừa buồn cười. Vợ hỏi, anh ta giải thích rằng: Thấy mình về tôimừng quá. Câu trả lời để che giấu khuyết điểm của anh chồng lại tạo ra sựbất ngờ nữa vì sự bất bình thường giữa hành động và sự giải thích trong lờingụy biện. Cách mừng vợ của anh ta rất trẻ con và buồn cười. ý nghĩa màtiếng cười trong truyện gợi lên chính là sự châm biếm, phê phán những anhchồng sợ vợ, ăn tham.b. Yếu tố quy định là chi tiết bất ngờ thể hiện quy luật gậy ông đậplưng ông.Những truyện như: Ăn trộm mèo vua; Tài nói láo; Nói có đầu có đuôi;Cưỡi ngỗng mà về... đều sử dụng biện pháp quy định thể hiện quy luật gậyông đập lưng ông để tạo ra tiếng cười. Truyện Tài nói láo là một thí dụđiển hình.Nhân vật chính của truyện là người rất giỏi nói láo. Nhờ tài nói láo màanh đã lừa được rất nhiều người và trở nên nổi tiếng. Biết được điều này quangọi anh ta tới và bắt nói láo trước mặt quan. Nếu lừa được, quan sẽ có thưởngLưu Xuân Bình - K29G24Khoa: Ngữ vănTrường đại học sư phạm Hà Nội 2Khoá luận tốt nghiệp đại họccho anh. Xung đột của truyện được đẩy lên thành kịch tính qua cuộc đối thoạigiữa quan và anh nói láo. Anh bảo với quan là mình không biết nói láo, bởianh chỉ nói theo một cuôn sách Tàu do ông Tổ để lại. Quan tưởng thật, đòianh ta cho mượn quyển sách đó. Chỉ nhờ có vậy, anh ta liền trả lời quan rằng:Trăm lạy quan lớn... Ngài xá cho, vì... con làm gì có sách ấy! Con nói láođấy ạ!.Câu trả lời của anh nói láo đã làm quan thực sự ngỡ ngàng. Tiếng cườibật lên khi sự thật được làm sáng tỏ. Câu chuyện kết thúc làm người đọc bấtngờ. Quan bị anh nói láo đánh lừa mà không biết. Vì sự ngớ ngẩn của mìnhmà quan bị cười, bị làm trò hề trước mọi người. Lừa được quan lớn, anh nôngdân đã cho người đọc thấy rõ trí thông minh, hóm hỉnh của mình. Tài năngcủa anh được khẳng định một cách tự nhiên và thuyết phục.Truyện Cưỡi ngỗng mà về cũng là một tác phẩm tiêu biểu. Chủ nhàlà kẻ giàu có nhưng lại rất keo kiệt. Bạn đến chơi nhà, hắn ta than nghèokhông có gì thiết bạn. Ông khách đề nghị thịt con ngựa của mình mà ăn và xinchủ nhà con ngỗng to để cưỡi về.Đặt câu nói của người khách ngữ cảnh lãonhà giàu không muốn đãi bạn, thì lời nói này là một sự hàm ẩn.Câu nói củaông khách có dụng ý phê phán lão nhà giàu keo kiệt. Câu nói ngầm thông báolà trong nhà có ngỗng thịt. Chính vì vậy, việc chủ nhà than mình không có gìthiết bạn chỉ là sự bịa đặt. Câu nói mỉa mai của vị khách cho người đọc thấyđược bộ mặt giả tạo, keo kiệt nhưng lại ra vẻ quý bạn của lão nhà giàu. Đồngthời, câu nói đó được xem như là một thủ pháp gậy ông đập lưng ông tạonên tiếng cười trong truyện.c.Yếu tố quy định là một chi tiết bất ngờ thể hiện quy luật giấu đầu hởđuôi.Thành ngữ Giấu đầu hở đuôi chỉ tính cách của con người có ý địnhgiấu giếm điều gì đó nhưng lại vô tình làm lộ cho người khác biết được điềuLưu Xuân Bình - K29G25Khoa: Ngữ văn

Video liên quan

Chủ Đề