Trong thành phần ở đầu que diêm có lưu huỳnh photpho KClO3 đỏ là photpho trắng hay đỏ vì sao

Đầu diêm chứa hỗn hợp antimony trisulphide và potassium chlorate [kali clorat], gắn chặt với nhau bằng keo dính. Antimony trisulphide có thể bốc cháy ở một nhiệt độ tương đối thấp và tia lửa bé nhỏ vừa loé lên kia cũng đủ nóng để đốt cháy nó. Potassium chlorate chứa nhiều ôxy, nuôi ngọn lửa cho đến khi nó lan vào phần thân làm bằng gỗ của que diêm.

Nguyên lí hoạt động:

Bề mặt vỏ hộp, nơi ta “quẹt” que diêm vào, có một lớp hỗn hợp bột ma sát, phốt pho đỏ và keo dán. Hơi nóng phát ra do ma sát sẽ biến đổi phốt pho đỏ thành phốt pho trắng. Chất này không bền trong điều kiện nhiệt độ phòng và tự bốc cháy khi tiếp xúc với không khí. Tia lửa loé lên sẽ làm đầu que diêm cháy theo.

Từ khi có lửa nền văn minh nhân loại đã chuyển sang một trang mới, có thể nói lửa là phát minh vĩ đại nhất của loài người.Trải qua nhiều thế kỉ, con người đã dần dần cải tiến cách tạo ra lửa. Trước đây, con người lấy lửa từ Mặt trời, dùng 2 viên đá lửa quyẹt vào nhau,dùng dùi gỗ khoan vào võ cây…Và đến nay cải tiến hơn nữa đó là chúng ta đã dùng diêm để tạo ra lửa. Có khi nào bạn tự hỏi tại sao chỉ cần quyẹt nhẹ que diêm một cái là chúng ta có ngọn lửa? Bí mật của que diêm nằm ở vỏ hộp và đầu que diêm. Bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu nguyên lý hoạt động của diêm nhé. Trước tiên chúng ta xét bề mặt vỏ hộp nơi quẹt lửa. Bề mặt vỏ hộp được bôi một lớp bột ma sát gồm có phốt pho đỏ và keo dán. Nhiệt phát ra do mat sát biến phốt pho đỏ thành phot pho trắng. Phốt Pho trắng là chất không bền, dễ bốc cháy ở nhiệt độ phòng khi tiếp xúc với không khí :  4P + 5O2 = 2P2O5

Tia lửa sinh ra đốt cháy đầu que diêm. Đầu que diêm chứa hỗn hơp antimony trisulphide [S6Sb4 hoặc S3Sb2] và potassium chlorate [KClO3], được gắn chặt với nhau bằng keo dính. antimony trisulphide là chất dễ bị oxi hóa ở nhiệt độ thấp và tạo ra lực ma sát lớn.

                                      S6Sb4 + 9O2 = 6SO2 + 2Sb2O3

Đồng thời KClO3 cũng bị nhiệt phân tạo ra oxi cũng cấp cho quá trình đốt cháy antimony trisulphide : 2KClO3 = 2KCl + 3O2.

Và thế là chúng ta có lửa.

Ước mơ học cách tạo ra lửa để sưởi ấm và nấu chín thức ăn đã dẫn đến việc con người làm ra nhiều loại “diêm” khác nhau. Người nguyên thuỷ đánh ra lửa từ chất Silic và hy vọng rằng nó có thể đốt cháy dược lá khô. Hàng nghìn năm sau những người La Mã cổ cũng chẳng tiến thêm dược mấy trong việc tạo ra lửa. Họ đánh hai hòn đá vào nhau và những tia lửa thu được thì cố gắng đốt cháy những que đóm tẩm lưu huỳnh.
Vào thời trung cổ người ta cố gắng đốt cháy những miếng giẻ khô bằng những tia lửa thu được bằng cách đánh Silic và sắt. Những chất liệu dễ cháy này được gọi là các dây cháy. Những que diêm hiện đại được làm từ những que gỗ nhỏ bọc phôtxpho ở đầu. Phôtxpho là chất rất dễ cháy ngay cả ở nhiệt độ rất thấp. Vào năm 1681 một người Anh tên là Robert Boie đã nhúng que đóm tẩm lưu huỳnh vào dung dịch lưu huỳnh và phốtxpho và thế là những que diêm đã ra đời. Tuy nhiên những que diêm này cháy quá nhanh nên hiệu quả sử dụng không cao. Những que diêm thực sự được làm ở Anh do bàn tay của người dược sĩ có tên là John Walker. Để đốt những que diêm này cần phải quẹt chúng vào giữa nếp gấp của tờ giấy mà trên đó đã được rắc một lớp bột thuỷ tinh .

Năm 1833 những que diêm bọc phôtxpho đã ra đời ở Áo và Đức nhưng có một vấn đề đã nảy sinh vì phôtxpho trắng và vàng rất độc hại đối với những công nhân sản xuất diêm cho nên năm 1906 đã bị cấm sản xuất trên toàn thế giới.

Cuối cùng người ta đã tìm ra một loại phôtxpho đỏ không độc để sản xuất ra những que diêm an toàn hơn. Những que diêm an toàn đầu tiên đã được sản xuất ở Thuỵ Sỹ vào năm 1844. Giờ đây thay vì bọc lên đầu que diêm tất cả những chất hoá học cần thiết thì ngày nay người ta bôi phốtxpho đỏ lên bề mặt của hộp và ta chỉ cần quẹt que diêm vào đó.
Vào thời kì thế chiến lần thứ hai có rất nhiều đoàn quân chinh chiến ở vùng Thái Bình Dương nơi rất hay có mưa nên những que diêm bình thường tỏ ra kém hiệu quả. Lúc bấy giờ ông Raimôn Kađi đã làm ra một chất bọc lên những que diêm để có thể đốt được ngay cả trong trời mưa.

Phân loại:

Có hai loại: diêm ma sát, và diêm an toàn. Diêm ma sát do nhà hoá học người Anh, John Walker, sáng chế năm 1827. Đầu que bôi một hỗn hợp gồm lưu huỳnh, phốt pho trắng, ôxít chì, ôxít măng gan. Để nhóm lửa bằng loại diêm này, bạn có thể đánh que diêm vào bất kỳ một bề mặt thô ráp nào [để tạo ma sát], như gạch, giấy cát, thậm chí cả…ria mép. Nhân vật “gã lang thang” Sáclô trong phim hài của Charlie Chaplin đã “quẹt” diêm vào cả… đũng quần. Ma sát sinh ra nhiệt, ở 40 độ C thì que diêm bắt lửa. Hạn chế lớn của loại diêm này là phốt pho trắng rất độc, ngoài ra cứ hễ va chạm là que diêm phát hỏa, lắm phen gây hoả hoạn.

Diêm an toàn do một người Thuỵ Điển tên là Johan Lundstrom phát minh ra năm 1855, khắc phục được hạn chế trên. Phốt pho trắng đem đun trong chân không đến 300 độ C, trở thành phốt pho đỏ, không cháy do ma sát, nhưng trộn với potassium chlorate thì thành chất dễ cháy nổ. Người sản xuất tách riêng hai thành phần này, để một nằm trên đầu diêm, một nằm trên vỏ hộp đi kèm. Khi dùng, bạn phải “quẹt” que vào vỏ thì mới có lửa, an toàn hơn.

Tại sao đầu que diêm màu hồng khi đốt cháy nó lại chuyển sang màu đen?

* Tại sao đầu que diêm màu hồng khi đốt cháy nó lại chuyển sang màu đen?

Hoàng Sỹ Lợi, Quảng Trạch, Quảng Bình

Bề mặt gai bên vỏ hộp, nơi ta “quẹt” que diêm vào, có một lớp hỗn hợp bột ma sát, phốt pho đỏ và keo dán. Hơi nóng phát ra do ma sát sẽ biến đổi phốt pho đỏ thành phốt pho trắng. Chất này không bền trong điều kiện nhiệt độ phòng và tự bốc cháy khi tiếp xúc với không khí. Tia lửa loé lên sẽ làm đầu que diêm cháy theo.

Đầu diêm chứa hỗn hợp antimony trisulphid [Sb2S3] và potassium chlorate [kali clorat- KClO3], gắn chặt với nhau bằng keo dính. Trong keo dính thường có pha phẩm đỏ cho đẹp. Antimony trisulphid có thể bốc cháy ở một nhiệt độ tương đối thấp và tia lửa bé nhỏ vừa loé lên kia cũng đủ nóng để đốt cháy nó. Potassium chlorate chứa nhiều ôxy, nuôi ngọn lửa cho đến khi nó lan vào phần thân làm bằng gỗ của que diêm. Thế là chúng ta có lửa. Cháy xong thì tất cả biến thành than nên có màu đen. Có thế thôi mà.

Có hai loại: Diêm ma sát, và diêm an toàn. Diêm ma sát do nhà hoá học người Anh, John Walker, sáng chế năm 1827. Đầu que bôi một hỗn hợp gồm lưu huỳnh, phốt pho trắng, ôxít chì, ôxít măng gan. Bạn có thể đánh que diêm vào bất kỳ một bề mặt thô ráp nào [để tạo ma sát]. Diêm an toàn do một người Thuỵ Điển tên là Johan Lundstrom phát minh ra năm 1855. Người sản xuất tách riêng hai thành phần này, để một nằm trên đầu diêm, một nằm trên vỏ hộp đi kèm.

* Thuốc shisha có nguồn gốc từ đâu ạ? Việc hút shisha có những điểm gì nổi bật mà nó lại thu hút nhiều bạn trẻ đến với hình thức này?

Bùi Thế Anh, Phủ Lý, Hà Nam

Shisha  hay còn gọi là thuốc lào Ả rập, với thành phần chủ yếu là mật ong, lá và rễ cây được ướp hương các loại như nho, cam, táo, dâu…Shisha được hút thông qua chiếc bình lọc giống như điếu bình. Thuốc shisha có rất nhiều loại, giá vào khoảng 650.000đ/250g. Shisha hiện rất thịnh hành với giới trẻ, vì theo họ, hút shisha không gây độc hại mà nó còn cho cảm giác rất dễ chịu. Hiện Shisha được sử dụng nhiều trong các quán bar, vũ trường.

Shisha còn là tên một thiết bị có một hoặc nhiều thân [thường làm bằng thủy tinh] dùng để hút thuốc lá, trong đó khói được lọc và làm lạnh bằng cách đi qua nước... Xuất phát từ Ấn Độ, shisha đã trở nên phổ biến, đặc biệt tại Trung Đông và dần dần được biết đến ngày càng nhiều ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc và Brasil. Người ta đổ nước vào bình ở phía dưới shisha để ống thân đã gắn chặt ngập trong nước khoảng vài phân. Nước càng sâu thì lực hút khi dùng càng phải lớn.

Thuốc lá được bỏ vào trong chén đặt ở đầu shisha và than hồng đặt trên đầu thuốc lá. Một số nền văn hóa phủ chén bằng một miếng thiếc hoặc màn kim loại để ngăn cách than với thuốc, làm tối thiểu lượng tro than lẫn trong khói. Cách này cũng giúp giảm nhiệt độ đốt thuốc, để tránh làm cháy thuốc trực tiếp. Khi người ta hút vòi, khí được đẩy qua cục than và vào trong chén đựng thuốc. Không khí nóng do than tỏa ra sẽ làm bốc hơi [chứ không cháy] thuốc lá, tạo ra khói, rồi được truyền xuống ống thân để đi vào nước trong bình.

Khí sẽ tạo ra bọt, mất nhiệt, và tràn lên phần trên của bình, nơi có gắn vòi. Khi người hút hút vòi, khói sẽ đi vào phổi, và sự thay đổi áp suất trong bình sẽ lại kéo khí vào than, tiếp tục quá trình. Nếu shisha được đốt và tạo ra khói nhưng không ai hút trong thời gian dài, khói bên trong bình nước sẽ được coi là "cũ" và không ngon nữa. Khói cũ sẽ được đẩy ra ngoài qua van làm sạch, nếu có.

Hiện nay, một số quán nước, trà chanh đã mở rộng “dịch vụ” cung cấp shisha cho giới trẻ hút vì thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên chính những người bán cũng không hề biết những tác dụng phụ của loại thuốc shisha sau khi sử dụng. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng có thẩm quyền vẫn chưa quản lý chặt chẽ, cũng như chưa có nhiều cảnh báo cần thiết về tác hại nghiêm trọng mà loại thuốc này mang lại.

* Những đối tượng nào được khuyến cáo tuyệt đối không nên xăm hình?

Lê Đình Trai, Nghĩa Hưng, Nam Định

Theo tôi chẳng có đối tượng nào nên xăm hình vì với truyền thống lâu đời người Việt Nam thường ác cảm khi thấy những người xăm hình, vì nghĩ rằng đó là tầng lớp giàu có, ăn chơi trác táng, vô công rồi nghề, muốn tỏ ra là tầng lớp anh chị, tầng lớp chịu chơi... Việc nhiễm khuẩn, nhiễm độc do xăm hình chẳng có loại trừ ai đâu!

Video liên quan

Chủ Đề