Vườn không nhà trống là của ai

Tag: vườn không nhà trống là gì

Lập dàn ý giải thích câu vườn không nhà trống lớp 9 xin một vài dàn ý ngắn gọn hay

a- Mở bài

Kế sách "Thanh dã" (với nghĩa: vườn không, nhà trống) là một trong những kế sách chống giặc ngoại xâm của cha ông ta, được vận dụng khá phổ biến và hết sức tài tình trong sự nghiệp giữ nước. Nhìn lại lịch sử đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta, nhất là trong một ngàn năm Thăng Long, chúng ta thấy một vấn đề nổi lên, trở thành quy luật, đó là: dân tộc ta luôn phải đương đầu với quân xâm lược có tiềm lực quân sự hơn hẳn. Vì thế, để thắng địch, cha ông ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp, không chỉ đánh địch bằng tinh thần và lực lượng của cả nước, mà còn bằng "mưu, kế, thế trận", trong đó có kế sách "thanh dã". Với kế sách này, cha ông ta đã khoét sâu điểm yếu chí tử của đạo quân xâm lược là chinh chiến xa, công tác đảm bảo hậu cần khó khăn; nếu chiến tranh kéo dài thì địch càng khó khăn gấp bội, sức mạnh chiến đấu suy giảm. Do đó, chúng thường sử dụng chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "biến nước bị xâm lược thành nơi cung cấp hậu cần tại chỗ cho đội quân chiếm đóng".

b- Thân bài

 Thực hiện kế sách "thanh dã" kết hợp với cách đánh giặc sáng tạo của chiến tranh toàn dân, toàn diện (phục kích, tập kích, quấy rối, đánh phá cơ sở hậu cần, kỹ thuật …), phá vỡ âm mưu chiến lược nêu trên của địch, đẩy địch vào thế cùng quẫn, tạo lập thời cơ tiến lên tổng phản công, giải phóng đất nước. Thăng Long-Hà Nội là nơi đã từng sử dụng kế sách "thanh dã" chống lại các cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của cả vua chúa phong kiến phương Bắc lẫn chủ nghĩa thực dân, đế quốc phương Tây một cách mẫu mực trong lịch sử hàng nghìn năm chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.

c- Kết bài

Như vậy, bằng việc áp dụng chiến thuật "vườn không nhà trống", Trần Hưng Đạo đã từng bước nhường thế chủ động cho giặc rồi lại đoạt lại thế chủ động từ tay giặc theo một phương án đơn giản.

Tag: vườn không nhà trống là gì

Kế “thanh dã” là nghệ thuật quân sự được ông cha ta vận dụng sáng tạo, tài tình trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhờ nghệ thuật này, chúng ta đã đánh thắng rất nhiều thế lực cướp nước hung bạo, đồng thời thể hiện nét đặc trưng trong nghệ thuật quân sự Việt Nam, một dân tộc nhỏ thường xuyên phải chống lại những kẻ thù rất mạnh.

Năm 1258, ba vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm lược nước ta. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần tạm rút lui về vùng Phiên Mạc (Duy Tiên-Hà Nam) để bảo toàn lực lượng, phát động nhân dân thực hiện kế “thanh dã” để đánh giặc. Theo lệnh của triều đình, nhân dân kinh thành nhanh chóng sơ tán, thực hiện “vườn không nhà trống”. Vì thế, khi quân giặc tiến vào Thăng Long, trước mắt chúng chỉ là phố phường vắng lặng, không một bóng người, không một hạt thóc, kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của giặc bị phá sản. Lương thảo hết, bọn giặc kéo ra ngoài thành cướp bóc, bị nhân dân đánh cho tan tác. Khi địch thực sự rơi vào tình thế nguy ngập, tinh thần rệu rã, quân dân nhà Trần mở cuộc phản cộng lớn ở Đông Bộ Đầu, đánh bật quân Mông Cổ ra khỏi Thăng Long. Hoảng hốt, địch vội ngược theo sông Hồng về phương Bắc, bị nhân dân ta chặn đánh nhiều nơi, tên nào sống sót cố sức chạy về bên kia biên giới, không còn nghĩ gì đến cướp bóc nữa.

Nhờ biết vận dụng sáng tạo kế “phanh dã” cùng nhiều hình thức tác chiến khác, chỉ trong vòng nửa tháng, quân dân nhà Trần đã đánh bại sự xâm lược của kẻ thù thuộc loại mạnh nhất lúc bấy giờ, nền độc lập chủ quyền được giữ vững.

NGUYỄN HÀO HIỆP

Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1

Bạn đang xem: Vườn không nhà trống là gì

Vườn không nhà trống là của ai


Vườn không nhà trống là của ai


Chiến thuật này do Trần Hưng Đạo, một danh nhân quân sự của VN và thế giới sáng tạo nên vào thế kỷ 13. Nguyên lí của nó như sau: Theo cách tính thời bấy giờ, trong vòng 1 tháng 50 vạn đại quân ăn hết tối thiểu 30 vạn thạch gạo. Để vận chuyển số gạo này từ Ung Châu (Trung Quốc) sang VN cần chừng 40 vạn dân phu đi liên tục ko nghỉ trong vòng 10 ngày (nếu đi đường thủy) hoặc 20 ngày (nếu đi đường bộ). Tuy nhiên, dân phu cũng cần phải ăn mới đi đc nên số lượng lương thực đến tay binh sỹ chắc chắn ít hơn nhiều so với con số ban đầu, cộng thêm những tổn thất dọc đường (do hư hỏng, do bị đối phương chặn đường cướp mất) thì quân giặc chỉ đáp ứng tối đa 50% nhu cầu lương thực của chúng mà thôi. Do đó, để duy trì chiến tranh, quân giặc chỉ còn cách cướp bóc lương thực tại các vùng chiếm đóng để giải quyết nhu cầu tại chỗ. Nắm đc đặc điểm này, Trần Hưng Đạo chủ trương sơ tán toàn bộ con người và tài sản tại các vùng đông dân cư và ko có nhiều ý nghĩa về mặt quân sự sang những khu vực an toàn dưới sự bảo hộ của quân chủ lực triều đình, chấp nhận nhường lại một bộ phận lớn lãnh thổ (chủ yếu là vùng đồng bằng) cho đối phương, tránh những trận đánh công kiên hao người tốn của, mạt khác tung quân do thám cắt đứt nguồn tiếp tế từ Trung Quốc cho kẻ địch. Như vậy, sau một thời gian chiếm đóng, quân giặc đứng trước 2 khó khăn lớn: - Thiếu lực lượng: Vùng chiếm đóng càng mở rộng, địch càng phải dàn mỏng lực lượng để bảo vệ thành quả chiến tranh. Tuy nhiên, khi chưa tiêu diệt được bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của đối phương, việc làm này vô cùng nguy hiểm vì một khi đói phương phát động chiến tranh nhân dân rộng khắp thì đội quân xâm lược sẽ bị rơi vào thế bị cô lập, lúng túng và bị động đối phó. Nhẹ tất mất công mà ko đc việc gì, nặng thì toàn quân bị dồn vào chỗ chết. -Thiếu lương ăn: Như đã nói ở trên, quân đội viễn chinh sau nhiều ngày chiến đấu trong điều kiện đói khát sẽ mất tinh thần và suy sụp rất nhanh. Nếu đối phương dùng đến thủ đoạn tàn độc (hạ độc nguồn nước uống) thì chắc chắn ko sống nổi qua 1 tháng. Như vậy, bằng việc áp dụng chiến thuạt "vườn không nhà trống", Trần Hưng Đạo đã từng bước nhường thế chủ động cho giặc rồi lại đoạt lại thế chủ động từ tay giặc .

Đúng 0

Xem thêm: Nhân Sinh Cảm Ngộ - “Khi Yêu Đừng Hỏi Tại Sao”

Bình luận (0)

Vườn không nhà trống là của ai


Kế sách "Thanh dã" (với nghĩa: vườn không, nhà trống) là một trong những kế sách chống giặc ngoại xâm của cha ông ta, được vận dụng khá phổ biến và hết sức tài tình trong sự nghiệp giữ nước. Nhìn lại lịch sử đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta, nhất là trong một ngàn năm Thăng Long, chúng ta thấy một vấn đề nổi lên, trở thành quy luật, đó là: dân tộc ta luôn phải đương đầu với quân xâm lược có tiềm lực quân sự hơn hẳn. Vì thế, để thắng địch, cha ông ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp, không chỉ đánh địch bằng tinh thần và lực lượng của cả nước, mà còn bằng "mưu, kế, thế trận", trong đó có kế sách "thanh dã". Với kế sách này, cha ông ta đã khoét sâu điểm yếu chí tử của đạo quân xâm lược là chinh chiến xa, công tác đảm bảo hậu cần khó khăn; nếu chiến tranh kéo dài thì địch càng khó khăn gấp bội, sức mạnh chiến đấu suy giảm. Do đó, chúng thường sử dụng chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "biến nước bị xâm lược thành nơi cung cấp hậu cần tại chỗ cho đội quân chiếm đóng". Thực hiện kế sách "thanh dã" kết hợp với cách đánh giặc sáng tạo của chiến tranh toàn dân, toàn diện (phục kích, tập kích, quấy rối, đánh phá cơ sở hậu cần, kỹ thuật …), phá vỡ âm mưu chiến lược nêu trên của địch, đẩy địch vào thế cùng quẫn, tạo lập thời cơ tiến lên tổng phản công, giải phóng đất nước. Thăng Long-Hà Nội là nơi đã từng sử dụng kế sách "thanh dã" chống lại các cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của cả vua chúa phong kiến phương Bắc lẫn chủ nghĩa thực dân, đế quốc phương Tây một cách mẫu mực trong lịch sử hàng nghìn năm chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.


Đúng 0 Bình luận (0)

Việc thực hiện kế "vườn không nhà trống" trong ba lần kháng chiến của nhà Trần đã có tác dụng gì ?

“Thanh dã” (với nghĩa: vườn không nhà trống) là một trong những kế sách chống giặc ngoại xâm của  cha ông ta, được vận dụng khá phổ biến và hết sức tài tình trong sự nghiệp giữ nước.

Nhìn lại lịch sử đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta, nhất là trong một ngàn năm Thăng Long, chúng ta thấy một vấn đề nổi lên, trở thành quy luật, đó là : dân tộc ta luôn  phải đương đầu với quân xâm lược có tiềm lực quân sự hơn hẳn. Vì thế, để thắng địch, cha ông ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp, không chỉ đánh địch bằng tinh thần và lực lượng của cả nước, mà còn bằng “mưu, kế, thế trận”, trong đó có kế sách “vườn không nhà trống”.

Vườn không nhà trống là của ai

Với kế sách này, cha ông ta đã khoét sâu điểm yếu chí tử của đạo quân xâm lược là chinh chiến xa, công tác đảm bảo hậu cần khó khăn; nếu chiến tranh kéo dài thì địch càng khó khăn gấp bội,  sức mạnh chiến đấu suy giảm. Do đó, chúng thường sử dụng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “biến nước bị xâm lược thành nơi cung cấp hậu cần tại chỗ cho đội quân chiếm đóng”.

Thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” kết hợp với cách đánh giặc sáng tạo của chiến tranh toàn dân, toàn diện (phục kích, tập kích, quấy rối, đánh phá cơ sở hậu cần, kỹ thuật …), phá vỡ âm mưu chiến lược nêu trên của địch, đẩy địch vào thế cùng quẫn, tạo lập thời cơ tiến lên tổng phản công, giải phóng đất nước.

Vườn không nhà trống là của ai
Thăng Long với kế sách “ vườn không nhà trống” trong ba cuộc chiến tranh chống Mông-Nguyên (thế kỷ 13)

Thăng Long – Hà Nội là nơi đã từng sử dụng kế sách “ vườn không nhà trống” chống lại các cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của cả vua chúa phong kiến phương Bắc lẫn chủ nghĩa thực dân, đế quốc phương Tây một cách mẫu mực trong lịch sử hàng nghìn năm chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.

Trong ba cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt (1258, 1285 và 1288), quân Mông – Nguyên đều xác định Thăng Long là mục tiêu chủ yếu. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt.

Nhưng, có một điều chúng không bao giờ hiểu, nằm ngoài dự liệu của chúng, là ngay cả khi chiếm được Thăng Long, chúng vẫn không thể kết thúc chiến tranh, tức là không thể hoàn thành chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, không diệt được đại quân ta, không bắt được vương triều Trần, không đạt được mục đích chiến tranh xâm lược.

Vườn không nhà trống là của ai

Chúng hy vọng Thăng Long địa hình bằng phẳng, sẽ là nơi quyết chiến chiến lược, và với đội kỵ binh thiện chiến có sức đột kích nhanh và mạnh, chúng có thể đánh tan được đại quân nhà Trần như đã từng làm với những quốc gia bị chúng xâm lược trước đó ở châu Âu, Bắc Á và gần nhất là nhà Tống (Trung Quốc).

Nhưng chúng đã lầm và hoàn toàn bị hẫng hụt khi Thăng Long mà chúng chiếm được chỉ là một tòa thành trống rỗng, không thấy bóng một người dân, họa chăng chỉ còn lại mấy tên sứ giả của Nguyên triều bị trói gô vứt nơi cửa khuyết.

Chiếm được Thăng Long, không những không đạt được mục đích, mà ở đây, chúng phải đương đầu với một “kẻ địch mới”, đó là cái đói, cái nóng, ốm đau, bệnh tật… Kế sách “thanh dã” mà triều Trần tiến hành trong ba cuộc kháng chiến chống xâm lược ở thế kỷ 13 đã phát huy tác dụng, hỗ trợ đắc lực cho cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (năm 1258), sau khi chiếm được thành Thăng Long, quân Mông Cổ chỉ đóng quân được ở đây trong không đầy nửa tháng. Bởi hưởng ứng và thực hiện mệnh lệnh của triều đình, nhân dân kinh thành đã dùng kế “thanh dã” khiến quân địch rất khó cướp được lương thực; trong lúc lương thực mang theo để nuôi quân cứ cạn dần, giặc bị rơi vào tình trạng thiếu lương, lại không quen thủy thổ, quân lính đau ốm nhiều…

Trong khi đó, quân và dân nhà Trần không ngừng tiến hành  những trận đánh nhỏ, lẻ; ngày đêm tập kích và phục kích đồn trại giặc; đột nhập, đốt phá các kho lương, kho cỏ ngựa của giặc và ra sức chuẩn bị phản công. Rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, tướng giặc là Ngột Lương Hợp Thai không có cách gì hơn là định ngày lui quân.

Tuy nhiên, để vớt vát sĩ diện, hắn sai sứ giả đến dinh quân ta đóng ở hạ lưu sông Hồng để nói chuyện giảng hòa. Biết giặc đã vào thế cùng quẫn, nhà Trần tận dụng thời cơ, tiến hành tổng phản công, đánh mạnh vào doanh trại giặc ở Đông Bộ Đầu và truy kích giặc trên đường rút chạy.

Vườn không nhà trống là của ai

Đáng chú ý, khi chúng chạy đến trại Quy Hóa (Yên Bái), Trại chủ người Mường là Hà Bổng đem quân đón đánh, quân giặc thua to.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược lần thứ 2 (năm 1285), mặc dù nhà Trần đã lập nhiều phòng tuyến để ngăn giặc từ biên giới đến sông Vạn Kiếp, nhưng vì thế giặc quá mạnh nên không thể ngăn nổi, và chúng chiếm Thăng Long lần thứ 2.

Vận dụng bài học chống giặc trong cuộc kháng chiến lần trước, trước khi rời khỏi Thăng Long, triều đình nhà Trần đã cho tiêu hủy những của cải, lương thực không thể mang theo; đồng thời, yết bảng ở khắp nơi kẻ chợ và thôn quê, chỉ rõ rằng: phàm các châu huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến nên liều chết mà đánh, hoặc sức chống cự không nổi thì phải trốn vào trong rừng, không được đầu hàng...

Hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình, ở Thăng Long và các  vùng địch chiếm đóng, nhân dân ta thực hiện kế sách “thanh dã”, triệt nguồn lương thực tại chỗ của chúng.

Cùng với đó, ở các vùng sau lưng địch, các đội dân binh phối hợp chặt chẽ với một bộ phận phân tán tại chỗ của quân triều đình, ngày đêm hoạt động ráo riết, liên tiếp đánh vào các căn cứ đóng quân và các đội đi cướp lương, gây cho địch nhiều tổn thất.

Đặc biệt, quân và dân Thăng Long đã hoạt động ráo riết, tiến công lực lượng vận chuyển lương thảo giữa đại bản doanh của địch với hậu phương chiến lược của chúng; tập kích các mục tiêu của địch trong kinh thành và chặn đánh quân địch nống ra ngoài để càn quét và cướp lương thảo…

Thời tiết chuyển dần sang mùa hè làm cho quân lính phương Bắc phát sinh ốm đau, bệnh tật ngày càng nhiều. Bằng cuộc rút lui chiến lược tài tình, cùng kế “thanh dã” và sức mạnh kháng chiến của cả nước, quân và dân nhà Trần không những bảo toàn và phát triển được lực lượng kháng chiến mà còn dần đẩy địch vào thế yếu, lực suy, từ đó tạo ra thời cơ thực hành phản công chiến lược.

Do đó, chỉ trong vòng 2 tháng, kinh đô Thăng Long một lần nữa lại được giải phóng hoàn toàn khỏi ách chiếm đóng của quân Nguyên-Mông.

Đổ lỗi cho hai lần xâm lược Đại Việt bị thất bại là do chuẩn bị hậu cần không chu đáo, nên khi tiến hành chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba (1288), Hoàng đế nước Nguyên là Hốt Tất Liệt đã cho chuẩn bị chiến tranh khá kỹ. Hắn hạ chiếu phát quân Mông Cổ và quân Hán ở ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng 7 vạn người, 500 chiến thuyền, cùng 7.000 binh ở Vân Nam, 1 vạn 5.000 lê binh ở bốn châu (Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn) và quân của các châu khác, đưa tổng số quân lên đến 30 vạn; lại sai Vạn hộ Trương Văn Hổ chở 17 vạn thạch lương;  dưới sự tổng chỉ huy của Trấn Nam Vương Thoát Hoan sang xâm lược nước ta.

Nhà Trần đã chuẩn bị khá chu đáo cả tinh thần lẫn lực lượng cho cuộc kháng chiến, nhưng trước thế giặc mạnh, Bộ chỉ huy kháng chiến nhà Trần đã chủ trương và dùng phục binh ngăn chặn cuộc tiến công của đại binh giặc càng lâu càng tốt; đồng thời, sử dụng kế sách “thanh dã”, bỏ ngỏ thành Thăng Long, tạm lui về miền đất Đông Nam, chờ thời cơ tổng phản công chiến lược.

Cũng như hai cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt trước đó, lần này quân địch chiếm đóng Thăng Long và Vạn Kiếp. Đại quân của địch lại rơi vào tình thế cạn kiệt lương thực vì quân tải lương không theo kịp quân chiến đấu; vả lại, xung quanh nơi giặc đóng, nhân dân bỏ đi hết, kho lẫm trống rỗng; muốn cướp được lương thực của dân thì quân địch phải chia lẻ từng toán, rời xa nơi đồn trại…

Đây chính lại là thời cơ để Hương binh, Lộ binh, dân binh Đại Việt phục kích, tiêu hao lực lượng địch một cách hiệu quả. Trong hoàn cảnh đó, nhân lúc địch lúng túng, vua Trần một mặt giả sai sứ sang trại giặc xin hòa ước; mặt khác, lại cho quân cảm tử đánh phá doanh trại giặc vào ban đêm.

Bí thế, chủ tướng giặc là Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đi đón đoàn thuyền tải lương  bằng đường biển do Trương Văn Hổ chỉ huy đã đến vùng biển Đông Bắc (Quảng Ninh ngày nay); đồng thời, dời đại bản doanh về Bắc Giang, sau khi  phá hủy thành Thăng Long cho bõ tức.

Vườn không nhà trống là của ai

Ra đến biển, Ô Mã Nhi rụng rời khi nhận được tin đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị thủy quân nhà Trần, dưới sự chỉ huy của danh tướng Trần Khánh Dư, đánh tan, mất toàn bộ số lương thực, khí giới (tháng 2-1288).

Không thể kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt khi lương thảo nuôi quân đã bị cạn kiệt và thời tiết đang dần chuyển sang mùa hè khiến đạo quân vốn quen nơi xứ lạnh phát sinh bệnh tật…, tháng 4-1288, Thoát Hoan buộc phải cho rút quân về nước theo hai hướng thủy, bộ. Thời cơ đã điểm, quân và dân nhà Trần đồng loạt tổng phản công, đánh thắng lớn quân địch ở ải Nội Bàng và sông Bạch Đằng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược nước ta lần thứ ba.

Hà Nội với kế sách “vườn không nhà trống”, “tiêu thổ kháng chiến” trong 60 ngày đêm khói lửa, mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).

Bảy thế kỷ sau, vào những năm giữa của thế kỷ 20, lịch sử chống giặc ngoại xâm bằng kế sách “vườn không nhà trống”, “tiêu thổ kháng chiến” lại được quân và dân Thăng Long-Hà Nội phát huy lên một tầm cao mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Kẻ xâm lược lần này là quân đội viễn chinh của thực dân Pháp. So sánh lực lượng giữa ta và địch tuy xấp xỉ về quân số, nhưng chúng có ưu thế tuyệt đối về trang bị kỹ thuật và kỹ thuật chiến đấu. Mặt khác, khi nổ ra kháng chiến ở Thủ đô, quân Pháp đã trong thế bố trí lực lượng xen kẽ với ta ở từng khu phố, từng khu vực, địa bàn.

Để làm thất bại âm mưu của địch, ta chủ động tiến công trước, rồi liên tục chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận lực lượng của chúng, giam chân địch trong thành phố càng lâu càng tốt, nhằm tạo điều kiện giúp cho cả nước có thời gian chuẩn bị mọi mặt chuyển sang thời chiến.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lực lượng vũ trang chủ động rút ra ngoài thành phố, nhằm bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Điều đáng quan tâm là, cùng với đó, chúng ta đã tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện kế sách “thanh dã”, ‘tiêu thổ kháng chiến”.

Ngay từ những ngày đầu chiến sự nổ ra, các gia đình trong mỗi phố đã quẳng bàn ghế, sập gụ, hòm xiểng, cánh cửa… ra đường phố, hình thành các ụ chướng ngại, chiến lũy để cản địch.

Công nhân hỏa xa, công nhân xe điện đẩy các toa tàu ra giữa đường phố; tự vệ hạ cây, ngả cột đèn chắn các ngã tư, ngã năm. Nhân dân nội thành tản cư ra các cửa ô đã cùng nhân dân ngoại thành đào hàng chục ki-lô-mét hào giao thông, hàng trăm công sự chiến đấu và phòng tránh; tham gia phá hoại đường sá, cầu cống, nhà cửa… để ngăn chặn địch.

Có thể nói, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có phần đóng góp đáng kể của quân và dân Hà Nội, nhất là trong thời kỳ đầu, với kế sách “thanh dã”, “tiêu thổ kháng chiến”, bỏ lại những thành phố, thị xã, làng mạc trống không, với khẩu hiệu “tản cư cũng là cứu nước”, lên chiến khu kháng chiến hẹn ngày trở về giải phóng Thủ đô…

Kế sách “thanh dã” là niềm tự hào trong chống giặc ngoại xâm của đất “Thăng Long ngàn năm văn hiến” và là một nét độc đáo trong di sản quân sự của dân tộc ta.

Mặc dù ngày nay, chiến tranh diễn ra với phương thức mới, hiện đại, vũ khí kỹ thuật cao… nhưng ưu điểm của dân tộc chống xâm lược và điểm yếu của kẻ đi xâm lược là bất biến, tuy mức độ có khác nhau. Kế sách “thanh dã” trong chống giặc ngoại xâm vì thế, vẫn cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thời kỳ mới.

HÀ THÀNH biên soạn.

Nguồn: https://vietsugiaithoai.com/ke-vuon-khong-nha-trong-duoc-nha-tran-ap-dung-tai-thang-long-trong-ba-cuoc-khang-chien-chong-nguyen-mong/

Tag: phim ai nhờ dị gió –