Tại sao nghe kinh Phật lại số

Ở một thôn trang xa xôi, có đôi vợ chồng nọ khi còn sống vẫn thường lên chùa cúng Thần bái Phật. Họ cùng ăn chay tu Phật và cũng thường xuyên tham gia các buổi hoằng Pháp. Họ thấy rằng cuộc sống thật là tốt, điều gì cũng thuận lợi, mong muốn nào cũng toại nguyện, nên trong lòng càng yên tâm, tin rằng mình thể nào cũng được vãng sinh nơi miền Cực Lạc.

Vậy mà trong những năm cuối đời, người chồng bỗng mắc một căn bệnh nặng vô phương cứu chữa. Thế là người vợ ngày ngày tụng kinh niệm Phật để cầu cho chồng mình tai qua nạn khỏi, bệnh tình sẽ có chuyển biến. Vậy mà sau bao nhiêu ngày trì tụng như thế, bệnh tình không những không thuyên giảm mà còn nặng hơn, khiến cho người vợ nảy sinh nghi hoặc, trong lòng thầm trách vì sao Phật không nghe thấy lời cầu khấn của mình? Sao vẫn không làm cho ông nhà khỏi bệnh?

Không lâu sau cả hai vợ chồng đều tạ thế. Họ được âm binh đưa đến một nơi tối tăm và u ám, và khi nhìn lên dòng chữ trên cổng Âm Vương, cả hai vợ chồng đều rùng mình sửng sốt. Ồ, sao lạ vậy, đáng lẽ chúng ta nên đến miền Cực Lạc mới phải chứ, sao lại tới đây? Vì vậy khi vừa gặp Diêm Vương, họ bèn nói: “Chúng tôi là những người tu Phật, hằng ngày đều niệm kinh, chúng tôi nên được đến Tây phương Cực Lạc mới đúng chứ sao lại tới đây? Có phải là các ông bắt nhầm người rồi không?”

Sau khi kiểm tra lại sổ sách, Diêm Vương trả lời một cách đầy chắc chắn: “Họ thực sự không bắt nhầm người đâu, hai ngươi đúng là phải đưa tới đây.”

Người chồng hỏi một cách khó hiểu: “Khi còn sống tôi đều ăn chay niệm Phật, cũng thường xuyên bố thí, cũng quy y tam bảo, chẳng nhẽ không được công đức gì sao? Tại sao lại bắt tôi tới đây?”

Diêm Vương trả lời: “Mặc dù ông có tụng kinh, nhưng trong lòng là để cầu phúc báo chứ không phải chân chính tu hành, vì vậy công đức rất ít.”

Người chồng lại hỏi: “Nhưng tôi cũng thường xuyên bố thí cho người mà!”

Diêm Vương trả lời: “Mặc dù ông có bố thí, nhưng đó là để cầu được tích đức chứ không phải vì lòng thương xót chúng sinh. Hơn nữa, phúc báo của sự bố thí đó ông đã dùng hết rồi.”

Người chồng lại hỏi: “Tôi cũng quy y tam bảo rồi mà!”

Diêm Vương trả lời: “Mặc dù ông có quy y, nhưng lại không thật tâm tu hành, trong lòng vẫn chất chứa đầy suy nghĩ nhỏ nhen và toan tính hơn thua với đời, vì vậy nhân quả và nghiệp chướng cũng như người thường mà thôi.”

Người chồng lại hỏi: “Nhưng tôi ăn chay không sát sinh!”

Diêm Vương trả lời: “Mặc dù ông ăn chay, miệng nói Phật nhưng tâm địa hẹp hòi. Chẳng phải ông vẫn hay mắng mỏ và nhục mạ người khác đó sao? Do đó mà khẩu nghiệp chất chồng như núi.”

Người chồng lại hỏi: “Tôi cũng đi hoằng dương Phật Pháp cơ mà!”

Diêm Vương trả lời: “Mặc dù ông thường xuyên tới đạo tràng giảng Pháp, nhưng thực chất là giảng loạn kinh Phật, thêm thắt suy diễn của mình, làm hoại Pháp, chứ không phải lấy những lời nguyên gốc của Phật mà truyền bá, tội làm loạn Pháp này còn nghiêm trọng hơn nhiều!”

Diêm Vương ngưng một lát rồi nói tiếp: “Có những người ở đạo tràng này tu rất tốt, nhưng cũng có những người nảy sinh tâm kiêu ngạo, soi mói và nhục mạ người tu hành khác. Bởi cử chỉ và lời nói trái ngược với Phật pháp, nên tương lai cũng sẽ phải tới chỗ ta đây báo danh.”

Người chồng lại hỏi: “Vậy còn vợ tôi, tại sao cũng bị đưa tới đây?”

Diêm Vương trả lời: “Mỗi người đều có nhân quả của bản thân mình. Vấn đề của vợ ông, mặc dù nửa đời trước cũng bố thí và tạo phúc, nhưng không thật sự thành tâm tu hành. Bà ấy còn có một vấn đề nữa, đó là khi còn sống đã sinh tâm hoài nghi Bồ Tát và Phật pháp.”

“Khi ông bị bệnh, bởi vì khấn cầu cho ông khỏi bệnh mà không được, bà ấy sinh lòng nghi ngờ Thần Phật, trách Phật sao không giúp cho chồng mình khỏi bệnh. Sau đó liền buông lơi việc lễ Phật, không tín tâm kiên định vào Phật Pháp.”

Cuối cùng người chồng thở dài và hỏi: “Vậy chúng tôi sẽ có kết cục như thế nào?”

Ảnh: thông qua ydvn.net

Diêm Vương trả lời: “Vì hay nhục mạ người khác lại thêm tính tham lam ích kỷ, kiếp sau ông sẽ chuyển sinh thành một người nghèo khó khốn cùng. Còn vợ ông, vì có công chăm sóc ông lúc cuối đời nên sẽ chuyển sinh thành đứa con gái được ông nuôi nấng. Nhưng bà ấy vẫn phải chịu cảnh nghèo khó như ông để trả nợ cho những lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước. Nếu lúc ấy cả hai vẫn còn tín tâm vào Phật Pháp, vẫn còn phát tâm tu hành, thì sẽ lại được quy y cửa Phật; còn nếu không có cơ duyên tu luyện tiếp, thì chỉ cần ông luôn tích đức hành thiện, vẫn có thể tích được phúc báo. Hãy nhớ lấy, nhân quả là Thiên lý, tuyệt đối không sai lệch chút nào!”

Kiên Định

Ðức Thích Ca có dạy: “Tin là căn bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành”. Nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, không suy xét.

Một đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã hội. Cái tín ngưỡng sai lầm có thể làm hại tinh thần quần chúng. Sự tín ngưỡng mù quáng không căn cứ trên lý trí xét đoán đã đào luyện và sẽ đào luyện lên những trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ cho dục vọng.

Một đức tin hổn tạp, thiếu căn cứ, thường hay đi với sự nương nhờ vào một thế lực phỉnh phờ. Hai thứ ấy nương nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau rất mạnh. Hai thứ ấy cũng đều tạo nên những bộ óc yếu đuối, ỷ lại, thiếu tinh thần tự lập. Do một tin tưởng sai lầm, tinh thần càng ngày càng bị u tối, và sau bức màn thành kiến, con người làm sao trổi dậy, cường tráng và tự lập cho được?

Ðạo Phật truyền sang đất Việt đã gần 2.000 năm, có thời rực rở huy hoàng, nhưng cũng có thời lu mờ hôn ám. Rực rở huy hoàng hay lu mờ hôn ám chỉ là ở tại đức tin: mê tín đã gây nên cái hình thức tào tạp của đạo Phật của thời cận đại. Có nhiều người tự xưng là tín đồ đạo Phật mà lại có những tín ngưỡng sai lạc hẳn tinh thần Phật Giáo. Căn cứ vào hình thức ấy, người ta vội mỉm cười, cho đạo Phật là mê tín, là ỷ lại thần quyền, là chỉ lo tư lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu đuối.

Số người chịu khó đi sâu vào tinh thần Phật Giáo có được bao nhiêu đâu! Nhiều kẻ mang danh là tín đồ mà sự hiểu biết và hành động trái hẳn giáo lý Phật dạy, phản lại tinh thần từ-bi trí-tuệ của Phật Tổ. Nhận xét bằng một cặp mắt kém nhận xét, nhiều người trông thấy những màu mè ấy vội kết luận rằng đạo Phật chỉ là một đa thần giáo như những đa thần giáo ngày xưa!

Phật giáo nước Việt trong mấy thế kỷ vừa qua đã có một hình thức tào tạp. Những hình thức bói xăm, vàng mã, đồng bóng họp chung lại gọi là “đạo”, và trong trường hợp nào [ví dụ như lên đồng lên bóng chẳng hạn] người ta cũng “mô Phật” được! Những vị chân tu cùng đạo Phật chân chính, vì thế, được ít người biết đến. Hèn gì mà đạo Phật không bị nhận thức sai lầm.

Có bao nhiêu kẻ thường ngày không biết đến Phật, không nghe, không hiểu, và không làm theo lời Phật dạy, khi lâm nạn mới đến chùa tháp, đốt một nén hương khẩn cầu. Họ xem đạo Phật là một lối chuyên môn thờ cúng, và Phật là một vị thần thiêng liêng sẵn sàng ban phúc diệt họa cho họ mỗi khi họ cần đến.

Một hôm, có người trong phái Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, các thầy Bà-la-môn ngoại đạo đến thăm chúng tôi, người nào cũng bảo rằng chỉ có lời của họ mới đúng chân lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng tôi thật lấy làm phân vân không biết theo bên nào, bỏ bên nào”.

Trả lời câu hỏi ấy, đức Phật không bảo rằng Ngài là chúa tể vạn vật, chỉ có đạo Ngài mới nên theo; ngài không bảo rằng các vị giáo chủ và các đạo khác đều là hư ngụy, là sai lầm. Lời dạy của Ngài rất rộng rãi. Ngài bảo: “Ngươi đừng vội tin theo ai cả. Tất cả những gì ngươi đã thực nghiệm sâu xa, hợp với lý trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại hạnh phúc cho chính ngươi và những kẻ khác, những cái ấy, ngươi hãy nhận đó là chân lý và hãy cố sống đúng theo chân lý ấy”.

Ðọc đoạn vừa rồi trong kinh Kalama, chúng ta nhận thấy hai điều: một là đạo Phật không bao giờ bắt buộc người ta tin theo một cách mù quáng; hai là đức Phật không phải là một vị chúa tể có quyền phép lạ, có thể đem tín đồ mình đặt ở thiên đường hay ở địa ngục tùy theo ý thích của mình.

Nội một sự kiện “không buộc người phải tin theo một cách mù quáng” đủ chứng tỏ rằng đạo Phật có một tinh thần thật rộng rãi và có tính cách nhân loại. Ðạo Phật dạy rằng không hiểu Phật mà theo Phật thì đã không có lợi mà còn có hại là khác nữa.

Chính đức Phật Thích Ca cũng có dạy: “Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy”.

Như thế, người nào tin Phật như một vị chúa tể có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.

Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán. Hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tin. Ðối với đạo Phật, tin mà không hiểu thì sẽ lạc đường.

Ðạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là tùy ở mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:

"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo.

Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".

Tam Tạng giáo điển của Phật Giáo đối với Phật Tử không giống những thánh kinh đối với tín đồ các tôn giáo khác. Phật Tử không bị bắt buộc tin vào kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật Giáo không phải là một “tối hậu chân lý”, một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển không phải là những bùa chú linh thiêng mà hể đọc lên là được Ðức Phật cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác ngộ. Ðức Phật đã từng nói:

“Này các tỳ kheo! Hãy xem ta như kẻ hướng dẫn các ngươi trên đường tu học”.

Ðịa vị của Ðức Phật trong Phật Giáo là địa vị của một người dẫn đường trong đám người lạc hướng, hay nói cho khác hơn, địa vị của một lương y trong đám bệnh nhân đau khổ.

Nếu những người lầm đường không đi theo con đường của người dẫn lối thì không khi nào đến đích được, và đó là lỗi của người không đi, chứ không phải là lỗi ở người chỉ đường. Vị lương y cho thuốc uống, nhưng sợ đắng không uống, bệnh không lành, đó chỉ là lỗi ở các con bệnh, chứ không phải lỗi ở lương y.

Nếu Phật Tử không hiểu lời dạy của Phật, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì Ðức Phật và tam tạng giáo điển của Ngài đối với người kia không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một người Phật Tử chân chính. Thực hành và sống theo lời Phật dạy mới là Phật Tử chân chính vậy.

Căn cứ vào những lời trong kinh Kalama và căn cứ trên lý nhân quả xác thực, chúng ta thấy rằng Ðức Phật không phải là một vị chúa tể toàn năng có thể ban phúc lợi và sự giải thoát cho con người, nếu con người có cầu nguyện Ngài. Lạy Phật, dâng hương lễ Phật, mới là việc làm của kẻ biết ơn. Muốn giải thoát, muốn có an lạc, con người phải biết xem Phật như một ngôi sao dẫn đường, một bậc Thầy sáng suốt.

Hãy nhìn Ðức Phật ở địa vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt ngài ở địa vị một thần linh, một chúa tể. Người Phật Tử nếu có tin tưởng, thì chỉ là tin tưởng ở sự dẫn đạo sáng suốt của bậc giác ngộ, tin tưởng ở khả năng giác ngộ [ Phật Tính ] sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa.

Hiểu như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê tín, ỷ lại vào quyền năng vu vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật đòi hỏi. Người học Phật phải thận trọng, luôn luôn giữ thái độ khách quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh thần khoa học. Trí óc kẻ học Phật phải là một cơ quan gạn lọc vàng sõi, phân biệt rõ ràng, đừng để bị nô lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành kiến dựa vào tình cảm.

Video liên quan

Chủ Đề