Tồn tại, hạn chế công tác cải cách hành chính

Nhằm đề ra các giải pháp cụ thể để khắc phục khuyết điểm, hạn chế trong công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh năm 2021; Kế hoạch đề ra 03 nội dung, giải pháp thực hiện bao gồm:

1. Chỉ số cải cách hành chính [PAR INDEX], Chỉ số hài lòng của người dân về sự phục vụ hành chính [SIPAS]: Thực hiện nghiêm việc giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính [TTHC] phục vụ cá nhân, tổ chức và sử dụng Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh để tiếp nhận, xử lý và trả kết quả hồ sơ đảm bảo quy định; nâng cao tỷ lệ hồ sơ giải quyết đúng hạn và sớm hạn, hạn chế thấp nhất việc giải quyết hồ sơ trễ hạn, quá hạn, trả hồ sơ không đúng quy định dẫn đến gây bức xúc cho tổ chức, công dân, làm phát sinh phản ánh, kiến nghị trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Nâng cao chất lượng phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp thông qua kết quả thực hiện các dịch vụ hành chính công, góp phần nâng cao sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Tiếp tục tham mưu triển khai thực hiện tốt công tác sắp xếp tổ chức bộ máy và kiện toàn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, các phòng chuyên môn cấp huyện, cơ cấu số lượng lãnh đạo tại các cơ quan hành chính theo đúng quy định. Tăng cường công tác kiểm tra định kỳ, đột xuất công tác cải cách hành chính; kỷ luật, kỷ cương hành chính tại các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh, nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến; nâng cao tỷ lệ hồ sơ trực tuyến trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với đơn vị cung cấp dịch vụ đảm bảo các điều kiện kỹ thuật của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh, Cổng Dịch vụ công quốc gia nhằm đảm bảo việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp được thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, thông suốt...

2. Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI: Thường xuyên, chủ động khảo sát, nắm bắt tình hình, phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để có giải pháp kịp thời khắc phục những hạn chế, tồn tại của các đơn vị, địa phương; đẩy mạnh công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư [công tác hỗ trợ nhà đầu tư cần chủ động hướng dẫn, theo dõi từ thời điểm nhà đầu tư đề nghị khảo sát, lập dự án đầu tư đến khi dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư và thực hiện các thủ tục cần thiết để đi vào hoạt động]; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc hoặc tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các đơn vị liên quan tạo thuận lợi nhất để nhà đầu tư đến tìm hiểu, khảo sát, đầu tư trên địa bàn tỉnh, góp phần cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh.

Tích cực tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu trong thực thi công vụ. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà trong giải quyết công việc đối với người dân và doanh nghiệp. Tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp phản ánh tình trạng thiếu trách nhiệm, tiêu cực, nhũng nhiễu của đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các hoạt động cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh một cách kịp thời, rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp; tổ chức triển khai hiệu quả Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; tăng cường công tác quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng, cắt giảm các khoản chi phí không chính thức cho doanh nghiệp…

Tăng cường công tác đối thoại với doanh nghiệp qua nhiều hình thức [như đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp [Chương trình cà phê “Doanh nghiệp - Doanh nhân và Hội nghị Đối thoại doanh nghiệp], qua Hệ thống “Tiếp nhận, phản hồi kiến nghị của doanh nghiệp”,…] và cần đa dạng về nội dung, kịp thời nắm bắt, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Và đây phải được xem là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các cấp chính quyền, các Sở, ban ngành chức năng của tỉnh. Nâng cao chất lượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; đẩy mạnh rà soát, giải quyết hồ sơ thi hành án có đủ điều kiện thi hành và tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại tố cáo, phức tạp, kéo dài; đẩy nhanh tiến độ giải quyết những vụ án kinh doanh thương mại và các tranh chấp khác có liên quan đến doanh nghiệp đảm bảo đúng pháp luật, nhanh chóng, công bằng…

3. Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công [PAPI]

- Nội dung “Tham gia của người dân ở cấp cơ sở”: Chỉ đạo các cơ quan đơn vị liên quan, Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn trực thuộc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân các cấp; bầu cử thôn trưởng, tổ trưởng tổ dân phố; thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Luật Phòng chống tham nhũng; các hình thức giám sát cộng đồng của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; các quy định về sự đóng góp tự nguyện của người dân như: Quỹ đền ơn đáp nghĩa, vì người nghèo, chương trình xây dựng nông thôn mới… cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân.

- Nội dung “Công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách”: Thực hiện đúng quy trình điều tra, rà soát, bình xét, công nhận đối tượng hộ nghèo, cận nghèo hàng năm, công khai danh sách hộ nghèo, cận nghèo tại Ủy ban nhân dân cấp xã và nhà văn hóa thôn, tổ dân phố; thường xuyên kiểm tra việc công khai, minh bạch về thu, chi, quyết toán ngân sách tại các cơ quan, đơn vị theo quy định; thực hiện công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và khung giá đất hiện thời trên Trang thông tin điện tử của huyện và tại trụ sở của Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn [và kịp thời cập nhật khi có điều chỉnh], công khai và thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất, mức giá đền bù khi thu hồi đất; xem xét xử lý hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm [nếu có].

- Nội dung “Trách nhiệm giải trình với người dân”: Chỉ đạo và thực hiện tốt công tác dân vận trong hệ thống chính quyền; nâng cao trách nhiệm giải trình với người dân trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thực hiện tốt công tác tiếp công dân; tập trung giải quyết có hiệu quả những khiếu nại, tố cáo; kịp thời giải quyết, trả lời các ý kiến, kiến nghị của cử tri trước và sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp; tăng cường thông tin, tuyên truyền trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Nhân dân các văn bản về thực hiện dân chủ ở cơ sở; các nội dung, vấn đề mà người dân có quyền được biết, được bàn, được tham gia thực hiện hoặc kiểm tra, giám sát việc thực hiện...

- Nội dung “Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công”: Chỉ đạo, thực nghiêm túc công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về phòng, chống tham nhũng để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động biết, thực hiện và để người dân giám sát.

- Nội dung “Thủ tục hành chính công”: Chỉ đạo, tăng cường rà soát các quy định về TTHC để kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung đối với những thủ tục vướng mắc, bất cập, gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân. Cập nhật, niêm yết, công khai kịp thời, đầy đủ TTHC tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, Bộ phận một cửa và trên Trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, địa phương. Tổ chức tốt việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý đúng quy định [chú trọng lĩnh vực: Đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...]; nâng cao tỷ lệ hồ sơ giải quyết đúng hạn và trước hạn; không tự ý yêu cầu người dân, tổ chức, doanh nghiệp bổ sung thêm các thủ tục, giấy tờ không có trong quy định; hạn chế tối đa việc người dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần; thực hiện nghiêm việc xin lỗi khi để xảy ra trễ hẹn; có giải pháp thúc đẩy việc giải quyết TTHC trên môi trường điện tử...

- Nội dung “Cung ứng dịch vụ công”: Chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các địa phương rà soát, kiểm tra việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo theo quy định; chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo đến người dân thông qua họp thôn/tổ dân phố, các chi hội đoàn thể về chủ trương người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế; phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội đẩy mạnh tuyên truyền để người dân được biết, thực hiện; yêu cầu Phòng Giáo dục và Đào tạo có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học; tiếp tục kiểm tra chấn chỉnh tình trạng dạy thêm trái quy định...

- Nội dung “Quản trị môi trường”: Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp về bảo vệ môi trường; xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm hoặc các cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức nếu để xảy ra tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Nội dung “Quản trị điện tử”: Thực hiện công khai đầy đủ thông tin hướng dẫn, biểu mẫu các TTHC trên Trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, địa phương; có giải pháp, tuyên truyền, phổ biến để người dân, tổ chức biết, tăng số lượng người dân tiếp cận tin tức trong nước qua kết nối Internet tại nhà..../.

Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, ngày 09/3/2022. Ảnh: TTXVN.

Cải cách hành chính nhà nước [CCHC] là một chương trình lớn của Việt Nam, đã thực hiện từ những năm đầu của thế kỷ XXI, qua quá trình thực hiện chương trình CCHC lần thứ hai theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ từ năm 2011 đến nay đã đạt nhiều thắng lợi, song cũng còn những hạn chế được nhận diện vào giữa giai đoạn thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 như sau:

Thứ nhất, công tác lãnh đạo, chỉ đạo CCHC chưa thực sự quyết liệt. Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp. Tính đồng bộ, cân đối, khả thi của hệ thống pháp luật tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch, thiếu tính đồng bộ giữa các lĩnh vực. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh vẫn đang là nguyên nhân hạn chế hiệu lực thực tế của cả hệ thống pháp luật.

Thứ hai, thủ tục hành chính [TTHC] trên một số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp. Số lượng các TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông còn ít. Việc công bố, công khai TTHC còn chậm, còn tình trạng công khai TTHC đã hết hiệu lực.

Thứ ba, việc đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính nhà nước còn chậm. Bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các sở ở cấp tỉnh và các phòng ở cấp huyện còn cồng kềnh, phức tạp, thiếu ổn định. Thực hiện tinh giản biên chế kém hiệu quả. Phân cấp quản lý nhà nước chưa được thực hiện triệt để, nghiêm túc.

Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức [CBCC] có nơi chưa đồng đều, còn yếu về năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu và đề xuất các biện pháp giải quyết; còn có những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý CBCC có vi phạm pháp luật chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.

Thứ năm, việc thực hiện tự chủ tài chính có nơi chưa thực sự hiệu quả, việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn mang tính hình thức; chưa thực sự gắn kết giữa giao nhiệm vụ, giao biên chế và giao kinh phí.

Thứ sáu, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính còn hạn chế. Một số bộ, ngành, địa phương chưa sâu sát trong chỉ đạo triển khai, chưa thực hiện nghiêm các yêu cầu trong việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008. Việc triển khai đầu tư xây dựng trụ sở cơ quan hành chính cấp xã còn hạn chế.

Thứ bảy, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương vẫn chưa thật sự thống nhất, thông suốt. Kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa được thực hiện nghiêm túc, vẫn còn tình trạng tùy tiện, thiếu quy định rõ ràng về quy trình giải quyết công việc ở các cơ quan hành chính.

Những hạn chế trên xuất hiện ngay từ đầu quá trình thực hiện CCHC và kéo dài cho đến khi kết thúc chương trình với mức độ khác nhau, của các ngành, lĩnh vực và các cấp địa phương, có những điểm chung nhưng cũng có những điểm khác biệt nhất định.

Về công tác chỉ đạo, điều hành CCHC có lúc, có nơi còn chưa chủ động, chủ yếu dựa vào nội dung hướng dẫn của cấp trên. Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu về kỹ năng hành chính của đội ngũ cán bộ chưa cao, cán bộ làm công tác CCHC đa số là kiêm nhiệm, mặt khác chưa được tập huấn, hướng dẫn chuyên sâu về công tác CCHC nên khó khăn, hạn chế trong việc tham mưu, đề xuất. Một số quy định về quy trình, thủ tục và thời gian giải quyết hồ sơ có thời điểm không còn phù hợp, chưa được cấp trên hướng dẫn cụ thể hoặc chưa được bổ sung, thay thế kịp thời, gây lúng túng cho việc thực hiện; việc niêm yết các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết ở một số nơi chưa đúng quy định gây khó khăn trong việc tiếp cận, thực hiện của công dân, như: Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường… trong suốt chương trình CCHC vừa qua1.

Đối với các địa phương, công tác chỉ đạo điều hành CCHC ở một số nơi chưa hoàn thành 100% mục tiêu, nhiệm vụ CCHC theo kế hoạch năm đã đề ra; chưa xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế phát hiện qua kiểm tra CCHC; chưa hoàn thành các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. Vẫn còn tình trạng chưa thực hiện đúng quy định về ban hành TTHC theo thẩm quyền được giao; chưa kịp thời công khai đầy đủ nội dung, quy định TTHC trên cổng dịch vụ công hoặc các trang/cổng thông tin điện tử sau khi công bố; có nơi vẫn công khai các quy định TTHC tại văn bản đã hết hiệu lực thi hành, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tra cứu và thực hiện TTHC như tại tỉnh Gia Lai2.

Ngoài ra, tỷ lệ giảm biên chế ở một số địa phương còn thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Qua đánh giá, còn tình trạng một số địa phương bố trí công chức, viên chức chưa đúng với vị trí việc làm đã phê duyệt hoặc chưa hoàn thành Đề án xác định vị trí việc làm theo quy định. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và xử lý sai phạm trong tuyển dụng, bổ nhiệm công chức, viên chức tại một số tỉnh, thành phố như tại tỉnh Thái Nguyên3. Còn có địa phương không hoàn thành giải ngân kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước; chậm thực hiện các kiến nghị, kết luận của thanh tra, kiểm toán về công tác tài chính, ngân sách; một số nơi chưa ban hành đầy đủ văn bản về quản lý, sử dụng tài sản công theo quy định; tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến mức độ 3, 4 còn thấp như tại tỉnh Khánh Hòa4…

Ngoài ra, CCHC ở cấp huyện và cấp xã cũng còn những tồn tại, hạn chế như việc chỉ đạo thực hiện CCHC chưa sâu sát, kịp thời, báo cáo định kỳ về CCHC của một số cơ quan, đơn vị còn chậm; tỷ lệ hồ sơ TTHC tiếp nhận và xử lý trực tuyến mức độ 3, 4; tỷ lệ hồ sơ TTHC tiếp nhận và trả kết quả giải quyết qua dịch vụ bưu chính công ích còn thấp. Việc giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp công lập của các huyện, thành phố còn chậm. Việc duy trì, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 còn hạn chế.

Một số UBND xã vừa mới được xây dựng nên bố trí phòng bộ phận một cửa khang trang nhưng thiếu trang thiết bị; chưa ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý văn bản nên chưa phát huy hiệu quả trong cải cách TTHC. Quy trình xử lý công việc còn nhiều hạn chế, qua nhiều đầu mối trung gian, do đó, thời gian giải quyết TTHC còn kéo dài, không bảo đảm tiến độ, gây ảnh hưởng đến người dân.

Nguyên nhân của những hạn chế trong cải cách hành chính vừa qua

Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến hạn chế trong quá trình thực hiện Chương trình CCHC vừa qua, có thể chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, CCHC là công việc khó khăn, phức tạp, chưa thực sự xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên. Phương pháp tổ chức triển khai thực hiện chưa có nhiều giải pháp tập trung, quyết liệt. Công tác truyền thông phục vụ cho việc triển khai các chương trình, nhiệm vụ CCHC chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị cũng như sự đồng thuận trong nhân dân.

Hai là, CCHC có mối quan hệ hữu cơ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiện tại chưa có giải pháp phù hợp để bảo đảm sự kết nối có hiệu quả các nội dung cải cách, đổi mới của cả hệ thống chính trị. Một số mục tiêu CCHC xây dựng định tính nên rất khó đánh giá đúng hiệu quả và trách nhiệm của cơ quan, tập thể, cá nhân liên quan trong tổ chức thực hiện.

Ba là, quá trình triển khai CCHC còn lúng túng. Nhiệm vụ đề ra nhiều nhưng chưa thực sự gắn với các biện pháp và điều kiện bảo đảm cần thiết. Việc tổ chức mô hình thí điểm còn có nơi làm chưa đồng bộ, thiếu tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời.

Bốn là, nguồn lực và những điều kiện bảo đảm cần thiết cho CCHC còn nhiều hạn chế. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng hành chính của CBCC còn thấp. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính, trang thiết bị công sở còn lạc hậu so với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới.

Năm là, vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính đối với CCHC tại một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế; chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, chưa đầu tư thời gian, nguồn lực thích đáng cho thực hiện CCHC.

Sáu là, tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn còn, tính công khai, minh bạch của nền hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận CBCC suy giảm lý tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, gây bất bình trong Nhân dân.

Bảy là, công tác tuyên truyền về CCHC hiệu quả chưa cao; người dân và doanh nghiệp còn tâm lý e dè khi tham gia hoạt động CCHC; trình độ sử dụng công nghệ thông tin còn yếu, bên cạnh đó, phần mềm dịch vụ phục vụ CCHC có những hạn chế nhất định.

Một số kiến nghị

[1] Những hạn chế trong quá trình thực hiện Chương trình CCHC còn xuất hiện ở tất cả các cấp hành chính, trên tất cả lĩnh vực của CCHC. Do vậy, trong thời gian triển khai Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021 – 2030, các cơ quan, đơn vị cần thường xuyên chủ động rà soát và phòng ngừa không để những hạn chế như trong giai đoạn CCHC vừa qua bị lặp lại ở cơ quan, đơn vị mình.

[2] Mức độ khắc phục các hạn chế nói trên còn chậm, chưa triệt để dù chúng ta đã phát hiện các hạn chế đó qua các năm theo thời gian ngay từ đầu đến giữa và cuối Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020. Do đó, nếu có những hạn chế nảy sinh trong giai đoạn của Chương trình tổng thể CCHC nhà nước 2021 – 2030, các chủ thể có trách nhiệm cần chủ động tổ chức khắc phục ngay, không để kéo dài như giai đoạn trước đây.

[3] Việc nhận diện đúng, trúng các hạn chế trong Chương trình CCHC vừa qua hy vọng sẽ giúp chúng ta có cách phòng ngừa, chủ động hơn trong CCHC thời gian tới. Do đó, cần truyền thông rộng rãi những hạn chế của CCHC trong giai đoạn vừa qua để toàn xã hội, nhất là những người làm công tác CCHC nắm rõ được các hạn chế đó, nguyên nhân của chúng, từ đó chủ động hơn trong thay đổi nhận thức và hành động thực tiễn giúp CCHC nhà nước hiệu quả hơn.

Như vậy, trong quá trình triển khai Chương trình CCHC giai đoạn tới chúng ta cần quyết tâm chủ động nhận diện và khắc phục triệt để những hạn chế phát sinh ngay từ đầu, xuyên suốt quá trình CCHC để góp phần CCHC nhà nước hiệu quả hơn.

Chú thích:
1, 4. Tài liệu Hội nghị tổng kết đánh giá Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030 do Bộ Nội vụ tổ chức tháng 11/2020.
2. Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 – những kết quả khả quan. //baogialai.com.vn, ngày 18/8/2020.
3. Còn nhiều hạn chế trong cải cách hành chính. //www.baothainguyen.com.vn, ngày  18/8/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ  ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.
2. Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ ban hành quy chế hoạt động. //www.caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 27/4/2022.
3. Hội thảo khoa học cải cách hành chính nhà nước. //www.caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 10/8/2021. ThS. Nguyễn Ngọc Toán
Học viện Hành chính Quốc gia

Video liên quan

Chủ Đề