Vị sao nói bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê sơ được tổ chức chặt chẽ hoàn chỉnh nhất

Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ? Tổ chức quân đội thời Lê Sơ? Luật pháp thời Lê Sơ? Kinh tế xã hội thời Lê Sơ? Nhận xét về bộ máy chính quyền thời Lê Sơ?

Dưới sự cai trị của Nhà Hồ, nước ta với quốc hiệu Đại Ngu chỉ tồn tại được 7 năm trong lịch sử. Cho đến năm 1407, nhà Minh xâm lược Đại Ngu và cai trị cho đến năm 1427. Vào năm 1428, sau khi giành độc lập, dưới sự lãnh đạo Lê Lợi nước ta đã đánh đuổi được giặc Minh đã lấy lại tên Đại Việt đặt làm quốc hiệu. Từ đây thời Lê Sơ bắt đầu, tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện.

Vị sao nói bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê sơ được tổ chức chặt chẽ hoàn chỉnh nhất

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ:

– Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt, tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước mới.

Chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua, Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc, đại tổng quản, đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ, ngoài ra còn có một số cơ quan chuyên môn.

Sáu bộ thời vua Lê Thánh Tông là : Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư. Các cơ quan chuyên môn có Hàn lâm viện (soạn thảo công văn), Quốc sư viện (viết sư), Ngự sử đài (can gián vua và các triều thần). Ở địa phương, thời vua Lê Thái Tổ và Lê Nhân Tông, cả nước được chia làm 5 đạo.

Dưới đạo là phủ, huyện miền núi gọi là châu), xã. Đến thời vua Lê Thánh Tông, đổi chia 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu mỗi đạo bằng 3 tỉ phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Đô ty phụ trách quân sự, an ninh. Hiện thi phụ trách việc thanh tra quan lại, xử án, pháp luật. Thừa tỉ phụ trách việc hành chính, hộ tịch, thuế khoá. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã.

13 đạo thừa tuyên là: Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Nam và một phủ Trung Đô (Thăng Long). – Quan sát lược đồ nước Đại Việt thời Lê sơ và danh sách 13 đạo thừa tuyên,

VUA:

=> TRUNG ƯƠNG: sáu bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công; các bộ chuyên môn: Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Ngự sử đài.

=> ĐỊA PHƯƠNG: Đạo Thừa Tuyên => Phủ => Huyện => Xã

2. Tổ chức quân đội thời Lê sơ:

Quân đội thời Lê sơ được tổ chức theo chế độ “ngụ binh ư nông” : khi đất nước có ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân ; khi hoà bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quận ở các địa phương bao gồm bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh. Vũ khí có đao, kiếm, giáo, mác, cung tên, hòa đồng, hỏa pháo.

Hằng năm, quân lính được luyện tập võ nghệ, chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ, không để xâm lấn. Vua Lê Thánh Tông căn dặn các quan trong triều : “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại vứt bỏ ? Phải cương quyết tranh biện chở cho họ lấn dần, nếu họ không nghe còn có thể sại sự sang tận triều đình của họ, trình bày rõ điều ngày lễ gian. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mới cho giặc, thì tôi phải tru di.

3. Luật pháp thời Lê sơ:

Dưới thời các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, pháp luật đã được chú ý xây dựng. Vua Lê Thánh Tông cho biên soạn và ban hành một bộ luật mới gọi là bộ Quốc triều hình luật hay Luật Hồng Đức).

Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua, hoàng tộc ; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị, địa chủ phong kiến. Đặc biệt, bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ.

4. Kinh tế xã hội thời Lê Sơ:

Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, nước ta đã làm vào tình trạng xóm làng điêu tàn, ruộng đồng bỏ hoang, đời sống nhân dân cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sử, Hà để sử, Đồn điền sứ, định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân đền, cấm giết trâu bò bừa bài, câm điều động dân phú trong mua cây gạt. Để khai phá vùng đất hội ven biển, nhà Lê đắp nhiều con đê ngăn nước mặn có kẻ đã chắc chắn. Di tích những đoạn đê đó đến nay vẫn còn nhân dân thường gọi là đê Hồng Đức”, ở Thanh Hoá, nhiều sông đào được khai từ thế kỉ XV, đến nay còn mang tên “Nông nhà Lê”.

Các ngành, nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v,v… ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.

Các làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng bấy giờ có làng Hợp Lễ, Chu Đậu (Hải Dương), Bát Tràng (Hà Nội) làm đồ gốm làng Đại Bái (Bắc Ninh) đúc đồng làng Vân Chàng (Nam Định) nên sắt v,v..

Các phường thủ công ở kinh thành Thăng Long như : phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lua, phường Yên Thái làm giấy, phường Hàng Đào nhuộm điều v.. Các công xưởng do nhà nước quản lý, gọi là Cục bách tác, sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiến động các nghề khai mỏ đồng sắt, vàng được đẩy mạnh.

Nhà vua khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều lệ cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.

Trong dân gian, thể có đàn là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng với ngày họp chợ cũ hay trước ngày họp chợ của chợ cũ để tránh tình trạng giành tranh khách hàng của nhau, (Điều lệ họp chợ – Đại Việt sử ký toàn thư) Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì Thuyển bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh, Hội Thống và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa, lâm sản quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.

Xã hội Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư, sống chủ yếu nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất, phải cày ruộng đất công nộp tô, thuế, đi phục dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu…) hoặc phái cày cấy ruộng thuế của địa chủ, quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng. Nông dân là giai cấp bị bóc lột, nghèo khổ trong xã hội.

Tầng lớp thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông hơn, họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng. Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội, bao gồm cả người Việt, người Hoa, dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy, số lượng nô tì giảm dần. Nhờ sự nỗ lực của nhân dân và chính sách khuyến nông của nhà nước, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng.

5. Nhận xét về bộ máy chính quyền thời Lê Sơ:

Từ các triều đại trước, việc tổ chức bộ máy còn sơ sài, chủ yếu là tổ chức theo cơ chế trung ương đến địa phương, dưới địa phương tồn tại đến quận, huyện, châu, còn cấp hành chính xã chưa được chú trọng và hầu như chỉ là về mặt hình thức.

Đến thời Lê sơ thì các vị vua đã dần hoàn thiện bộ máy nhà nước để quản lý đất nước chặt chẽ và nhằm mục đích phát triển kinh tế, quan tâm về mặt xã hội đến được tất cả những người dân. Các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền cấp xã dưới thời Lê sơ lúc bấy giờ được tổ chức chặt chẽ.

Đến thời vua Lê Thánh Tông, tổ chức bộ máy nhà nước được coi là hoàn chỉnh và chặt chẽ nhất so với các đời vua trước, Triều đình dưới thời Vua Lê Thánh Tông có đầy đủ các bộ, tự, các khoa và các cơ quan chuyên môn. Hệ thống thanh tra giám sát giám sát được tăng cường từ triều đình đến địa phương, điều này giúp các vị vua có thể ổn định được đất nước, tập trung phát triển kinh tế đất nước cường thịnh.

Với cái nhìn tiến bộ và khách quan, các vị vua thời Lê sơ đã tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ, làm nền tảng vững chắc trong việc quản lý đất nước cũng như phát triển đất nước toàn diện, thành công đưa Đại Việt trở thành nước phát triển nhất khu vực Đông Nam Á thời điểm bấy giờ, đấy được xem là thành công nhất của thời Lê Sơ.

1

Thời Lê Sơ: Bộ máy NN Trung ương là: Vua, tiếp đến là 6 Bộ, Ngự sử đài và hàn Lâm Viện.
Ở địa phươg chia làm 5 - 13 đạo thừa tuyên, mỗi đạo có 3 ti (đô ti, Thừa ti, Hiến ti)
Dưới đạo là Phủ, huyện, châu, xã.
Dưới thời nhà lê, bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế cao độ và hoàn chỉnh.
Quân đội gồm quân triều đình và quân địa phương, được luyện tập võ thường xuyên.
2

bộ máy nhà nước thời Lê Sơ hoàn chỉnh hơn

Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã, thôn.Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc đại tổng quản đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần.Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:* Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;* Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;* Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;* Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;* Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;* Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.

Ngay sau khi giành được quyền lực, thành lập nhà Lê, trừ một số ít người như Nguyễn Trãi, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lương Thế Vinh, Đinh Liệt... phần lớn các quan lại (nhất là các công thần) đều có biểu hiện tham ô. Năm 1438, thấy thiên tai xuất hiện liên tục, Lê Thái Tông phải hạ chiếu tự trách và tự hỏi: "Phải vì hối lộ công hành mà trời phạt chăng?". Lê Thánh Tông thì than:"Trên thì Tể tướng, dưới thì bách quan, hùa nhau kiếm lợi, hối lộ công hành".

Công thần bậc nhất như Thái phó Lê Văn Linh làm nguyên lão 3 triều, chuyên nghề vơ vét dân chúng tới nỗi các đồng liêu cũng phải kêu, Tổng quản Lê Thụ bắt dân về xây nhà riêng cho mình, tham nhũng rất nhiều nhưng khi bị đưa ra pháp trường thì được tha vì là công thần. Con Lê Thụ là Lê Quát cũng ỷ lấy được công chúa, bắt cấp dưới phải nộp trâu, dê. Các quan dưới lại bắt dân phải nộp những thứ này cho họ