Tổ sư ngành dược Việt Nam là ai

Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác ( 1720 – 1791). Ông sinh ra tại tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Ông là người tinh thông y học, văn học là một Danh nhân Việt Nam được nhiều người quý trọng.Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học: Ông nội, các chú các bác đều đỗ Tiến sĩ và làm quan trong triều.Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông. Ông là người con thứ 7 nên còn được gọi với tên là cậu Chiêu Bảy.

Năm 1970 ông bắt đầu nghiên cứu võ nghệ, nghiên cứu được vài năm ông đeo gươm đi tòng quân. Tuy nhiên xã hội thôi nát, chiến tranh chỉ mang lại đau thương chính vì vậy vào năm 1946 viện lý do người anh ở Hương Sơn, Hà Tĩnh mất ông xin ra khỏi quân đội về quê chăm mẹ và cháu để theo đuổi con đường mới.

Tổ sư ngành dược Việt Nam là ai

Ảnh: Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông

Theo đuổi nghề thuốc:

Từ lúc rời bỏ quân ngũ về phải làm nhiều việc vất vả cộng với chăm chỉ đèn sách không nghỉ ngơi nên ông lâm bệnh nặng chữa nhiều năm không khỏi. Sau gặp đươc  lương y Trần Độc tại Nghê An, am hiểu y học, nhiệt tình chữa khỏi.

Trong thời gian nghỉ ngơi điều trị bệnh, những lúc nghỉ ngơi ông thường lấy sách ” Phùng thị cẩm nang “ đọc và chăm chỉ học hỏi về thuốc. Lương y Trần Độc thấy ông yêu thích y học lại ham mê đọc sách nên đã truyền hết những kiến thức về y học truyền cho ông. Nhận ra nghề thầy thuốc không chỉ chữa trị cho mình còn giúp đỡ mọi người nên ông quyết chí học nghề thuốc.

Sau nhiêu năm tận tụy nghiên cứu với nghề, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu sâu về trung y qua nhiều sách như: Nội kinh, Nam kinh, Thương Hàn … kết hợp với nề y học cổ truyền dân tộc đã đúc kết nền y học cổ truyền dân tộc viết nên bộ viết nên bộ “Y tôn tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Tổ sư ngành dược Việt Nam là ai

(Ảnh chân dung)

Sự nghiệp cuối đời.

Theo các Y sĩ Y học Cổ truyền TPHCM, Ông qua đời năm 1791 thọ 71 tuổi. Lê Hữu Trác là đại danh y của nên y học Việt Nam. Để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.

“Hiệu Hải Thượng Lãn Ông: Hải Thượng là 2 chữ viết tắt của quê hương ( Hải là Hải Dương, Thượng là phủ Thượng Hồng. Lãn Ông nghĩa là ” ông lười ” là không màng đến danh lợi.”

Theo : Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur

Lương y Tuệ Tĩnh được biết đến như là ông tổ của ngành dược Việt Nam và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Bên cạnh đó, lương y Tĩnh cũng là người góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc của nước ta. 

Songkhoe.medplus.vn sẽ đem đến thông tin về LY Tuệ Tĩnh để giúp bạn biết được những thông tin và hiểu về những cống hiến trong thời gian hành nghề y của ông.

Hình ảnh Lương y Tuệ Tĩnh

Tuệ Tĩnh Thiền sư là một lang y sống ở giai đoạn cuối thời Trần. Ông tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu Huệ Tĩnh. Sau này khi đi tu, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh.

Quê quán của LY Tĩnh ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương [nay là xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương]. Ông sinh vào thời nhà Trần [1225 – 1399], mồ côi bố mẹ từ lúc 6 tuổi. Vì vậy, Tuệ Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học.

Quá trình theo nghề thuốc

  • Năm 22 tuổi, lương y Tĩnh thi đậu Thái học sinh dưới triều Trần Dụ Tông. Nhưng ông không làm quan mà vẫn ở lại trong chùa để tiếp tục việc chữa bệnh.
  • Nǎm 30 tuổi, ông trở về trụ trì chùa Yên Trang. LY Tĩnh đã tu bổ lại chùa này với một số chùa khác ở hạt Sơn Nam và quê hương. Tại đây, ông huấn luyện y học cho các tǎng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc.
  • Nǎm 45 tuổi, ông thi đình và đậu Hoàng giáp.
  • Năm 55 tuổi, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc và nổi tiếng, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư. Sau này, ông qua đời tại Giang Nam nhưng không rõ năm nào.

Các công trình y dược của lương y Tuệ Tĩnh

Trong sự nghiệp y học, danh y Tuệ Tĩnh đã soạn được rất nhiều cuốn sách quý. Tiêu biểu là:

  • Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư [2 quyển] biên soạn bằng quốc âm. Trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật và bài “Phú thuốc Nam” 630 vị cũng bằng chữ Nôm. Nhằm tóm tắt công dụng của 630 vị thốc, 13 phương gia giảm, có thiên dùng thuốc theo chứng, có các thiên bàn về y lí, chẩn đoán, mạch học.
  • Nam Dược Thần Hiệu có 11 quyển: gồm 580 vị thuốc trong nước, 3873 bài thuốc để trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.
  • LY Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc và góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc của Việt Nam.

Bên cạnh các cuốn sách chuyên về y dược, danh y Tuệ Tĩnh còn để lại cho đời cuốn sách về Phật học rất giá trị là Thiền Tông Khoá Hư Lục.

Hình ảnh 2 tác phẩm: Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư và Nam Dược Thần Hiệu của LY Tuệ Tĩnh

Ngoài niềm đam mê nghiên cứu các vị thuốc Nam và các phương pháp chữa bệnh, lương y Tuệ Tĩnh còn luôn quan tâm đến đời sống của người dân thời bấy giờ. Cụ thể như:

  • Truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm.
  • Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh
  • Ông luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, khuyến khích mọi người tìm biện pháp phòng bệnh tích cực.

Danh ngôn bất hủ của danh y Tuệ Tĩnh

  • Nam dược trị Nam nhân: thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh. Cụ thể, lương y Tuệ Tĩnh không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ngoài ra, lương y Tĩnh cũng nêu nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v. ng
  • Ai về nước Nam cho tôi về với: thể hiện tâm nguyện của người con nước Nam xa xứ. Dù mất rồi vẫn mong muốn được trở về cố hương.
Hình ảnh tấm bia “Ai về nước Nam cho tôi về với”

Như vậy, Songkhoe.medplus.vn đã cung cấp cho bạn những thông tin cơ bản về lương y lương y Tuệ Tĩnh. Mong rằng những thông tin bổ ích này, sẽ giúp cho bạn hiểu được tổng quan về cuộc đời hành nghề y của vị thiền sư này.

Nguồn tham khảo

//vi.wikipedia.org

Ngoài ra, để chuẩn bị tốt cho việc thăm khám, chăm sóc sức khỏe cho bạn và người thân. Bạn có thể xem thêm

Xem thêm các bài viết khác:

Câu hỏi: Ai được coi là ông tổ nền y dược cổ truyền Việt Nam?

Thông tin thêm: Tuệ Tĩnh thiền sư tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu là Hồng Nghĩa, sinh năm 1330, người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng [nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Dương]. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Tuệ Tĩnh sống ở thời nhà Trần. Nổi tiếng với khẩu hiệu "Nam dược trị Nam nhân", tức thuốc của người Nam chữa bệnh cho người Nam, ông được hậu thế suy tôn là ông thánh của ngành thuốc Nam, ông tổ ngành dược, người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam.  

Giải thích: Tuệ Tĩnh thiền sư tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu là Hồng Nghĩa, sinh năm 1330, người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng [nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Dương]. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Tuệ Tĩnh sống ở thời nhà Trần. Nổi tiếng với khẩu hiệu "Nam dược trị Nam nhân", tức thuốc của người Nam chữa bệnh cho người Nam, ông được hậu thế suy tôn là ông thánh của ngành thuốc Nam, ông tổ ngành dược, người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam.  

Tag bạn Facebook để trợ giúp

Tuệ Tĩnh Thiền sư [1930 -?] được gọi tắt Tuệ Tĩnh. Quê gốc tại làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng [nay là tỉnh Hải Dương]. Ông có nhiều bộ sách như:  Nam dược thần hiệuvà Hồng Nghĩa giác tư y thư  rất nổi tiếng và có ý nghĩa về lịch sử y hoc và văn học Việt Nam. Ông được phong là ông tổ ngành dược Việt Nam.

Tiểu sử Tuệ Tĩnh Thiền sư

Theo những tài liệu nghiên cứu, ngôn ngữ học Việt Nam có ghi Tuệ Tĩnh thuộc đời nhà Trần.Tên thật ông là Nguyễn Bá Tĩnh [阮伯靜], biệt hiệu là Tráng Tử Vô Dật quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng [nay là tỉnh Hải Dương]. Đại danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh là người đã đặt nền móng trong việc xây dựng nên y học cổ truyền.

Ông mô côi mẹ từ lúc 6 tuổi và được các sư tại chùa Hải Triều và chùa Giao thuy nuôi ăn học. Đến năm 22 tuổi ông đỗ đạt thi cử nhưng ko ra làm quan mà đi tu tại chùa và lấy pháp danh là Tuệ Tĩnh. Trong thời gian đi tu, ông chuyên tâm nghiên cứu y học cổ truyền, làm thuốc chữa bệnh cứu người.

Đến năm 55 tuổi, với kiến thức uyên bác về y dược của mình, ông bị cống sang nhà Minh ở Trung Quốc. Sang Trung Quốc ông vẫn nghiên cứu về y học và làm thuốc. Tài năng của ông được vua Minh phong là Đại y Thiền sư. Ông qua đời tại Giang Nam Trung Quốc không rõ năm nào.

Tuệ Tĩnh trong thời gian tại Trung Quốc luôn nhớ về quê hương và luôn mong muốn được trở về quê hương. Chính vì vậy trên bia mộ ông có dòng chữ “Ai về nước Nam cho tôi về với”.

Năm 1960 tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Quốc, vô tình thấy mộ Tuệ Tĩnh. Cảm động với lời nhắn gửi của ông, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép lại rồi tạc đá mang về Hải Dương.

Công trình y – dược của Tuệ Tĩnh.

Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư [2 quyển] biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài “Phú thuốc Nam” 630 vị cũng bằng chữ Nôm. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác phẩm của Tuệ Tĩnh thì chúng không chỉ giá trị trong y học mà còn là tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học bởi vì đây là các tác phẩm ở thời kì đầu của văn học chữ Nôm.

Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: “Nam dược trị Nam nhân” thể hiện quan điểm đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh. Quan điểm ấy dẫn dắt ông lên ngôi vị cao nhất của nền y học cổ truyền Việt Nam: Ông Thánh thuốc Nam! Trong trước tác của mình, ông không rập khuôn theo các trước tác của các đời trước, Ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên! Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v.

Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ:

Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc của Việt Nam.

Nguồn: //vi.wikipedia.org/wiki/Tuệ_Tĩnh

Video liên quan