Sơn Nam có nghĩa là gì

NGUYỄN HÀThứ hai, 25/8/2008|09:54 GMT+7

Sơn Nam có nghĩa là gì

Dân Nam bộ khi ngưỡng mộ ai thường dùng chữ “điệu nghệ” để khen. Theo Sơn Nam, “điệu nghệ” là do nói trại chữ “đạo nghĩa” mà ra. “Điệu nghệ” là sống vì nghĩa, hết lòng vì nghĩa và dám hy sinh vì nghĩa. Đến nay nhìn lại cuộc đời 83 năm của ông, có thể nói Sơn Nam đã sống và viết một cách “điệu nghệ” khó ai bì.

“Điệu nghệ” lớn nhất ở Sơn Nam là tình yêu sâu lắng dành cho quê hương, dân tộc. Tùy thời, tùy cảnh mà ông thể hiện cái “điệu nghệ” ấy theo cách của mình. Khi tiếng sấm Cách mạng Tháng Tám rền vang, ông như người dân ở xóm Ngọn Xẻo Bần, tạm gác cái lợi trước mắt của bản thân để hòa vào dòng chảy chung của dân tộc: “Cả xóm Ngọn Xẻo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những việc khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu, nước mạnh”.

Lúc ở giữa Hồ Chí Minh, Sơn Nam như ông Từ Thông sống một mình ngoài Hòn Cổ Tron nhưng vẫn luôn “ do dự, rạo rực trong lòng. Lương tri như rực sáng nhắc nhở ông món nợ gì với đồng bào, giang sơn. Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội, nước có nguồn. Chim có tổ, cá có hang …Ông hổ thẹn, tủi bấy phận mình không bằng con đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải. Lúc quốc gia thanh bình Sơn Nam lại giống ông Năm Lượng, cần mẫn chắt chiu từng hạt ngọc của tổ tiên thời khẩn hoang còn sót lại. Có điều ông Năm Lượng chỉ dạy con gái và anh Điệu hát huê tình vì “ Phàm người Việt Nam ai cũng có tài về món đó ” và vì “ Câu hát huê tình cao siêu lắm ! ” ; còn Sơn Nam kể lại cho lớp em cháu giờ đây về Bến Nghé xưa, Văn minh miệt vườn, Đình chùa và liên hoan dân gian … những thứ mà đời sống văn minh đang đẩy nó lùi sâu vào quên lãng .Và với quốc gia này, dân tộc bản địa này, Sơn Nam như cây đước mà ông miêu tả, thân nó sần sùi, khẳng khiu nhưng rễ nó nhiều và bám sâu vào lòng đất, hứng nắng chịu mưa, chống chọi giông bão cuộc sống để vươn lên và chứng minh và khẳng định sự hiện hữu của mình .Truyện ngắn, tiểu thuyết, biên khảo, tạp văn của Sơn Nam có đến hàng ngàn trang, cũng toàn chuyện “ điệu nghệ ”, ân tình. Đó là những nông dân Nam bộ nhân hậu, vị tha mở hết tấm lòng, mở hết cửa nhà mình để nuôi nấng, che chở người nghèo, thất cơ lỡ vận phải tha phương cầu thực như ông Năm Lượng, ông Hai Tích, Lão Bích, Má Sáu …Đó là những người trọng nghĩa khinh tài, thi ân bất cầu báo như ông Năm Hên, ông Tư Đức, dượng Hai – Bác vật xà bông … Thậm chí đến “ phường thảo khấu lục lâm ” cũng giàu ý thức nghĩa hiệp. Đảng Cánh buồm đen tung hoành một dải từ Cà Mau đến Hà Tiên khiến tàu đoan của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam mấy phen thất điên bát hòn đảo, nhưng tuyệt đối không xâm phạm gia tài của dân chài ven biển .Đơn Hùng Tín chỉ “ Ăn cướp của Tây tà, đem phân phát cho kẻ nghèo nàn ”. Ở vùng đất mới phương Nam người ta sống chan hoà, thân thiện, dễ kết bè bạn với nhau. Chỉ một đêm tâm sự, qua quyển Quốc văn giáo khoa thư, hai người vốn lạ lẫm có dịp ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu, khi cắp sách đến trường .Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, làm ăn rày đây mai đó, người thích cái thú ở quê, kẻ lận đận nơi thị thành nhưng họ vẫn nhớ quê nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa. Họ thành tri kỷ của nhau vì với họ “ Chốn quê nhà đẹp hơn cả ” trong lòng mình. Dường như cả đời cầm bút của Sơn Nam chỉ đam mê, chăm bẳm mỗi một việc là phát hiện và khắc hoạ chân dung ý thức, phẩm chất đạo đức, tập quán thuần phong của dân Nam bộ-và đấy cũng là một “ điệu nghệ ” đáng quý của ông so với fan hâm mộ đương thời và người hậu thế .Tuy nhiên “ điệu nghệ ” còn có nghĩa là tay nghề cao, là thuần thục, nhuần nhụy, điêu luyện một cách tự nhiên. Ở phương diện này, người ta thấy Sơn Nam là một bậc thầy về thẩm mỹ và nghệ thuật kể chuyện. Viết truyện ngắn, tiểu thuyết tức là kể chuyện đã đành mà biên khảo, tạp văn, “ báo cáo giải trình chuyên đề ”, Sơn Nam cũng dùng hình thức kể chuyện : chuyện khẩn hoang, chuyện miệt vườn, chuyện đất và người Hậu Giang, chuyện làm báo xuân, chuyện Ký giả ăn mày …

Sơn Nam có nghĩa là gì
Lễ đặt tượng nhà văn Sơn Nam ở Bình Quới – Ảnh tư liệu

Truyện của ông đậm chất biên khảo, giàu giá trị về lịch sử dân tộc, địa lý, phong tục … đồng thời biên khảo của ông cũng rất nhẹ nhàng, hấp dẫn vì có pha lẫn chất truyện. Đoạn viết về sân chim trong cuốn Tìm hiểu đất Hậu Giang ví dụ điển hình, có nhiều chi tiết cụ thể sôi động chẳng khác gì một đoạn truyện đường rừng .Cái “ điệu nghệ ” của Sơn Nam khi nói, kể hay viết về yếu tố gì, ở đâu, nghành nào ông cũng chỉ ra được điều cốt lõi, nét đặc trưng, vẻ thần hồn của nó một cách cô đọng, hàm súc. Sinh viên hỏi vì sao nói Hồ Chí Minh là cái nôi của báo chí truyền thông Nước Ta, ông lý giải : vì TP HCM tăng trưởng kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa sớm và mạnh. Báo chí là mạch máu của kinh tế thị trường !Như hầu hết những nhà văn Nam bộ cùng thời, Sơn Nam ít khi đăng đàn hoặc phát biểu bằng văn chính luận về bản thân, về nghiệp viết lách của mình. Ông không thích nói lý luận chứ không phải không có lý luận. Quan điểm, tư tưởng sáng tác của ông tản mác trong những bài phỏng vấn, những thiên truyện, những bài tạp văn. Và ở đây lại thấy nét “ điệu nghệ ” nữa của Sơn Nam .Những yếu tố trừu tượng cao siêu về văn chương, qua cách nói “ thật bụng ” của ông đều trở nên rất trong thực tiễn, đời thường nhưng cũng chạm tới chiều sâu của chân lý ; khiến người nghe, người đọc phải nghĩ thêm, nghĩ tiếp về nó. Ông chọn nghề cầm bút vì hai lẽ : “ sinh kế và vì vui ”. Viết văn để nuôi sống bản thân và mái ấm gia đình .Nếu nhà văn sống không được thì anh ta phải xem lại kĩ năng, bút lực của mình. Nếu nhà văn có tài, bút lực dồi dào thì phải xem lại chính sách chủ trương của Nhà nước và văn hóa truyền thống đọc của xã hội, coi chừng nó đang xuống cấp trầm trọng. Hình như cả đời, Sơn Nam chưa ăn lương của cơ quan, tổ chức triển khai nào, ngoài tiền nhuận bút ! Viết vì vui, đó là sở trường thích nghi cá thể được thỏa mãn nhu cầu, nhưng vui nhất là được tự do giãi bày tâm tình của mình đến số đông công chúng. Không đủ sống và không vui, không ai gắn bó bền vững với văn chương được .Trong những ngày đầu chống Pháp, Sơn Nam tự nguyện đứng vào hàng ngũ cách mạng và đã có vài tác phẩm “ đứng ” được như Tây đầu đỏ, Bên rừng Cù Lao Dung. Nhưng do áp lực đè nén của đời sống kháng chiến và do nhận thức còn đơn thuần về thực chất của phát minh sáng tạo văn nghệ, 1 số ít nơi ở Nam bộ đã có những biểu hiện hành chính hóa, sự vụ hóa hoạt động giải trí này .Sơn Nam phản ứng – có lẽ rằng là lần duy nhất người đọc thấy ông phản ứng – về thực trạng đó, cũng bằng một cách rất Sơn Nam : “ Tổ chức người làm văn nghệ lại thành một khối ngặt nghèo, chẳng khác nào hứng nước bằng hai tay hoặc bằng cái rổ. Thế nào nước cũng chảy tuôn ra ngoài khuôn khổ … Văn nghệ sĩ đâu phải là hạng người hoàn toàn có thể tạo được từng loạt theo thống kê, như nuôi con ngọc trai ! ”. Thực tế thì sau cuộc Tranh luận Văn nghệ ở Việt Bắc năm 1949, thực trạng hành chính hóa văn nghệ kháng chiến được cải tổ dần, tạo nên một mùa văn chương khá khởi sắc ở cả hai miền Nam Bắc …

Người mang lại cuộc sống và niềm vui của nhà văn là độc giả. Sơn Nam rất chú trọng đến bạn đọc của mình. Ông cho biết, sở dĩ khoảng năm 1958-1959, dưới thời Ngô Đình Diệm, ông viết Hương rừng Cà Mau và Chuyện xưa tích cũ là vì lúc đó người miền Tây tản cư lên Sài Gòn khá nhiều; và các báo muốn đến được Đồng bằng sông Cửu Long, phải có bài của Sơn Nam thì mới có thêm độc giả.

Hơn nữa, lúc đó ông đặc biệt quan trọng thích câu của G.Lukacs : “ Lối thoát của nhà văn khi bị áp bức tối đa, duy nhất chỉ một con đường là viết truyện dã sử hoặc lịch sử một thời ”. Mà lịch sử vẻ vang khẩn hoang và cuộc kháng chiến chống Pháp vừa mới qua chính là một lịch sử một thời lớn của dân tộc bản địa !Sau này, khi thấy nhiều người trong nước và quốc tế có nhu yếu tìm hiểu và khám phá về miền đất cực nam Tổ quốc, ông nghiêng hẳn về biên khảo, vì như ông nói : “ Bây giờ viết về lịch sử dân tộc phong tục dễ ăn và đỡ bị vấp váp lôi thôi hơn viết truyện, làm thơ ”. Đối với những cây bút trẻ, hình như ông chỉ khuyên có một điều : “ Làm văn học yên cầu phải cảm thụ bình tĩnh của người từng trải. Nghĩa là phải lùi một bước trước sự kiện để có khoảng cách, cảm thụ không hấp tấp vội vàng ”. Không vì ham vội nổi danh mà viết những điều chưa kịp nghĩ, viết những điều chưa thuộc về mình. Bởi vì “ thời đại hoàn toàn có thể mấy mươi năm, còn tân tiến thì thường phải trên nửa thế kỷ ” !Một nhà nghiên cứu và điều tra văn học từng đề xuất kiến nghị cách nhìn nhận tầm vóc, vai trò, góp phần của một nhà văn trong lịch sử dân tộc như sau : Hãy nêu giả thiết, nếu không có nhà văn đó thì nền văn học đó, trong tiến trình đó sẽ được gì và mất gì ? Nhà văn “ điệu nghệ ” Sơn Nam giờ đã ra đi, tạo ra một khoảng trống trên khung trời văn hoá văn nghệ của miền Nam, của cả nước. Tin rằng, cùng với độ dài của thời hạn, người ta sẽ thấy khoảng trống ấy ngày càng lớn biết bao nhiêu !