Vì sao trong thế kỷ 18 nông dân lại vùng lên đấu tranh chống chính quyền phong kiến

Vì sao trong thế kỉ XVIII, nông dân lại vùng lên đấu tranh chống chính quyền phong kiến?

...

Vì sao trong thế kỉ XVIII, nông dân lại vùng lên đấu tranh chống chính quyền phong kiến?

Vì sao trong thế kỉ XVIII, nông dân lại vùng lên đấu tranh chống chính quyền phong kiến?

A. Đời sống nông dân khổ cực do sự bóc lột của chính quyền phong kiến

B. Do tác động của các cuộc chiến tranh phong kiến

C. Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa

D. Do ảnh hưởng của khởi nghĩa nông dân ở Đàng Trong

Hướng dẫn

Đến thế kỉ XVIII, tình hình Đàng Ngoài chuyển biến xấu trên tất cả các lĩnh vực. Vua quan không quan tâm mà chỉ biết đục khoét nhân dân. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Mất mùa liên miên. Công thương nghiệp sa sút, chợ phố điêu tàn. Nông dân chết đói, người sống sót phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi.
⇒ Mâu thuẫn giữa nông dân với triều đình phong kiến phát triển gay gắt ⇒ nông dân vùng lên chống lại chính quyền phong kiến.
Đáp án cần chọn là: A

Ngân hàng trắc nghiệm lịch sử

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Chính trị, quân sự
  • 3 Hành chính
  • 4 Giáo dục khoa cử
  • 5 Kinh tế
  • 6 Đàng Trong sụp đổ
    • 6.1 Nguyên nhân
  • 7 Ảnh hưởng lịch sử
  • 8 Xem thêm
  • 9 Chú thích
  • 10 Tài liệu đương thời
  • 11 Tham khảo

Mục lục

  • 1 Quốc hiệu
    • 1.1 Nguồn gốc tên gọi
    • 1.2 Cải tạo từ "Trung Quốc"
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Sự thành lập nước Hậu Kim và triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu
    • 2.2 Khang Hy và sự củng cố quyền lực
    • 2.3 Thịnh trị thời Ung Chính và Càn Long
    • 2.4 Mở rộng đế chế
    • 2.5 Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng
    • 2.6 Nhà Thanh suy yếu và sự cai trị của Từ Hy Thái Hậu
      • 2.6.1 Khủng hoảng tài chính
      • 2.6.2 Lãnh thổ bị xâu xé
      • 2.6.3 Chiến tranh Pháp - Thanh
      • 2.6.4 Chiến tranh Nhật - Thanh
      • 2.6.5 Phong trào diệt Tây dương và Nghĩa Hòa Đoàn
      • 2.6.6 Liên quân 8 nước xâm phạm
    • 2.7 Sự sụp đổ của triều đại Mãn Thanh
  • 3 Chính trị
    • 3.1 Chính quyền
    • 3.2 Quan liêu
  • 4 Quân sự
    • 4.1 Những sự khởi đầu và sự phát triển đầu tiên
    • 4.2 Hòa bình và trì trệ
    • 4.3 Chuyển biến và hiện đại hoá
      • 4.3.1 Cải cách trong quân đội
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Quan đốc thương biện
    • 5.2 Lĩnh vực dân sinh
  • 6 Khoa học và kỹ thuật
    • 6.1 Phong trào Tây Dương vụ
      • 6.1.1 Tổng cục chế tạo Giang Nam
      • 6.1.2 Công binh xưởng Hán Dương
  • 7 Xã hội
    • 7.1 Tư bản nước ngoài xâm nhập
    • 7.2 Sự hình thành chủ nghĩa tư bản dân tộc
  • 8 Văn hóa
    • 8.1 Văn học
      • 8.1.1 Thơ và văn xuôi phi hư cấu
      • 8.1.2 Văn xuôi viễn tưởng
      • 8.1.3 Kịch
    • 8.2 Nghệ thuật thủ công
    • 8.3 Âm nhạc
  • 9 Thế phả nhà Thanh
  • 10 Xem thêm
  • 11 Ghi chú
  • 12 Chú thích
  • 13 Tham khảo
  • 14 Đọc thêm
  • 15 Liên kết ngoài

Quốc hiệu

Nguồn gốc tên gọi

Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập chính quyền Hậu Kim, đến năm 1636 thì Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành "Đại Thanh". Sau khi nhập quan, Đại Thanh trở thành một trong ba hoàng triều thống nhất Trung Quốc đặt chữ "Đại" vào quốc hiệu chính thức, sau Đại Nguyên và Đại Minh.[14] Lý do Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu không hề được sử liệu ghi chép chính xác, theo đó cũng có những giải thích cạnh tranh về ý nghĩa của Qīng (có nghĩa là "rõ ràng" hoặc "tinh khiết"). Tên có thể đã được chọn để phản ứng với tên của nhà Minh (明), bao gồm các yếu tố "nhật" (日) và "nguyệt" (月), cả hai đều gắn liền với yếu tố hỏa của hệ thống hoàng đạo Trung Quốc. Từ Thanh (清, qīng) bao gồm "thủy" (氵) và "thanh"[note 6] (青), cả hai nghĩa liên kết với nhau là "thủy thanh" có nghĩa là nước xanh. Cách viết này sẽ là ẩn dụ cho cuộc chinh phạt của quân Thanh tiêu diệt nhà Minh là thất bại của lửa bởi nước.[15] Hình ảnh về "nước" của tên mới cũng có thể có những liên quan đến đạo Phật về sự sáng suốt và giác ngộ và kết nối với Bồ tát Văn-thù-sư-lợi. "Thanh" cũng là tên của một số dòng sông ở Mãn Châu, tại một trong số đó Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã giành chiến thắng quan trọng vào năm 1619.[16] Cũng có thể xuất phát từ tên tiếng Mãn 「ᠳᠠᠢᠼᠢᠨ」(Daičin), có thể bắt nguồn từ một từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là "người thiện chiến, chiến binh",[17][18] và "Đại Thanh quốc" nghĩa là "thượng quốc" hoặc "quốc gia thiện chiến",[19][20] tuy nhiên quan điểm này vẫn còn gây tranh cãi, bởi có học giả đã khảo chứng từ ngôn ngữ và tài liệu lịch sử và chỉ ra rằng, những sách được biên soạn bởi những người thống trị nhà Thanh hoàn toàn không sử dụng cách nói này.[note 7]

Cải tạo từ "Trung Quốc"

Văn chương Trung Quốc (中國) trong một cuốn sách giáo khoa tiếng Trung, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ (song ngữ) được xuất bản trong triều đại nhà Thanh; đoạn văn hiển thị ở trên có nội dung: "Đất nước Trung Quốc của chúng tôi nằm ở Đông Á... Trong 5000 năm, văn hóa phát triển (ở đất nước Trung Quốc)... Vì chúng tôi là người Trung Quốc, làm sao chúng tôi không yêu Trung Quốc."

Sau khi chinh phục Trung Quốc bản thổ, Mãn Thanh thường gọi nhà nước của họ là Trung Quốc (tiếng Trung: 中國; bính âm: Zhōngguó, tiếng Mãn: ᡩᡠᠯᡳᠮᠪᠠᡳ
ᡤᡠᡵᡠᠨ
, chuyển tả: dulimbai gurun).[22][23] Các hoàng đế đã đánh đồng các vùng đất của Thanh quốc (bao gồm Đông Bắc Trung Quốc, Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng và các khu vực khác) là Trung Quốc trong cả hai tiếng Trung Quốc và tiếng Mãn Châu, xác định Trung Quốc là một quốc gia đa sắc tộc, và từ chối ý tưởng rằng Trung Quốc chỉ có nghĩa là khu vực người Hán. Các hoàng đế nhà Thanh tuyên bố rằng cả người Hán và không phải người Hán đều là một phần của Trung Quốc. Họ đã sử dụng cả Trung Quốc và "Thanh" để chỉ triều đại của mình trong các tài liệu chính thức. "Tiếng Trung Quốc" (Dulimbai gurun i bithe) bao gồm tiếng Trung Quốc, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ và "người Trung Quốc" (tiếng Trung: 中國之人; Hán-Việt: Trung Quốc chi nhân; bính âm: Zhōngguó zhī rén; tiếng Mãn: Dulimbai gurun i niyalma) đề cập đến tất cả các đối tượng của đế quốc.[24]

Năm 1689, khi Khang Hy ký kết Điều ước Nerchinsk (Ni Bố Sở) với Nga, lần đầu tiên sử dụng "Trung Quốc" như là tên quốc gia chính thức, đối ứng với "Nga",[note 8][25] từ Trung Quốc này chính là để chỉ Đế quốc Đại Thanh bao quát cả Mông Cổ và Đông Bắc Trung Quốc.[26] Khi nhà Thanh đã chinh phục Dzungaria vào năm 1759, họ tuyên bố rằng vùng đất mới đã bị thôn tính vào "Trung Quốc" (Dulimbai Gurun) trong đài tưởng niệm tiếng Mãn.[27][28] Phiên bản tiếng Mãn của Hiệp ước Kyakhta (1768), một hiệp ước với Đế quốc Nga liên quan đến quyền lực hình sự đối với kẻ cướp, được gọi là người từ nhà Thanh là "người từ trung quốc (Dulimbai Gurun)".[29] Đến nay, khái niệm "Trung Quốc" chính là từ khái niệm "Trung Quốc" mà nhà Thanh đắp nặn ra.

Lịch sử

Sự thành lập nước Hậu Kim và triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu

Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số du mục[30] ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1616. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu.

Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương (tiếng Mãn: Mukden), nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau.

Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn, vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết (Ejei) đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ngọc tỉ truyền quốc của hoàng đế nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực.

Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日, mặt trời) và nguyệt (月, Mặt Trăng), đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh (清) được cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều là mệnh thuỷ. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan toàn bộ nhà Minh. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang[31].

Chiếm Trung Nguyên cùng toàn bộ xứ sở Trung Quốc, nhà Thanh tuyên bố Thiên mệnh Trung Hoa trên khắp thiên hạ.

Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành[32] cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (Sùng Trinh Đế), vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan[33] (山海關) của nhà Minh.

Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới 6 tuổi nối nghiệp Hoàng Thái Cực vừa mất năm trước.

Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5 năm 1644, sau đó đánh chiếm kinh đô Bắc Kinh. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh (nhà Nam Minh), những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những nhóm vũ trang cát cứ khác kéo dài thêm 17 năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanmar hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.

Khang Hy và sự củng cố quyền lực

Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722)

Hoàng đế Khang Hy (1661 - 1722) lên ngôi khi mới 8 tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Hiếu Trang Thái Hoàng Thái Hậu giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều.

Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên mệnh" là một nhiệm vụ hết sức to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng.

Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa phong kiến (藩王 - phiên vương), và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế (吳三桂), được trao các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỷ (尚可喜) và Cảnh Trọng Minh (耿仲明) được giao cai quản các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên.

Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỷ thỉnh cầu Khang Hy, bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương Liêu Đông (遼東) và chỉ định con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hy, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng đất đó cho triều đình.

Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai Thượng Khả Hỷ là Thượng Chi Tín (尚之信) thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang (長江). Dù vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là Loạn Tam Phiên.

Để củng cố đế chế, Khang Hy đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn công Tây Tạng, người Dzungar; và sau này, ông đánh cả Đế quốc Nga, nhưng phần lớn bị Pyotr I tấn công dữ dội cho tới chân Vạn lý trường thành. Ông dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình với vị Khả Hãn Mông Cổ là Chuẩn Cát Nhĩ nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh Kinh là Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽,) (cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài Loan từ tay thực dân Hà Lan). Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền lực của mình kể từ thời nhà Minh.

Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh.

Thịnh trị thời Ung Chính và Càn Long

Bình của người hành hương, sứ cảnh lam. Nhà Thanh, giai đoạn Càn Long thế kỷ 18.

Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính (trị vì 1722 - 1735) và con trai ông Hoàng đế Càn Long (trị vì 1735 - 1796) đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu km2 lãnh thổ.

Sau khi Khang Hy qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân vương (雍親王) Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi, và trong những năm cuối cùng thời Khang Hy, ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh giành quyền lực chính trị với các anh em của mình.

Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt. Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết.

Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Trinh (胤禵). Tuy nhiên, những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726.

Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ (軍機處), trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình.

Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai thứ tư ông, Bảo Thân Vương (寶親王) Hoằng Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần Tân Cương và Mông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên.

Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh (1796 - 1820) buộc phải tự sát.

Mở rộng đế chế

Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sáp nhập. Họ đã chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ đã thất bại trước nước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18, cho tới khi Đế quốc Nga xâm chiếm Trung Á vào thế kỉ 19.

Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng

Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy, Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực.

Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi:

  • Trước tiên, nhà Thanh phải đối mặt với khó khăn giống như những triều đại trước: giai cấp địa chủ không ngừng gia tăng thôn tính ruộng đất và bóc lột, khiến cho phần lớn nông dân tự canh phá sản, mất đi ruộng đất, trở thành tá điền hoặc lưu dân, bị buộc phải chấp nhận những điều kiện hà khắc, chấp nhận mức tô càng nặng nề hơn trước. Bởi thế, tình trạng bần cùng hoá giai cấp nông dân trở nên phổ biến, đẩy họ vào hoàn cảnh đói rét vô cùng bi thảm. Thời Càn Long, tình trạng địa chủ thôn tính ruộng đất đã cực kỳ nghiêm trọng, "trong 10 người thì 1-2 kẻ sở hữu đất đai, 3-4 người không có ruộng để cày, còn tá điền thì chiếm đến 4-5 người". Một số lượng lớn nông dân bị ép phải rời bỏ quê hương, trở thành lưu dân, lưu lạc tha hương. Chỉ riêng thành Bắc Kinh đã có 10 vạn ăn mày. Triều đình nhà Thanh đối với vấn đề này không một kế sách khả thi, số lượng dân đói, dân lưu lạc ngày càng tăng, mâu thuẫn giai cấp xã hội ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ kinh tế vì thế dẫn tới đấu tranh chính trị, cung cấp điều kiện xã hội ngày càng chín muồi cho các cuộc khởi nghĩa nông dân. Tả Tông Đường đã đánh giá về tình hình kinh tế các tầng lớp ở nông thôn như sau: "Trong 10 người thì giàu có bất quá được 1, 2 kẻ, còn lại đều lao động bần khổ, hoặc làm giấy, hoặc trồng khoai thay lương, năm được mùa còn phải mua ngũ cốc tiếp hoang, năm mất mùa lấy đâu ra no đủ?" Các tổ chức phản kháng như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, Niệm đảng, Bái Thượng đế giáo... đã thừa cơ mở rộng lực lượng, tổ chức khuyên răn dẫn dắt dân đói, dân lưu lạc tham gia đấu tranh phản Thanh nhằm tìm con đường sống.
  • Sau 150 năm hòa bình, nhà Thanh gặp vấn nạn bùng nổ dân số: Thời kì đầu nhà Thanh, do chiến tranh khiến dân số sụt giảm nhiều, triều đình tiến hành chính sách khuyến khích sinh sản, từ "tư sinh nhân đinh, vĩnh bất gia phú" thời Khang Hy tới "than đinh nhân mẫu" thời Ung Chính đều xoá bỏ thuế đầu người, cổ vũ khuyến khích nhân dân sinh đẻ. Xã hội ổn định, không có chiến tranh, kinh tế từng bước phát triển, việc du nhập các loại cây lương thực mới (ngô, khoai lang) đã cung cấp điều kiện thuận lợi cho việc tăng sức sinh sản. Vậy là dân số tăng lên nhanh chóng, trong vòng 100 năm từ năm Càn Long thứ 6 (1741) tới năm Đạo Quang thứ 20 (1840), dân số từ 140 triệu tăng vọt lên tới 410 triệu, tăng gần 3 lần, hiện tượng này trước đó chưa từng xảy ra. Nhà Thanh là xã hội phong kiến nông nghiệp lấy nông nghiệp làm nền tảng quốc gia, việc sản xuất của cải vật chất cơ bản dựa vào nông nghiệp. Nhưng diện tích đất đai canh tác thì không thể tăng thêm, nên bình quân đất canh tác tính trên đầu người ngày càng giảm. Tới giữa thời Càn Long, bình quân đất canh tác còn được 4,25 mẫu/người, vẫn đủ để người nông dân nuôi sống gia đình. Đến giữa những năm Gia Khánh - Đạo Quang, bình quân đất canh tác đã giảm xuống còn 2,19 mẫu, người nông dân đã vô cùng khốn quẫn, khó duy trì nổi sinh kế của gia đình, giá lương thực cao vọt, giá mỗi thạch gạo chưa tới 1.000 quan tiền thời Khang Hy nay lên tới 3.000 quan tiền. Đến lúc Hàm Phong lên ngôi (năm 1851), bình quân đất canh tác tính trên đầu người chỉ còn 1,78 mẫu, nông dân không có đất canh tác phải lưu lạc đầy rẫy, gia nhập giang hồ cướp của.
  • Nhà Thanh từ giữa thời Càn Long chứng kiến sự tha hóa, hủ bại của đội ngũ quan lại: Đại học sĩ Hòa Thân chuyên quyền, công khai ăn hối lộ, bẻ cong luật pháp, mua quan bán tước nhưng lại được Càn Long dung túng. Trào lưu thanh chính nghiêm minh nơi quan trường chính trị thời Khang Hy – Ung Chính đã thay đổi, sa ngã xuống vũng bùn hủ bại tham lam. Quan lại "lấy việc ăn uống mỹ sắc làm tri kỷ, liêm sỉ cốt ở danh tiếng, cướp lợi lộc là hiền tài, nghiên cứu nghĩa lý là mê hoặc". Hoàng đế Gia Khánh sửa sai bằng cách nghiêm trị Hòa Thân, vua Đạo Quang thì đề cao tiết kiệm, nhưng tệ nạn tham nhũng đã tích tụ bao năm qua đã không cách nào trừ bỏ được. Quan lại địa phương tự đặt ra luật lệ, cướp đoạt tại chỗ, việc lại trị ngày càng sa sút. Chương Học Thành chỉ ra, thời Gia Khánh – Đạo Quang, khoản tiền mà quan lại địa phương ăn hối lộ, gấp mười lần, thậm chí gấp trăm lần trước kia, "nhà cửa, đồ dùng xa hoa hơn chư hầu thời xưa rất nhiều, kẻ trên người dưới tranh nhau lợi, kẻ giàu sang làm điều ác mà chẳng bị truy cứu, người nghèo khó có oan mà không nói được".
  • Thời Đạo Quang còn phải đối mặt với sự xâm lấn của các cường quốc thực dân phương Tây. Trước tiên là việc nhập lậu thuốc phiện lan tràn cả nước. Tiền bạc chảy ra ngoài, nguồn bạc thiếu thốn, nạn thiếu tài chính lộ rõ. Theo thống kê, trong khoảng thời gian trước chiến tranh nha phiến 10 năm, số nha phiến nhập lậu lên tới 23,8 triệu thùng, trung bình mỗi năm 2,4 triệu thùng, trung bình mỗi năm Trung Quốc tiêu tốn 16,3 triệu lạng bạc cho thuốc phiện. Sau chiến tranh nha phiến năm 1841, nhà Thanh phải bồi thường chiến phí, lại phải chấp nhận cho phương tây tự do buôn thuốc phiện, tình hình tài chính của Thanh triều càng thêm tồi tệ. Theo tấu trình của Trác Bỉnh Điềm, từ năm 1840 đến năm 1849, các khoản chi ngoại ngạch "đã hơn 70 triệu lạng". Tổng cộng trong giai đoạn 1830 – 1848, trong khoảng thời gian 19 năm, tổng số bạc chảy ra ngoài đã đạt tới hơn 120.200.000 lạng, nhiều hơn 3 lần thu nhập tài chính trong một năm của triều đình (hơn 40 triệu lạng). Quốc khố cạn kiệt, khi vua Đạo Quang qua đời, ngân khố của bộ Hộ chỉ còn 9.000.000 lạng bạc. Không chỉ vậy, thuốc phiện còn đầu độc nhân dân Trung Quốc, khiến sức khỏe người dân sa sút, đầu óc trở nên mê muội, nhiều gia đình tan cửa nát nhà vì nghiện thuốc phiện, đó là thiệt hại không thể đo đếm bằng tiền.

Đối diện với suy thế, nhiều nhà trí thức có đầu óc nhạy bén như Lâm Tắc Từ, Cung Tự Trân đã sớm nhận ra nguy cơ họa loạn với đất nước. Họ thấy xã hội rối ren, ngày càng thêm loạn, các thế lực phản Thanh đang nhanh chóng tụ tập lực lượng. "Gió tích đủ thì sẽ thành bão", một cuộc chiến loạn long trời lở đất đã sắp nổ ra. Họ chủ trương "biến pháp", sau này có Ngụy Nguyên đề xuất "biến cổ", hướng đến mục tiêu chấn hưng Thanh triều, thực hiện cải cách trong lòng chế độ. Nhưng tất cả đề xuất của họ đều không được triều đình tiếp thu.

Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ 19 là kết quả của hàng loạt mâu thuẫn xã hội đã tích tụ suốt 150 năm, nay tới lúc phải bùng nổ. Đây là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động.

Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình.

Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, các đế chế châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới.

Tới cuối thế kỷ mười tám, các thuộc địa của châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của châu Âu và cho rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh.

Cờ nhà Thanh, 1889-1912
Carte de l'Empire chinois et du Japon, 1833, Conrad Malte-Brun, 1837.

Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô hạn cho hàng hóa châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia châu Âu phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ châu Âu và nhà Thanh.

Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc.

Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường.

Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước Nam Kinh, buộc họ phải trả khoản bồi thường 21 triệu lạng bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy tình trạng bất ổn định của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra.

Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái bình thiên quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu.

Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, khiến cho Nhà Thanh phải ký Hiệp ước Thiên Tân với Đế quốc Anh

Nhà Thanh suy yếu và sự cai trị của Từ Hy Thái Hậu

Trong bức tranh này, Trung Quốc bị ví như miếng bánh đang bị Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật chia nhau

Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hy Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một phi tần của Hàm Phong (1850-1861), nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hy đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" (垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài).

Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật (1894-1895), khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mất lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn.

Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự (1875 - 1908) là những năm nhà Thanh cố gắng tiến hành biến pháp và cải cách nhằm phát triển đất nước. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách 100 ngày (百日維新, Bách nhật duy tân), còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" (戊戌變法), đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vy được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hy dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hy chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải.

Khủng hoảng tài chính

Sau khi điều ước Nam Kinh năm 1842, nhà Thanh ngày càng chịu nhiều khủng hoảng. Thuốc phiện nhập vào ồ ạt mà không được ngăn cấm, thứ nhì là lụa sa, vải nhập khẩu khiến vải nội địa không thể cạnh tranh nổi. Từ năm 1890, số lượng sa, vải nhập khẩu mỗi năm lên đến 1 vạn vạn lượng, so với 60 năm về trước gia tăng 80%. Tiền dùng để mua hàng đều lấy từ xuất khẩu lương thực, nhưng lương thực thường không đủ nên nạn đói xảy ra, vùng Hoa Bắc nghèo khổ lại càng nặng nề. Trà, tơ vốn là nguồn xuất khẩu lớn; từ năm 1880 bị Ấn Độ và Nhật sản xuất nhiều, trà bị cạnh tranh nên trước kia chiếm đến 54% lượng xuất khẩu lúc này bị giáng xuống chỉ còn 18%; riêng tơ cũng bị giảm nhiều.

Nạn đói kém do hạn hán, lụt lội xảy ra rất nhiều tại phương bắc. Năm 1877-1878 thiên tai xảy ra tại các tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, số người chết vô số kể. Từ năm 1855, sông Hoàng Hà tại phía đông tỉnh Hà Nam bị vỡ; dòng sông trước kia chảy qua phía bắc tỉnh Giang Tô, đổi sang tỉnh Sơn Đông; sông mới hẹp nước chảy khó khăn, nên đê thường bị vỡ. Tháng 9/1887, vỡ đê tại Trịnh Châu [Hà Nam], nước chảy vào các sông Giả Lỗ, Hoài khiến vùng phía đông Hà Nam, phía bắc An Huy bị thiệt hại nặng. Tháng 1/1889, bắt đầu chặn dòng, hậu quả hơn 1 triệu người chết, tiêu tốn ngân khoản 10 triệu lượng. Cùng năm đó cho đến năm sau, tại tỉnh Sơn Đông lại có thêm hai lần vỡ đê. Từ năm 1892-1898, đê vỡ thường xuyên, nhà cửa trôi dạt, người và súc vật chết vô số; khu vực bị thiên tai riêng tỉnh Sơn Đông có đến 60 châu, huyện; tỉnh Trực Lệ đến 26 châu, huyện. Vào các năm 1888, 1890, 1892, 1893, 1896, sông Vĩnh Định liên tục bị vỡ đê, chỗ bị vỡ từ 10 trượng đến hơn 100 trượng; khu vực bị thiên tai tại tỉnh Trực Lệ lên đến 26 châu, huyện. Năm 1899, tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Sơn Tây, cùng phía bắc Giang Tô bị hạn hán lâu, thực phẩm thiếu thốn, khiến người nghèo phải đem con đi bán.

Chính phủ nhà Thanh vơ vét cũng là nguyên nhân khiến nhân dân chịu thống khổ. Triều đình phải vơ vét do chi tiêu gia tăng, nguồn tài chính kiệt quệ. Tài chính kiệt quệ do bởi nhiều năm chiến loạn, cung đình tiêu xài nhiều, chẩn tế cho các thiên tai, nhu cầu bởi chính sách đổi mới, và quan trọng nhất là tiền bồi thường cho nước ngoài. Từ năm 1895 trở về trước, mỗi năm phải trả nợ và tiền lời khoảng 3-4 trăm vạn lượng, còn có thể gắng sức gánh vác được. Sau chiến tranh Giáp Ngọ (1894) tiền vay về chi phí chiến tranh khoảng 1.200 vạn lượng, tiền bồi thường cho Nhật khoảng 2.600 vạn lượng, tất cả đều phải vay, mỗi năm phải trả 2.300 vạn lượng. Do vậy phải khấu trừ tiền dưỡng liêm, tăng thuế ly kim, thuế ruộng; tăng các sắc thuế về gạo, trà, muối, đường, thuốc phiện, thuốc lá, rượu và quyên thu các thương gia, nhưng cũng không đủ. Năm 1898, phát hành Chiêu tín cổ phiếu, 10.000 vạn lượng, bằng mọi cách áp lực dân phải mua, nhưng chỉ thu được không quá 1000 vạn lượng. Căn cứ báo cáo của bộ Hộ mỗi năm tiền trả nợ ngoại quốc, tiền quân vụ, dương vụ [cải cách thuyền binh], tiền tiêu của trung ương và địa phương, tổng cộng gần 100 triệu lượng, nhưng thu nhập quốc khố chỉ có 80 triệu lượng, số tiền thiếu hụt khoảng 20 triệu lượng.

Lãnh thổ bị xâu xé

Viễn Đông là khu vực trọng điểm để các nước tư bản chủ nghĩa giành giật. Trong quá trình các nước lớn ở phương Tây liên tục mở rộng xâm lược ra nước ngoài, vùng biên giới Trung Quốc ngày càng bị uy hiếp nghiêm trọng. Nhật, Mỹ đưa quân xâm lược Đài Loan; Nga, Anh nhòm ngó Tân Cương; nước Anh rình mò Vân Nam, Tây Tạng, Pháp đe dọa Quảng Tây - Quảng Đông, tất cả đã tạo nên những nguy cơ mới ở vùng biên giới Trung Quốc, nguy cơ ngoại xâm đến từ tứ phía.[34]

Ở vùng biên giới Tây Bắc, Điều ước Bắc Kinh năm 1860 đã khiến nhà Thanh mất hàng trăm nghìn km2 lãnh thổ phía bắc và tây bắc. Tháng 10 năm 1864, Sa hoàng Nga lại cưỡng bức chính phủ Thanh ký "Ghi nhớ vể việc thăm dò vùng biên giới Tây Bắc" giữa hai nước Trung – Nga, tổng cộng đã chiếm 910.000 km2 lãnh thổ Ngoại Mãn Châu ở phía tây bắc của Trung Quốc.

Năm 1864, người Hồi ở Tân Cương do ảnh hưởng cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh của người Hồi vùng Thiểm Cam đã phát động cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh trên quy mô lớn. Năm 1865, nước Khiết Hãn Đan đã cử A Cổ Bách mang quân tiến vào Tân Cương, chiếm được Ca Thận Cát Nhĩ. Sau hai năm, A Cổ Bách tuyên bố thành lập "nước Triết Đức Nhĩ" (gồm bảy thành quốc), tự coi là Hãn. Năm 1870, A Cổ Bách đã khống chế toàn bộ vùng nam Tân Cương và một bộ phận của bắc Tân Cương. Nước Anh muốn dùng Ấn Độ làm bàn đạp xâm chiếm Tây Tạng, nhòm ngó Tân Cương. Năm 1874, nước Anh cùng A Cổ Bách chính thức ký điều ước thừa nhận chính quyền A Cổ Bách, cung cấp vũ khí đạn dược với điều kiện được những đặc quyền buôn bán, đóng quân, lập lãnh sự quán trong khu vực A Cổ Bách thống trị.

Những năm 1870, nước Pháp đã dùng vũ lực chiếm Việt Nam, láng giềng của Trung Quốc. Tháng 12 năm 1883, quân Pháp bất ngờ tấn công vào Trung Quốc ở biên giới Trung – Việt. May nhờ có tướng Phùng Tử Tài anh dũng kháng cự, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, mới có thể bảo vệ được vùng Lưỡng Quảng khỏi họa ngoại xâm bởi thực dân Pháp.

Năm 1867, chính phủ Mỹ mượn cớ bảy thuỷ thủ trên tàu La Phật bị nạn ở Đài Loan, ngang nhiên đưa hai chiến hạm cùng 181 thuỷ quân lục chiến đổ bộ lên phía nam đảo Đài Loan, tấn công nhân dân tộc Cao Sơn ở đây.

Từ những năm 1870 trở đi, Nhật Bản đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất xâm lược đảo Đài Loan. Năm 1875, Nhật Bản huy động hơn 3.000 hải lục quân do Tây Hương Tùng Đạo chỉ huy ngang nhiên tấn công Đài Loan. Tháng 5, quân Nhật đổ bộ lên đất liền ở phía nam đảo. Người dân Đài Loan kháng cự quyết liệt. Ngày 31 tháng 10, hai bên Trung – Nhật ký "Chuyên ước về Đài Loan" (còn gọi là "Chuyên ước Bắc Kinh") có ba khoản, quy định Trung Quốc "thưởng" cho Nhật Bản 500.000 lượng bạc, coi đó là điều kiện để quân Nhật rút khỏi Đài Loan. Chuyên ước còn gọi nhân dân tộc Cao Sơn ở Đài Loan đã từng "gây ra thiệt hại cho dân của Nhật Bản", Nhật Bản xâm lược Đài Loan là "nghĩa cử bảo vệ cho dân". Sau đó, Nhật Bản đã dựa vào điều này yêu cầu Trung Quốc thừa nhận Lưu Cầu là nước phụ thuộc Nhật Bản, đến năm 1879 chính thức thôn tính Lưu Cầu, lật đổ Quốc vương, đổi Lưu Cầu thành huyện Xung Thằng (nay là Okinawa).

Do bị các nước xâm chiếm lãnh thổ nên diện tích của nhà Thanh từ 13,1 triệu km2 vào năm 1790 đã tụt xuống còn 11,5 triệu km2 vào năm 1870.

Chiến tranh Pháp - Thanh

Với việc Hồng Kông rơi vào tay người Anh từ sau Chiến tranh nha phiến, con đường giao thương mà Pháp lựa chọn là thông qua phía bắc Việt Nam đến các tỉnh phía tây nam Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc thời nhà Thanh không chịu từ bỏ quyền kiểm soát và chi phối Việt Nam. Căng thẳng Pháp-Thanh đẩy lên cao trào sau khi quân Thanh đánh úp lực lượng Pháp trong trận Bắc Lệ, cách Lạng Sơn gần 30km vào tháng 6/1884.

Sau hai thất bại trong 2 cuộc Chiến tranh nha phiến, triều đình nhà Thanh dưới thời Từ Hi Thái Hậu bắt đầu quan tâm tới việc hiện đại hóa quân sự. Nhà Thanh khi đó sở hữu hạm đội Nam Dương với quy mô khá hùng hậu nhất. Lực lượng chủ lực của hạm đội được đặt ở Thượng Hải, trong đó tàu tuần dương Kaiji được đánh giá mạnh nhất trong khu vực. Tổng cộng cả hạm đội có 20 tàu chiến, trong đó có 5 tàu vỏ sắt và 2 tàu vỏ thép lượng giãn nước 2.200 tấn. Thiết giáp hạm Jinou trong hạm đội còn được châu Âu gọi là "cơn ác mộng". Đến tháng 7/1884, hạm đội Nam Dương được bổ sung thêm hai tàu tuần dương vỏ thép do Đức đóng mới, khởi hành từ Đức vào tháng 3/1884.

Tháng 8/1884, hạm đội hùng hậu của Pháp bao gồm 7 tàu chiến và 2 tàu phóng lôi nổ súng tấn công các tàu Trung Quốc cách Phúc Châu vài km. Trận đánh diễn ra chỉ vỏn vẹn 30 phút các tàu chiến Pháp đánh chìm 9 tàu chiến của nhà Thanh, bao gồm cả tàu được vũ trang hạng nặng.

Ngày hôm sau, tàu chiến Pháp pháo kích và phá hủy công xưởng quân Thanh. Tới ngày 25 tháng 8, hạm đội Pháp hướng ra biển, trên đường đi họ bắn phá và dễ dàng tiêu diệt tất cả các pháo lũy của nhà Thanh bố trí dọc theo bờ sông. Trong suốt quãng thời gian diễn ra chiến dịch, hải quân Pháp chỉ để một tàu tuần dương ở ngoài khơi Thượng Hải, giám sát hoạt động của hạm đội Nam Dương. Trên thực tế, hạm đội mạnh nhất của nhà Thanh khi đó án binh bất động, thậm chí không chặn đường tàu tuần dương Pháp khi nó rút khỏi khu vực.

Sau trận Phúc Châu, hải quân Pháp tiếp tục tiến lên phía bắc, phong tỏa eo biển Đài Loan. Để phá vòng vây của quân Pháp, nhà Thanh điều hạm đội Nam Dương khởi hành từ Thượng Hải. Nhưng vì mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền Thanh Triều mà lực lượng chặn đánh hải quân Pháp chỉ có 5 tàu chiến, bao gồm 3 tàu tuần dương. Tới mãi tận giữa tháng 2 năm 1885, hạm đội quân Thanh mới đến vịnh Thạch Phổ và chạm trán hạm đội Pháp. Hạm đội Pháp với ưu thế vượt trội về hỏa lực khiến các tàu chiến quân Thanh rút lui. Hai tàu nhỏ hơn không chạy kịp bị tàu chiến Pháp đánh chìm. 3 tàu tuần dương còn lại chạy về được đến Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang thì bị hải quân Pháp phong tỏa và không có bất kỳ một đóng góp quân sự gì cho tới khi chiến tranh kết thúc. Trận đánh này cũng kết thúc xung đột Pháp-Thanh trên biển.

Quân Thanh do Phùng Tử Tài chỉ huy phản công chiếm ải Nam Quan

Tuy thất bại trên biển, nhưng trên bộ, quân Thanh giành được một chiến thắng lớn ở Trận Lạng Sơn (1885). Quân Thanh dưới sự lãnh đạo của vị tướng dũng cảm, giàu kinh nghiệm là Phùng Tử Tài đã đánh thắng quân Pháp. Trong trận Lạng Sơn, Phùng Tử Tài dẫn đầu quân lính giết được nhiều quân địch, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, thừa thắng đánh Lạng Sơn, tình thế cuộc đấu tranh chống Pháp có nhiều thuận lợi. Dọc đường chạy tháo thân, quân Pháp đã vứt cả súng đại bác, hòm đạn, quẳng cả đồ đạc, hành lý xuống sông, đốt giấy tờ sổ sách, đập vỡ cả máy điện tín. Thanh Sử Cảo quyển 527 chép: "Ngày 9 tháng 1 năm Quang Tự thứ 11 (1885), quân Pháp đánh Trấn Nam quan, bắn vỡ cửa quan rồi đi. Ngày 13 tháng 2 chiếm lại Lạng Sơn, quân Pháp đều tháo chạy. Phùng Tử Tài tiến quân đánh Lạp Mộc, đánh ép vào Lang Giáp, Vương Hiếu Kỳ tiến quân tới Quý Môn quan, lấy lại được hết vùng biên giới năm trước. Dân Việt Nam lập ra năm đại đoàn Trung nghĩa hơn hai vạn người, đều dùng cờ xí của quân Phùng. Tây Cống cũng nghe tiếng liên lạc, từ khi thông hải đến nay, Trung Quốc đánh nhau với nước ngoài chỉ có trận này là thắng lớn, là công của Tử Tài vậy"

Quân Pháp đại bại khiến Chính phủ Jules Ferry ở Paris bị đổ, nhưng cuối cùng triều Thanh bạc nhược đã ký kết hiệp ước nhằm chấm dứt chiến tranh. Kể từ ngày 9 tháng 6 năm 1885 (ngày ký Hiệp ước Thiên Tân mới), nhà Thanh chính thức thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Nhà Thanh không những bị tổn hại uy tín, tổn thất hạm đội Phúc Kiến, để cảng Phúc Châu bị phá hủy, kéo theo tổn thất về kinh tế nặng nề lên tới 100 triệu lạng bạc và phải bồi thường Pháp chiến phí 20 triệu lạng bạc. Vậy là nhà Thanh đang trên đà thắng bỗng nhiên phải chịu thua thiệt.

Chiến tranh Nhật - Thanh

Cuối thế kỷ 19, Trung Quốc dưới thời nhà Thanh suy yếu từng bước bị phương Tây xâu xé. Đế quốc Nhật Bản cũng bắt đầu nhòm ngó, nước này muốn đánh chiếm Triều Tiên (khi đó là một chư hầu dưới sự bảo trợ của nhà Thanh). Nhật Bản đã áp đặt Hòa ước Giang Hoa lên Triều Tiên, ép Triều Tiên phải tự mở cửa cho người Nhật và ngoại thương và tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại.

Mặc dù Quân đội Bắc Dương - Lục quân Bắc Dương và Hạm đội Bắc Dương – được trang bị tốt nhất và tượng trưng cho quân đội Thanh hiện đại, song tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng làm xói mòn sức mạnh quân đội. Các quan lại nhà Thanh biển thủ công quỹ một cách có hệ thống, thậm chí ngay cả trong giai đoạn chiến tranh. Kết quả là, Hạm đội Bắc Dương không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1868. Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được Từ Hy Thái hậu chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh. Hậu cần gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của quân đội Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương và uy thế, việc sử dụng thuốc phiện, và lãnh đạo kém góp phần vào những cuộc thất bại nhục nhã của quân Thanh trong cuộc chiến, ví dụ như việc bỏ đồn Uy Hải Vệ được trang bị tốt và hoàn toàn có thể phòng ngự.

Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh được trang bị mạnh với 78 chiến thuyền được nhập khẩu từ phương Tây, tổng lượng giãn nước 83.900 tấn, xét về số lượng thì vượt trội so với hạm đội Nhật. Ấy thế nhưng do chỉ huy và huấn luyện kém, hạm đội này đã bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn. Ở trên bộ cũng vậy, quân Nhật đánh thắng quân Thanh như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã chiếm toàn bộ Triều Tiên.

Hòa ước Mã Quan ký ngày 17 tháng 4 năm 1895 theo đó nhà Thanh công nhận sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại bán đảo Liêu Đông (ngày nay là phía Nam tỉnh Liêu Ninh) cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc bồi thường chiến phí. Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào sông Trường Giang, mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lấy 30 triệu lạng bạc (450 triệu yen).

Đây là một đòn chí mạng vào nhà Thanh và truyền thống cổ truyền Trung Quốc. Trước kia nhà Thanh thua Anh, Pháp đều là các nước phương Tây ở xa tới. Còn Nhật Bản vốn là một nước láng giềng, mà Trung Quốc từ lâu luôn xem là một chư hầu nhỏ bé và kém cỏi, thì nay đã đánh bại chính Trung Quốc. Các nước phương Tây thấy sự yếu kém của nhà Thanh nên sau đó cũng tham gia xâu xé Trung Quốc. Trước tiên là Đế quốc Đức mượn cớ hai Giáo sĩ truyền đạo bị giết ở Sơn Đông, xuất binh chiếm lĩnh vịnh Giao Châu. Một tháng sau, nước Nga lại xuất binh chiếm lĩnh Đại Liên và cảng Lữ Thuận, khống chế vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nước Pháp thì đem quân tới Vân Nam và Lưỡng Quảng; Nhật Bản lại chiếm cứ Phúc Kiến; nước Anh lại cưỡng bức phải cho thuê cảng, mở rộng phạm vi quản lý Cửu Long. Trong vài năm, đế quốc Đại Thanh liên tiếp bị mất đất.

Cuộc chiến cũng đã hé lộ sự thiếu hiệu quả của triều đình, các chính sách, sự tham nhũng trong hệ thống hành chính và sự mục nát của nhà Thanh (điều đã được nhận rõ từ hàng thập kỷ trước đó). Tình cảm bài ngoại công khai tăng lên và sau này lên tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn 5 năm sau đó. Trong suốt thế kỷ 19, nhà Thanh không thể ngăn ngừa được sự xâm phạm lãnh thổ của nước ngoài — điều này cùng với lời kêu gọi cải cách và nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn sẽ là nhân tố chủ chốt dẫn đến cuộc cách mạng năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912.

Phong trào diệt Tây dương và Nghĩa Hòa Đoàn

Thiên tai và nhân họa là hai yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn của người dân, nhưng nhân họa là tối quan trọng. Nhân họa, thứ nhất do quan bắt đóng thuế nặng; thứ hai do người Tây phương hà hiếp, cạnh tranh hàng hóa, cướp công ăn việc làm, rồi đến tiền bồi thường chiến tranh cho ngoại quốc gây nên thuế khoá nặng. Do mối oán kết tập bởi người Tây dương, việc các nhà truyền giáo xâm nhập Trung Quốc, càng gây giận dữ trực tiếp đến người dân. Người dân coi người Tây phương là mối họa chính, họ nghĩ quét sạch Tây phương thiên hạ sẽ thái bình; giáo sĩ và giáo dân là kẻ thù trực tiếp.

Vào năm 1885, giáo dân tại Trùng Khánh gây hấn với các thí sinh, số thí sinh tử thương 30 người, dân chúng nổi giận đốt giáo đường, Trung Quốc phải bồi thường 20 vạn lượng. Năm 1890, Dư Đống Thần, tại Đại Túc [Trùng Khánh] phía đông Tứ Xuyên, lãnh đạo đánh phá giáo đồ, phần lớn thành phần tham gia thuộc Ca Lão hội, hương đoàn; hạch tội rằng 30 năm ròng Tây dương khinh rẻ Trung Quốc, giáo sĩ truyền giáo không tuân pháp luật.

Từ năm 1898-1899, các nước phương Tây xâu xé Trung Quốc hết sức mãnh liệt, thì sự động loạn trong nước cũng hết sức nghiêm trọng, xảy ra suốt các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, Hà Nam, An Huy, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông; ở nhưng Tứ Xuyên, Quảng Tây, Trực Lệ và Sơn Đông là nặng nhất. Tại Tứ Xuyên vẫn do Dư Đống Thần lãnh đạo, tái khởi sự vào năm 1898, đồ đảng của Dư Đống Thần ước 1 vạn người, trực tiếp quấy nhiễu hơn 10 châu thuộc phía đông tỉnh Tứ Xuyên; gián tiếp ảnh hưởng hơn 30 châu. Họ truyền hịch văn chỉ trích Tây dương với các tội trạng như:

"Thuyền bè Tây dương thông thương tại biển, Gia Tô truyền đạo, chiếm đoạt sinh kế làm ruộng, nuôi tằm; phế luân thường đạo vua tôi, dùng nha phiến độc hại trung thổ, lấy dâm xảo khuynh loát lòng người. Mê hoặc nhân dân ta, khinh mạn triều đình ta, nắm quan phủ, chiếm nơi đô hội, lừa đảo lấy tiền bạc, coi tính mệnh trẻ em rẻ như quả dưa, nợ đòi nặng như gò núi. Đốt Hoàng cung, diệt thuộc quốc của ta. Đã chiếm Thượng Hải, lại cắt Đài Loan, lập cảng tại Giao Châu [Sơn Đông], muốn cắt đất nước ta ra từng mảnh. Từ xưa đến nay, Di Địch hoành hành, chưa hề xảy ra như ngày hôm nay".

Tứ Xuyên nhiều núi bao quanh, liên lạc với bên ngoài không dễ nên ảnh hưởng của Dư Đống Thần chỉ hạn chế trong một vùng. Riêng Nghĩa Hoà đoàn khởi sự tại đông bắc thì tình thế khác hẳn, cuối cùng tạo thành biến cố to lớn tại Trung Quốc.

Sơn Đông là khu vực Thiên Chúa giáo hoạt động sớm nhất, giáo dân toàn tỉnh khoảng 8 vạn người, phần lớn tại phía tây Sơn Đông, ven hai bên bờ Vận Hà. Vào năm 1888, nước Đức nắm quyền bảo hộ tôn giáo tại Sơn Đông, giáo sĩ càng hoành hành, cưỡng chiếm đất đai, bao che án kiện, bênh vực bọn xấu, tự tiện thu thuế; nhân dân trong cảnh nằm trên dao thớt, các quan phủ cũng bị hiếp chế. Các giáo sĩ của Thiên Chúa giáo đã đem hết khả năng giúp nước Đức chiếm Giao Châu Loan, còn thường xuyên doạ dẫm quan phủ, áp bức nhân dân, làm quần chúng tức giận cao độ, nó trực tiếp dẫn tới sự bùng nổ của cuộc vận động Nghĩa Hoà Đoàn. Năm 1895, quân Nhật đánh Uy Hải Vệ, chiếm cứ trong 3 năm, dày xéo các vùng Đăng Châu, Lai Châu. Năm 1897, Giao Châu Loan cùng các thành trì phụ cận bị người Đức chiếm cứ. Năm 1898, người Nhật đi, người Anh lại đến; 2 cảng nam bắc Sơn Đông đều do ngoại quốc chiếm.

Lúc đầu Nghĩa Hoà quyền lưu hành tại vùng ven bờ Vận Hà, là nơi giáo đồ tụ tập, nên gây ra sự tranh chấp. Lý Bỉnh Hoành nhậm chức Tuần phủ Sơn Đông [1895-1897] coi Nghĩa Hoà quyền là nghĩa dân, nên số người theo càng đông, có các tên riêng như Đại Đao hội, Hồng Đăng Chiếu, tự cho là "luyện Nghĩa Hòa quyền có thể tránh pháo súng… hưng đại Thanh, diệt Dương giáo". Mùa xuân năm 1899, khí thế Nghĩa Hoà đoàn dấy lên, đến nơi thì giết giáo dân, phá giáo đường; treo cờ màu đỏ vàng với hàng chữ "Thần lực Nghĩa Hoà đoàn, quét sạch tà giáo, diệt Tây Dương".

Sau khi bị trấn áp của Viên Thế Khải năm 1899, Nghĩa Hoà đoàn chạy lên phía bắc, dọc đường phát tán yết thị "Đạo Thiên Chúa và nhà thờ Gia Tô huỷ báng thần thánh, trên thì lừa vua tôi Trung Hoa, dưới thì áp bức nhân dân, thần và dân đều giận… Bọn ta luyện tập được Nghĩa Hoà thần quyền, sẽ bảo hộ trung nguyên, xua đuổi giặc Tây dương". Bắc Kinh là nơi Công sứ ngoại quốc trú đóng, vua tôi Trung Quốc trực tiếp chịu sự khinh nhờn của ngoại quốc; Thiên Tân là chốn tập trung của người Tây dương, dân Trung Hoa thường bị đàn áp; cả hai nơi là mục tiêu chính của Nghĩa Hoà đoàn.

Hành động của Nghĩa Hoà đoàn và những người dân ủng hộ tuy mang tính mê tín, nhưng động cơ thì không thể mạt sát. Đó là sự phản kháng tự phát của nhân dân trước mối họa đất nước bị xâm chiếm, bị ngoại bang giày xéo trong khi triều đình thì hủ bại và bạc nhược.

Liên quân 8 nước xâm phạm

Trước tháng 5/1900, Từ Hy Thái hậu chưa có quyết tâm liều thắng bại với Tây phương. Sau khi Nghĩa Hòa đoàn xuất hiện, nhiều tôn thất quý tộc, các quan trụ cột triều đình thấy vui mừng, đều cho rằng Nghĩa Hòa đoàn là nghĩa dân trung quân ái quốc, có pháp thuật đích xác, lòng người tại ngoài kinh thành đều hướng đến họ. Từ Hy bảo "Các quân Mãn, Hán đều thông đồng với chúng nó [Nghĩa Hoà đoàn], do đó không dám nói việc đánh dẹp", lời nói này xét ra đúng sự thực.

Vào ngày 9/6/1900, Từ Hy mệnh Đổng Phúc Tường mang quân vào đóng trong kinh thành; Đổng Phúc Tường nói "Phụng mệnh Thái hậu tiêu diệt quân Tây dương, mệnh Nghĩa Hoà đoàn làm tiên phong, quân ta tiếp ứng". Đại đội nghĩa Hoà đoàn hùng dũng tiến vào kinh thành, nơi nơi đều thiết lập thần đàn, dăng cao biểu ngữ "Phụng chỉ Nghĩa Hoà đoàn", " Nghĩa Hoà Thần quyền" hoặc "Trợ Thanh diệt Dương, thế thiên hành đạo"

Ngày 12/6, bộ hạ của Đổng bắt đầu đốt phá, quấy nhiễu các khu giáo dân, cùng các tiệm bán hàng cho người Tây dương, khiến ánh lửa cháy ngút trời, suốt đêm la giết. Đến ngày 13, số giáo dân bị giết ở Bắc Kinh là hơn 300 người. Tình hình tại Thiên Tân tương đồng, cục điện báo và hải quan đều bị phá huỷ, giáo dân phải chạy đi tỵ nạn.

Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước (八國聯軍) cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Ngày 16/6, Từ Hy cử hành hội nghị triều đình hơn 100 người; hai phái phản đối và ủng hộ Nghĩa Hoà đoàn cùng tranh biện. Một trong những người phản đối là Tổng thự Viên Sưởng cho rằng "Nghĩa Hoà đoàn chính là dân làm loạn, không thể nào dựa được. Từ xưa tới nay chưa bao giờ có chuyện nhờ những bọn như vậy mà thành việc lớn". Từ Hy bác rằng "Pháp thuật không dựa được, nhưng lòng người lại không dựa được ư! Ngày hôm nay Trung Quốc suy nhược đến cùng cực, chỗ dựa chỉ còn nhân tâm mà thôi, nếu để nhân tâm mất đi, lấy gì mà dựng nước?"

Vào 8 giờ sáng ngày 17/6, liên quân đánh chiếm pháo đài tại Đại Cô; 3 giờ chiều cùng ngày, chiếu ban hội nghị khẩn cấp tại Ngự Tiền, Từ Hy tuyên dụ:

"Mới đây Tây dương đòi 4 điều: thứ nhất, chỉ rõ một địa điểm để Hoàng đế cư trú; thứ hai, thay mặt thu tiền lương tại các tỉnh; thứ ba, thay mặt nắm binh quyền trong nước… Hôm nay đánh nhau do tại họ, nước mất tại trước mắt, nếu cứ chắp tay mà nhường, ta không còn mặt mũi thấy liệt Thánh; nếu đợi mất, hãy đánh một trận rồi mất không hơn hay sao?"

Từ Hy nói với các Đại thần rằng "Chuyện ngày hôm nay, các Đại thần đã nghe rồi; ta vì giang sơn xã tắc, bất đắc dĩ tuyên chiến. Sự việc không biết được như thế nào, nếu như sau cuộc chiến, giang sơn xã tắc không giữ được; các vị ngày hôm nay tại đây, biết sự khổ tâm của ta, đừng quy lỗi riêng cho ta bảo Hoàng thái hậu làm mất 300 năm thiên hạ Đại Thanh".

Trong cuộc họp vào ngày 19/6, Từ Hy biểu thị tối hậu quyết tâm, hạn Công sứ các nước phải ra khỏi kinh đô trong 24 giờ, mệnh Dụ Lộc triệu tập Nghĩa Hoà đoàn trợ giúp quan quân chống cự Tây dương. Sáng ngày 20 triệu tập Quân cơ đại thần tuyên bố khai chiến. Ngày 21/6 hạ chiếu tuyên chiến, đả kích kịch liệt về việc 30 năm nay Trung Quốc bị ngoại bang áp bức:

"...Khinh nhục quốc gia ta, xâm lấn đất đai ta, dày xéo dân ta, hạch sách của cải; triều đình càng nhường nhịn, bọn chúng càng hung hoành, ngày càng quá quắt, không gì không làm. Nhỏ thì áp bức nhân dân, lớn thì khinh mạn thần thánh, con dân nước ta cùng chung lửa hận, ai mà chịu cam tâm; đó là do lai tại sao nghĩa dũng đốt giáo đường, giết giáo dân. Triều đình vẫn không gây hấn, che chở như trước… Bọn chúng không biết cảm khích, lại còn buông tuồng đòi hỏi chèn ép… công nhiên đòi ta phải rút khỏi pháo đài Đại Cô. Trong sự giao thiệp với lân quốc hàng ngày, ta chưa từng thất lễ với họ; bọn chúng tự xưng là nước có giáo hoá lại vô lễ hoành hành, chuyên dựa vào binh mạnh, khí giới sắc bén… Trẫm nay khóc cáo tiên miếu, khẳng khái thề với quân dân, so với việc cẩu thả mong sống còn, lưu nhục đến vạn cổ; chi bằng ra tay đánh dẹp, nhất quyết thư hùng. Qua mấy ngày triệu kiến Đại thần, bàn mưu đồng lòng, các tỉnh gần kinh kỳ như Sơn Đông, nghĩa dũng tụ tập không dưới mấy chục vạn, cho đến các nhi đồng cũng có thể cầm qua bảo vệ xã tắc. Chúng dùng mưu xảo trá, ta dựa vào lẽ trời; chúng dựa vào sức lực hung hãn, ta dựa vào nhân tâm. Nhân dân ta lấy nhân nghĩa làm giáp trụ, lấy lễ nghĩa làm khí giới, người người liều chết với giặc; với đất đai hơn 22 tỉnh, dân cư hơn 400 triệu, không khó dẹp sự hung dữ của các ngươi, để biểu dương uy thế quốc gia."

Thư tuyên chiến trình bày sự thực, lời văn bi tráng, có được phần nào sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Tiếc rằng việc tuyên chiến của Từ Hy không xét kỹ đến thời thế, làm liều một mất một còn, tuyên chiến cùng lúc với nhiều nước nên thế thua đã rõ.

Sau khi tuyên chiến, hàng loạt địa phương diễn ra việc người dân truy sát giáo dân, giáo sĩ vì cho đó là tay sai của quân Tây dương. Thống kê cả nước số giáo sĩ bị giết khoảng 250 người, phần lớn người nước Anh, tiếp đến các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, số giáo dân nhà bị phá, người bị giết có đến hàng vạn.

Tại Thiên Tân, ngày 17/6, pháo đài Đại Cô mất, quân Thanh và Nghĩa Hoà đoàn vây đánh tô giới Thiên Tân. Lực lượng liên quân tại Đại Cô, trước hết giải vây tô giới Thiên Tân, chiếm cục cơ khí, rồi tấn công thành Thiên Tân. Vũ Vệ quân chống cự trong 9 ngày, Niếp Sĩ Thành tử trận; Mã Ngọc Côn đánh tô giới cũng thua; Thiên Tân đến ngày 14/7 bị địch vây hãm. Ở Thiên Tân, các chiến sỹ Nghĩa Hoà Đoàn và quân xâm lược chiến đấu quyết liệt, một bộ phận quân Thanh do ảnh hưởng của Nghĩa Hoà Đoàn cũng tham gia chiến đấu bảo vệ Thiên Tân. Cuối cùng, Thiên Tân thất thủ nhưng Nghĩa Hoà Đoàn cũng đã tiêu diệt được hơn 1.000 quân địch, giáng cho chúng một đòn nặng. Liên quân càng hung tàn, tử thi chồng chất, phòng ốc bị phá huỷ 8-9 phần 10. Sau đó các nước phân chia khu vực chiếm lãnh, càn quét không dừng, số đông phụ nữ bị ô nhục. Ngày 30 tháng 7, tạm thi hành "Quản lý trong ngoài quận thành địa phương sự vụ nha môn" thì việc sống chết, cướp đoạt tự ý thi hành.

Sau khi Thiên Tân thất thủ, ngày 4/8, liên quân 8 nước hành quân đánh chiếm Bắc Kinh, cánh bên trái gồm 8.000 quân Nhật, 3.000 quân Anh, 2.000 quân Mỹ; cánh bên phải 4.000 quân Nga, 800 quân Pháp; quân Áo, Ý khoảng mấy chục người, tổng cộng 18.000 người. Quân Đức không giữ được vị trí trọng yếu, tạm không tham gia. Ngày mồng 5, liên quân chiếm Bắc Thương [Thiên Tân], đánh bại quân Tống Khánh, Mã Ngọc Côn. Ngày mồng 6, chiếm Dương Thôn (Thiên Tân), Tổng đốc Dụ Lộc tự tử. Ngày 9-10 chiếm trấn Hà Tây Vụ [Thiên Tân], Vũ vệ quân Bang biện Lý Bỉnh Hoành tự vẫn. Ngày 14/8, liên quân trên đường tiến vào Bắc Kinh, giải vây cho Sứ quán, tính thời gian bị vây tổng cộng 55 ngày.

Vào năm 1860, quân Tây dương vào chiếm Bắc Kinh trong 18 ngày, mối tai hại chưa quá lớn. Lần này quân số đông, thời gian đến 13 tuần, việc cướp đoạt, báo thù, giết chóc có hệ thống. Ngày 23/8 quân Đức bắt đầu đến nơi, sau đó hơn một tháng viên Tư lệnh Đức Von Waldersee (Ngoã Đức Tây) đến, cư trú trong Tử Cấm thành, hành vi rất tàn ác. Quân Đức khoảng 20.000, quân Nhật 22.000; Nga, Anh quân mỗi nước 20.000; quân Pháp 15.000, quân Mỹ 7.000, Ý 2.000, Tỷ Lợi Thì 600, quân Áo 140; tổng cộng hơn 100.000. Nghĩa Hoà đoàn và quân Thanh tan vỡ, những người dân buôn chết không biết bao nhiêu. "Trên đường thi thể khắp nơi, nhiều quân Thanh đốt lửa tự thiêu, hoặc đóng cửa tự tử; đại ước trong cấm thành, một trăm nhà thì còn lại không đến mươi nhà", đó là lời kể của người Trung Hoa. Riêng người Nhật miêu tả như sau "Phố xá huỷ hoại khoảng 2 hoặc 3/10, phụ nữ bị người ta làm nhục, liên quân đốc suất quân sĩ càn quét cướp phá. Vàng, bạc, châu ngọc thì không cần phải nói; ngoài ra sách, tranh vẽ, y phục, xe, ngựa, những vật bán ra tiền đều bị dân, hoặc quân lính lấy. Các nơi trong thành thấy thây đàn ông mặc triều phục, thi thể phụ nữ mặc quần hồng, y phục trong nội cung". Người Tây phương cũng chép tương tự; những bảo vật tại Di Hoà viên bị liên quân cướp đoạt, chuyển vận không ngừng cả tháng đến Thiên Tân. Quân Nhật thì đã lấy mất số tiền 300 vạn lượng lưu tại bộ Hộ.

Chỉ một thời gian ngắn, nhà Thanh đã để mất Bắc Kinh, Từ Hy cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Bà khóc nói với viên Tri huyện Ngô Vĩnh về hoàn cảnh trải qua, viên này ghi lại một cách sinh động qua quyển sách "Canh Tý tây thú túng đàm" như sau: "Suốt ngày đi đến mấy trăm lý… không được ăn uống, đã lạnh lại đói… tối hôm qua ta và vua ngồi trên chiếc phản, dựa lưng vào nhau, chờ cho đến sáng".

Liên quân bất thường hành quân tại Bắc Kinh và Thiên Tân. Tướng Von Waldersee và 2 vạn quân Đức tích cực ra tay; sau tháng 10 hợp với quân Anh, Pháp, Ý tiến công Bảo Định tại phía tây nam Bắc Kinh, giết viên Án sát Đình Ung; phía nam và trung tỉnh Trực Lệ cũng chịu cảnh dày xéo. Một cánh quân hướng tây bắc, chiếm Trương Gia Khẩu (Hà Bắc); một cánh quân theo hướng đông nam, tiến tới biên giới tỉnh Sơn Đông; lại còn đạo quân Pháp đánh Sơn Tây, uy hiếp Tây An. Từ tháng 12/1900 cho đến tháng 4/1901, liên quân xuất quân 46 lần, trong đó 35 lần do quân Đức đơn độc hành động. Giáo dân người Trung Quốc kết thành đội, cướp phá bốn phương, xưng là "Phụng mệnh phục cừu", đây là lệnh của các giáo sĩ Công giáo nhằm trợ giúp cho quân ngoại xâm.

Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ.

Hòa ước 7 tháng 9 năm 1901 buộc nhà Thanh phải xử tử các quan lại ủng hộ Nghĩa Hòa đoàn, cung cấp cho binh lính ngoại quốc đóng tại Bắc Kinh, bồi thường chiến phí 67 triệu bảng Anh (tương đương với 450 triệu lạng bạc), tức nhiều hơn tiền thuế của triều đình trong một năm, trả trong 39 năm cho liên minh 8 nước[35]

Sự sụp đổ của triều đại Mãn Thanh

Quân đội nhà Mãn Thanh vào giữa thế kỷ 19 có phẩm chất tướng lãnh ngày càng xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân... Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, vốn thiếu trung thành với triều đình trung ương. Các sĩ quan trung thành với cấp trên của họ và hình thành những bè phái dựa trên vị trí địa lý. Các đơn vị quân đội tuyển quân ngay tại tỉnh đó. Chính sách này là nhằm giảm sự hiểu nhầm phương ngữ nhưng lại khuyến khích khuynh hướng cát cứ, địa phương hóa. Nhà Thanh đã đi vào vết xe sụp đổ của nhà Hán và nhà Đường trong quá khứ.

Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này, Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Ái Tân Giác La. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn.

Phổ Nghi: Hoàng Đế cuối cùng của Nhà Thanh

Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, Chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc Dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng (內閣總理大臣 Nội các tổng lý đại thần) và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hoá thông qua các chỉ thị của Hiếu Định Cảnh hoàng hậu.

Thanh Đế Thoái Vị Chiếu Thư (1912) chấm dứt chế độ quân chủ ở Trung Quốc

Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến.

Tương tự như vậy, Chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của vị ấu vương, Phổ Nghi. Nhà Thanh đến đây kết thúc sau 12 triều vua, truyền được 295 năm (trong đó có 267 năm là triều đại chính thống của toàn Trung Hoa).

Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ.

Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm.