Sáng kiến kinh nghiệm rèn nề nếp cho trẻ 3 4 tuổi trong trường mầm non

Một số giải pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi trung tâm tại trường mầm non thành lâm huyện bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN NỀ NẾP, THÓI QUEN CHO
TRẺ MẪU GIÁO 3 - 4 TUỔI TRUNG TÂM
TẠI TRƯỜNG MẦM NON THÀNH LÂM HUYỆN BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Hà Thị Nhật
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN Thành Lâm
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2019
0


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1



1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

2

2.2. Thực trạng về nề nếp, thói quen của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm
tại trường mầm non Thành Lâm huyện Bá Thước

3

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu
giáo 3-4 tuổi trung tâm tại trường mầm non Thành Lâm huyện Bá Thước

4


2.3.1. Phân nhóm theo đặc điểm tâm sinh lý của trẻ

4

2.3.2. Rèn luyện nề nếp thói quen thông qua các hoạt động trong ngày

5

2.3.3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ chơi đẹp và sáng tạo

8

2.3.4. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày

9

2.3. 5. Rèn kỹ năng nề nếp thói quen thông qua một số tranh ảnh, một số
bài hát, bài thơ, câu chuyện
2.3.6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp
với gia đình để rèn nề nếp thói quen cho trẻ

10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của
nhà trường

14

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


16

3.1. Kết luận

16

3.2. Kiến nghị

17

* Tài liệu tham khảo

18

12


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây
là nền móng ban đầu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách cho trẻ.
Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình và là tương lai của đất nước. Trong
mỗi đứa trẻ luôn có những tài năng tiềm ẩn và sự chuẩn bị kỹ càng ngay từ lúc
đầu đời là chìa khóa thành công cho tương lai sau này. Trẻ sinh ra có quyền được
chăm sóc, bảo vệ và được giáo dục một cách toàn diện.Vì vậy việc giáo dục trẻ
ngay từ những năm tháng đầu đời là một việc làm hết sức cần thiết.
Như chúng ta đã biết, Bác Hồ đã nói:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn.

Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Trẻ sinh ra đâu phải đứa trẻ nào cũng ngoan cũng lễ phép. Mà ngay từ ban
đầu phải rèn luyện trẻ, dạy trẻ để sau này trẻ thành người tốt. Chính vì vậy
ngành học Mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung. Việc
rèn luyện nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những cơ
sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức
khó khăn luôn được đặt hàng đầu. Vì thế chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt
chẽ giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức
khoa học. Có thể nói rằng những điều mà trẻ bắt đầu được tiếp nhận ở độ tuổi
này đều có ảnh hưởng lâu dài đến việc hình thành toàn bộ nhân cách của trẻ [4].
Như chúng ta đã biết giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục nước ta. Là bậc học cơ bản đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành nhân cách và trí tuệ cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ hòa nhập môi trường mới [1].
Vì vậy việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ chính là một trong những
bước hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ ở trường mầm non. Đối với
trường mầm non Thành Lâm thì trẻ 3-4 tuổi khu trung tâm là năm đầu tiên mới
bắt đầu đi học hai buổi trên ngày ở trường mầm non chứ không như một số
trường khác trẻ đi học hai buổi trên ngày từ 25-36 tháng tuổi. Do đó nề nếp thói
quen của trẻ ở trường mầm non chưa được hình thành. Chính vì thế vấn đề rèn
luyện nề nếp thói quen ở trường Mầm non cho trẻ ở giai đoạn 3-4 tuổi là việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ 3-4
tuổi sẽ là cái kiềng vững chắc làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ sau này [4].
Bản thân tôi nhận thức được rằng: Giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng và
cần thiết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì gia đình cũng là một
môi trường tốt để giúp nhà giáo dục đưa một đưa trẻ tiến đến hoàn thành nhân
cách một cách hoàn hảo nhất. Cô giáo là người mẹ thứ hai của trẻ cho nên bằng
các phương pháp, kinh nghiệm của bản thân mình để hình thành và rèn cho các
cháu một số nề nếp và thói quen cho trẻ để trẻ bước đầu có những đức tính tốt

sau này trở thành người công dân tốt.Vì thế mà tôi đã chọn đề tài: “Một số giải
pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại
trường mầm non Thành Lâm huyện Bá Thước”
1


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tôi khi viết sáng kiến này là nhằm tìm ra những giải pháp
chung nhất và hiệu quả nhất trong việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu
giáo 3-4 tuổi, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Đồng
thời tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn trong quá trình công tác ở đơn vị.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của sáng kiến là “Một số giải pháp rèn luyện nề nếp,
thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại trường mầm non Thành Lâm
huyện Bá Thước”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo tài liệu qua
sách chương trình giáo dục mầm non, chuyên đề, mạng Intenet, báo…
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin: Khảo sát các hoạt
động của trẻ trong lớp để nhận biết về nề nếp, thói quen của trẻ.
- Phương pháp thống kê, sử lý số liệu: Thống kê, sử lý số liệu trong bảng
khảo sát trước và sau khi áp dụng biện pháp.
- Phương pháp nghiên cứu dùng lời. Cô dùng lời nói để hướng dẫn trẻ hoạt
động học, chơi các trò chơi, đi thăm quan….
- Phương pháp dùng trò chơi: Sử dụng các trò chơi để tổ chức cho trẻ chơi
các trò chơi để giờ chơi, giờ học hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ hơn, trẻ thích
được đi học, thích được đến trường.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Giai đoạn trẻ 3-4 tuổi là giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách trẻ,

các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách
bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng
thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ bị tổn thương về
tâm lý [2]. Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp thói quen ngay từ đầu cho trẻ, ngay từ
những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được
nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là
thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Quan hệ của cô với trẻ giàu
cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Vậy hoạt động lao động sư
phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có
sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.
Là một giáo viên Mầm non được phân công phụ trách lớp mẫu giáo 3-4
tuổi, tôi nhận thấy ở tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển
rất mạnh. Trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý. Do trẻ chưa tách rời bố mẹ, gia đình...
nên khi đến lớp trẻ thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn,
không chấp nhận sự giúp đỡ của các cô giáo, thậm chí một số trẻ còn la khóc,
không ăn không ngủ, hoặc không tham gia vào mọi hoạt động…. Chính vì thế
tôi thấy việc cần giáo dục các cháu đưa các cháu vào nề nếp thói quen để tham
gia vào các hoạt động trong ngày là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng.
Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay từ
những ngày đầu, những ngày mà trẻ không muốn rời xa mẹ... đến với cô giáo và
các bạn từ sáng đến chiều mới về với gia đình. Trước thực trạng đó là một giáo
2


viên mầm non, người trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ, tôi không thể không suy
nghĩ và nhận thấy rằng việc giáo dục nề nếp, thói quen cho trẻ là việc mà mỗi
giáo viên phải thực hiện thường xuyên liên tục và xem nó như một phần công
việc hàng ngày của mình.
2.2. Thực trạng về nề nếp, thói quen của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung
tâm tại trường mầm non Thành Lâm huyện Bá Thước.

2.2.1. Thuận lợi
Trường Mầm Non Thành Lâm là một trường vùng sâu, vùng xa của
Huyện Bá Thước. Nhà Trường có đội ngũ giáo viên trẻ khỏe, nhiệt tình, yêu
nghề mến trẻ, chất lượng chăm sóc giáo dục của nhà trường ngày càng phát
triển đi lên. Để đạt được những thành tích đó chính là nhờ có được sự quan tâm
giúp đỡ của Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện về cơ sở
vật chất, trang thiết bị trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ để dạy trẻ được tốt
hơn. Được sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể trong xã, lãnh đạo địa
phương đã từng bước chăm lo đến cơ sở vật chất của nhà trường.
Bản thân tôi luôn cố gắng học tập và rèn luyện bản thân trau dồi kiến thức,
luôn được chuyên môn nhà trường quan tâm và tạo điều kiện dự giờ đồng
nghiệp để học hỏi kinh nghiệm cho bản thân. Luôn được sự yêu mến, gần gũi
của các cháu học sinh và phụ huynh tin cậy luôn nhiệt tình ủng hộ các hoạt động
của lớp. Tôi luôn được sự yêu quý, giúp đỡ của đồng nghiệp trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ và tổ chức các hoạt động giáo dục.
Được sự quan tâm của các bậc cha mẹ đến con em mình, luôn ủng hộ các
hoạt động của nhà trường cũng như của lớp. Luôn phối kết hợp với cô giáo trong
việc chăm sóc giáo dục trẻ.
2.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì không tránh khỏi những khó khăn như sau:
Trường Mầm Non Thành Lâm là một trường vùng sâu vùng xa. 100% trẻ là con
em dân tộc Thái, một số trẻ chưa thành thạo tiếng phổ thông, khả năng giao tiếp
của trẻ gặp rất nhiều khó khăn.Vì vậy khi tham gia vào các hoạt động cùng cô,
cùng bạn bè trẻ chưa mạnh dạn, tự tin và chưa phát huy được tính tích cực của
trẻ.
Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố mẹ yêu thương
chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ xa lạ với trẻ, do đó trẻ chưa
quen với nề nếp, thói quen của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính... còn nhiều ở
trẻ.
Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn nề

nếp cho trẻ chưa quan trọng “Trẻ con biết gì mà rèn”.
Trẻ đến nhập học rải rác không cùng lúc làm cho sự ổn định nề nếp kéo dài
thời gian.
Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm học thể hiện qua bảng kê sau:
Năm học 2018 – 2019 này tôi được phân công phụ trách lớp 3-4 tuổi trung
tâm. Tổng số trẻ trong lớp gồm 30 cháu: Trong đó: 19 trẻ nam, 11 trẻ nữ. 100%
3


trẻ là người dân tộc Thái. Và đại đa số trẻ đều là những trẻ lần đầu tiên đi học
hai buổi trên ngày và ở lại ăn bán trú tại trường, lần đầu tiên xa gia đình, xa bố,
mẹ và những người thân yêu cả ngày từ sáng đến chiều mới được về nhà. Chính
vì thế các cháu chưa hề có một thói quen nề nếp gì khi ở trường học cả ngày,
ngược lại các cháu còn quấy khóc, la hét đòi về nhà.
Để biết được nề nếp, thói quen của trẻ, vào đầu năm học tôi đã tiến hành
khảo sát kết quả cụ thể như sau:
* Kết quả khảo sát đầu năm về nề nếp, thói quen cho trẻ (Tháng 9 năm
2018):
Trước khi áp dụng giải pháp

TT

Tiêu chí

Tổng
Trẻ đạt
sổ trẻ Số trẻ %

Trẻ chưa đạt
Số trẻ

%

1
2
3
4
5
6
7

Thói quen nề nếp đi học đều
30
25
83,3
5
16,7
Thói quen nề nếp chào hỏi
30
20
66,7
10
33,3
Thói quen cất đồ dùng đồ chơi
30
23
76,7
7
23,3
Thói quen nề nếp giờ ăn
30

23
76,7
7
23,3
Thói quen nề nếp giờ ngủ
30
24
80
6
20
Thói quen nề nếp học tập
30
23
76,7
7
23,3
Thói quen nề nếp vệ sinh
30
24
80
6
20
Qua bảng kết quả khảo sát trên tôi thấy rằng nhiều trẻ chưa có nề nếp, thói
quen trong mọi hoạt động hằng ngày. Để khắc phục và giải quyết thực trạng và
hạn chế trên. Tôi đã tìm tòi, học hỏi và mạnh dạn áp dụng: Một số giải pháp rèn
luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại trường mầm non
Thành Lâm huyện Bá Thước.
2.3. Các các giải pháp đã sử dụng để rèn luyện nề nếp, thói quen cho
trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại trường mầm non Thành Lâm huyện Bá
Thước.

2.3.1. Phân nhóm theo đặc điểm tâm sinh lý của trẻ:
Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nhanh chóng đưa trẻ vào
chương trình chăm sóc giáo dục là vấn đề trọng tâm. Tôi xác định bản thân mình
phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ
đặc điểm riêng của từng trẻ để bản thân Tôi lập ra chương trình kế hoạch bồi
dưỡng cho trẻ theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách
hợp lý:
+ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn.
Ví dụ: Cháu Kim Ngân nhút nhát ngồi cạnh cháu Bảo Ngọc nhanh
nhẹn, mạnh dạn.
+ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.
Ví dụ: Cháu Bảo Hân khá ngồi cạnh cháu Khánh Nhâm trung bình
+ Trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, trẻ hay
khóc ngồi cạnh cô giáo, để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn.
Ví dụ: Cháu Hoàng Gia hiếu động cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh cháu
Hải Yến ngoan ngoãn hiền lành.
4


Việc phân nhóm này rất có hiệu quả trong việc rèn luyện trẻ. Tôi lấy ví dụ
thực tế đã trải qua: Theo sự sắp xếp chỗ ngồi trên, khi Tôi mời một cháu khá trả
lời câu hỏi thì cháu học trung bình ngồi cạnh bên bạn có thể nghe được câu trả
lời của bạn và khi được cô mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được, và với sự
động viên khen thưởng của cô sẽ tạo cho trẻ hứng thú học và trẻ đó sẽ dần dần
tiến bộ lên làm cho nề nếp học của trẻ ngày càng ổn định.
Tôi cho những trẻ còn nhớ nhà hay khóc ngồi cạnh cô khi học sẽ rất phù
hợp trong việc rèn nề nếp học cho trẻ. Khi dạy cô cho những trẻ này ngồi cạnh
cô cô vừa có thể dạy vừa có thể thể hiện cử chỉ thương yêu che chở cho trẻ chỉ
bằng vuốt ve nhẹ nhàng hoặc một cái xoa đầu cũng có thể làm trẻ vơi đi nỗi nhớ
nhà. Cộng với sự sáng tạo của cô trong giờ học sẽ lôi cuốn trẻ học cùng với các

bạn để quên đi nỗi nhớ bố mẹ. Điều này sẽ nhanh chóng giúp trẻ ngoan và
nhanh ổn định nề nếp học hơn.
2.3.2. Rèn luyện nề nếp thói quen thông qua các hoạt động trong ngày:
Hàng ngày các cháu đến lớp tôi thực hiện đầy đủ các hoạt động trong ngày
của trẻ: giờ đón, giờ trả, giờ học, giờ chơi, giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh,... mọi sinh
hoạt đều có thể rèn luyện thói quen cho trẻ. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu
vào nề nếp thói quen không phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn
rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách
cho Tôi. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên Tôi phải luôn nhẹ
nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ trong từng hoạt động.
- Rèn nề nếp thói quen thông qua giờ đón và trả trẻ:
Trong giờ đón - giờ trả tôi rèn cho trẻ thói quen chào hỏi lễ phép, cất đồ
dùng cá nhân đúng nơi quy định.
Buổi sáng trẻ được bố mẹ (người thân) đưa đến lớp Tôi nhắc trẻ chào cô,
chào bạn, rồi vào lớp chào bố mẹ, (người thân) để bố mẹ, (người thân) ra về.
Khi vào lớp trẻ biết cất đồ dùng của mình như Balô, mũ, dép …vào đúng nơi
quy định.

Hình ảnh giờ đón trẻ
5


Vào giờ trả trẻ, khi bố mẹ, (người thân) đến đón trẻ tôi nhắc trẻ chào bố mẹ,
(người thân), chào cô, chào bạn lấy đồ dùng như: Balô, mũ, dép…rồi ra về
cùng bố mẹ (người thân)
Như vậy qua giờ đón – trả trẻ tôi đã rèn cho trẻ thói quen chào hỏi lễ phép,
thói quen cất đồ dùng cá nhân vào đúng nơi quy định.
- Rèn nề nếp thói quen thông qua các giờ hoạt động có chủ đích:
Trong các giờ hoạt động có chủ định Tôi rèn cho trẻ thói quen biết nghe lời,
biết làm theo yêu cầu của cô, biết ngồi ngoan trong giờ học, mạnh dạn biết giơ

tay phát biểu ý kiến.
Ví dụ: Trong hoạt động thơ “Thăm nhà bà” chủ đề “Gia đình”
Trước khi vào giờ học tôi cho trẻ hát bài hát “Cháu yêu bà” trẻ biết hát
cùng cô, ngồi ngoan khi tôi đọc thơ cho trẻ nghe, biết giơ tay để trả lời các câu
hỏi tôi đưa ra, biết đọc thơ cùng cô, biết đọc theo tổ, nhóm, cá nhân và biết chơi
trò chơi khi tôi yêu cầu.
Hay giờ hoạt động tạo hình:
Trẻ biết ngồi ngoan quan sát khi tôi tô mẫu, biết vẽ, biết tô màu theo yêu
cầu của cô, trong quá trình hoạt động không quăng ném đồ dùng đồ chơi, và sau
giờ hoạt động biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi cùng cô.

Hình ảnh: Giờ hoạt động tạo hình.
- Rèn nề nếp thói quen thông qua giờ chơi:
Trong giờ trẻ chơi cô rèn cho trẻ thói quen biết giữ gìn không quăng ném
đồ chơi, biết chơi cùng bạn, khi chơi xong biết cất đồ chơi vào nơi quy định.
Khi tổ chức cho trẻ chơi cô luôn bao quát trẻ để giúp đỡ trẻ khi trẻ cần, luôn
động viên khuyến khích chơi và nhắc trẻ không quăng ném đồ chơi.
Ví dụ: Có 1 cháu trong khi chơi quăng ném đồ chơi cô đến bên trẻ và nhắc
trẻ “ Nếu con quăng ném đồ chơi như vậy thì đồ chơi sẽ bị hư hỏng lần sau sẽ
không còn đồ chơi để chơi nữa, khi chơi con hãy giữ gìn đồ chơi nhé”
Hết giờ chơi cô nhắc trẻ thu dọn đồ chơi và cất đúng nơi quy định
6


Ví dụ:
Đồ chơi ở góc đóng vai, trẻ xếp vào tủ góc ở góc đóng vai cô đã quy định.
Đồ chơi ở góc sách, khi lấy sách ra xem, chơi xong trẻ biết cất vào tủ đựng
sách ở góc thư viện.
Trong khi trẻ chơi cô luôn nhắc nhở trẻ biết chơi cùng nhau, đoàn kết trong
khi chơi, không tranh dành đồ chơi của bạn.


Hình ảnh: Trẻ chơi ở góc phân vai
- Rèn nề nếp thói quan thông qua hoạt động vệ sinh:
Đối với trẻ 3-4 tuổi trẻ còn rất nhỏ trẻ chưa có ý thức trong hoạt động vệ
sinh. Nếu ta không rèn các thói quen vệ sinh: biết gìn giữ vệ sinh cá nhân, vệ
sinh chung, nhu cầu vệ sinh khi bị bẩn, nhu cầu đi vệ sinh (đại, tiểu tiện)… của
trẻ thì trẻ sẽ không ý thức được việc làm và hành động của mình là đúng hay sai.
Ví dụ:
+ Sau khi trẻ ăn quà sáng hay uống sữa sẽ có giấy bóng, vỏ hộp sữa để giữ
gìn vệ sinh trong ngoài lớp cô nhắc trẻ bỏ vào sọt rác không ném bừa bãi ra sân
cũng như ra lớp. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen biết giữ gìn vệ sinh chung.
+ Khi trẻ bị bẩn trẻ biết yêu cầu cô vệ sinh cho trẻ:
Chẳng hạn khi chơi tay trẻ bị bẩn trẻ biết đến bên cô và yêu cầu cô rửa tay
cho trẻ.
+ Khi có nhu cầu đi vệ sinh trẻ biết xin cô, biết lấy đúng bô của mình và đi
vệ sinh đúng nơi quy định .
Thông qua hoạt động vệ sinh cô cũng đã hình thành, rèn luyện cho trẻ lớp
một số thói quen vệ sinh mà trẻ thực hiện trong chế độ sinh hoạt hằng ngày ở lớp.
- Rèn nề nếp thói quen trong giờ ăn:
Trong giờ ăn cô rèn cho trẻ thói quen trước khi ăn biết mời cô mời bạn và
ăn hết xuất không làm rơi vãi, không nói chuyện trong giờ ăn, không ăn miếng
to, khi ho hắt hơi phải biết che miệng và quay ra ngoài.
Như vậy nhờ sự giúp đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn của cô trẻ được uốn nắn kịp
thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong
7


các hoạt động trong ngày mang lại hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và có nề nếp
hơn rất nhiều so với ngày đầu trẻ đến lớp.


Hình ảnh: Giờ ăn của trẻ
- Rèn nề nếp thói quen thông qua giờ ngủ của trẻ:
Qua giờ ngủ cô rèn cho trẻ thói quen đi vệ sinh trước khi lên giường ngủ.
Khi lên giường biết nằm im để ngủ, không nói chuyện, chọc bạn trong giờ ngủ,
ngủ sâu, ngủ đủ giấc, khi ngủ dạy biết nằm im trên giường khi cô chưa cho phép
dạy, ngủ dạy biết cất gối của mình đúng nơi quy định…

Hình ảnh: Giờ ngủ trưa của trẻ
2.3.3. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ chơi đẹp và sáng tạo:
Trẻ mầm non đến trường không chỉ để học mà đến trường trẻ còn được
chơi. Ở độ tuổi này trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức “Học mà chơi, chơi
mà học”.Và khi học cũng như khi chơi trẻ cần phải có đồ dùng đồ chơi trực
quan vì ở độ tuổi càng nhỏ tri giác và hiểu biết của trẻ càng ít. Vì vậy muốn đưa
chất lượng của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn. Bản thân Tôi
8


phải không ngừng việc sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm đồ dùng đồ
chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải khoa học và đảm bảo an toàn,
sử dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ tuổi. Đồ dùng đồ chơi sắp xếp
gọn gàng vừa tầm với trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái và
tự tin hơn.
Ví dụ: Từ các nguyên vật liệu phế thải cô đã sưu tầm và làm đồ dùng đồ
chơi để phục vụ cho các hoạt động học và giờ chơi của trẻ:

Hình ảnh:Một số đồ chơi làm từ nguyên vật liệu phế thải
Ngoài việc làm đồ dùng đồ chơi đẹp thu hút trẻ thì Tôi còn suy nghĩ để tìm
cách sử dụng đồ chơi đó một cách hợp lý để phát huy tác dụng của đồ dùng đồ
chơi.
Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà... Tôi có thể

bế cháu lại các góc chơi xem đồ chơi: Búp bê, những đồ dùng nấu ăn…. Để trẻ
tập trung vào các đồ chơi mà quên đi nỗi nhớ nhà bằng cách Tôi có thể đàm
thoại với trẻ, chỉ vào đồ chơi và hỏi trẻ. Chỉ vào búp bê hỏi: Ai đây? Chỉ vào đồ
chơi nấu ăn (bát thìa…) hỏi: Đây là cái gì? “Cô thấy em búp bê rất ngoan đấy,
em búp bê không khóc nhè đâu vì thế con cũng đừng khóc nữa, cô cháu mình
cùng nấu bột cho em búp bê ăn…” Qua việc này tôi thấy cháu đang khóc liền
nín để tham gia chơi cùng với bạn. Đồ dùng đồ chơi đẹp không chỉ giúp trẻ
nhanh ngoan nhanh quên đi nỗi nhớ nhà mà đồ dùng đồ chơi đẹp còn thu hút trẻ
vào các giờ hoạt động có chủ đích và giờ hoạt động vui chơi một cách hứng thú.
Từ đó nề nếp học, chơi của trẻ cũng nhanh chóng ổn định và đạt kết quả cao.
2.3.4. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày:
Trẻ 3-4 tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển mạnh, có một đặc
điểm mà Tôi cũng như bất cứ đồng nghiệp nào cũng có thể dựa vào đó để rèn nề
nếp cũng như ý thức trẻ. Đó là trẻ rất thích được cô khen và rất sợ bị chê và một
đặc điểm nữa là trẻ bé hay tò mò thích bắt chước. Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý
này tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng, sử dụng khen, chê đúng mực.
Việc khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ, tuy nhiên
9


không nên khen quá đáng mà chê trách chung chung. Tôi thường khen những
gương tốt trước tập thể để trẻ bắt chước.
Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc gọn
gàng, sạch đẹp, đi học biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè… trước tập thể
lớp. Ngay hôm sau tôi thấy có nhiều cháu đi học biết chào hỏi cô, ăn mặc sạch
sẽ. Vì cháu bắt chước bạn để được cô khen.
Còn khi chê trẻ không chê chung chung nhưng cũng phải tìm cách chê thật
khéo léo. Không chê trước tập thể lớp mà phải gần gũi, ân cần, nhắc nhở, góp ý
riêng với trẻ để trẻ không vì xấu hổ mà có ý nghĩ không muốn đi học.
Ví dụ: Khi nhận xét 1 cháu chưa ngoan trong giờ học, kết thúc giờ học cô

nêu gương khen một số trẻ ngoan. Còn những trẻ chưa ngoan cô chỉ nhắc nhở
phê bình chung chung. Nhưng sau giờ học đó vào hoạt động mọi lúc mọi nơi cô
sẽ gần gũi nhắc nhở cháu trao đổi với cháu bằng những câu hỏi: Con thấy hôm
nay bạn Hân học ngoan không? (Ngoan ạ) Còn con ngồi con làm gì? Như thế đã
ngoan chưa? (Chưa ngoan ạ). Từ đó tôi dặn trẻ: Bạn Hân hôm nay rất ngoan
được cô khen rồi đấy hôm sau con hãy học tập bạn để được cô khen con nhé!
Thông qua các hoạt động giáo dục, hoạt động mọi lúc mọi nơi cô nêu
gương và nhận xét trẻ từ đó giúp trẻ ngoan hơn biết được đâu là hành vi đúng,
đâu là hành vi chưa đúng. Qua đó hình thành và rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ.
2.3. 5. Rèn kỹ năng nề nếp thói quen thông qua một số tranh ảnh, một số
bài hát, bài thơ, câu chuyện:
- Rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các câu chuyện, bài
thơ, bài hát
Thông qua các bài hát rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi lễ phép
như: “Cháu đi mẫu giáo”, “Vui đến trường”, “Đi học về”…Các bài thơ: “Bạn
mới”, “Cô dạy”, “ Giúp bạn”, Bé không khóc nữa” ,“Cô giáo của em”...Có thể
kết hợp cho trẻ xem tranh khi đọc thơ cho trẻ nghe. [3].
Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, để khen chê
trẻ đúng lúc, đúng nơi, kịp thời giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn.
Ví dụ: Cho trẻ hát bài “ Cháu đi mẫu giáo” cô hỏi trẻ:
+ Bạn bé đã ngoan chưa? Vì sao bạn ngoan?
Để từ đó giáo dục trẻ ngoan giống như bạn và có thói quen chào hỏi lễ phép.
- Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ
chơi như:
Bạn ơi hết giờ rồi
Nhanh tay cất đồ chơi
Nhẹ tay thôi bạn nhé
Cất dồ chơi đi nào”
- Qua bài thơ, bài hát, câu chuyện rèn cho trẻ thói quen khi ăn, khi ngủ như:
Bài thơ: “ Giờ ăn”

Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa, bát, đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng
Cơm rơi, cơn vãi
10


- Đến giờ đi ngủ tôi cho trẻ đọc bài thơ : “ Giờ ngủ”
Vào giường đi ngủ
Không nghịch đồ chơi
Không gọi bạn ơi
Không cười khúc khích
Không ai tinh nghịch
Giơ chân, giơ tay
Phải nằm cho ngay
Mắt thì nhắm lại
- Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua bài thơ:
Bài thơ:
“Rửa tay sạch”
Cô dặn bé
Trước giờ ăn
Khi tay bẩn
Phải rửa ngay
Với xà phòng
Bé ghi lòng
Lời cô dặn
Kết hợp cho trẻ xem tranh để giáo dục trẻ:


Hình ảnh: Tranh bé rửa tay
- Rèn nề nếp thói quen thông qua một số tranh ảnh:
Ví dụ: đối với chủ đề “Trường mầm non” Tôi treo bức tranh mẹ đưa bé đến
lớp có hình ảnh (cô, mẹ và bé) bé đang khoanh tay chào cô.
Tôi trò chuyện với trẻ về bức tranh
+ Bức tranh vẽ những ai? ( Mẹ, bé và cô)
+ Bé đang làm gì? ( Đang khoanh tay chào cô)
+ Bé đã ngoan chưa?
Từ đó Tôi rèn cho trẻ thói quen biết chào hỏi lễ phép.
11


Chuẩn bị vào giờ ngủ Tôi cho trẻ xem tranh các bạn đang ngủ và trò chuyện
về nội dung bức tranh để trẻ biết được những việc gì nên làm và việc gì không
nên làm trong giờ ngủ.

Hình ảnh: Tranh vẽ việc nên làm và việc không nên làm trong giờ ngủ.
2.3.6. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với
gia đình để rèn nề nếp thói quen cho trẻ:
Việc phối hợp với phụ huynh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc rèn
nền nếp cho trẻ. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh mà giáo viên biết
được tính cách riêng của trẻ, từ đó có biện pháp uốn nắn kịp thời nhanh chóng
đưa trẻ vào nề nếp.
Cha mẹ là người thầy đầu tiên, gia đình là nơi mà trẻ được học tập được
trao đổi tình cảm tâm tư nguyện vọng của mình nhiều nhất. Để thực hiện tốt việc
rèn luyện nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ một vai
trò quan trọng. Do vậy tôi đã tuyên truyền với các bậc phụ huynh về sự cần thiết
của việc rèn luyện cho trẻ ở lứa tuổi này. Từ đó phụ huynh cùng phối hợp với cô
để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên nhân để có biện pháp thích
hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với cha mẹ trẻ để rèn luyện thêm

cho trẻ khi ở gia đình.
Ví dụ: Giáo viên động viên và khuyến khích phụ huynh cùng kết hợp với cô
trong việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ hàng ngày cho trẻ như: Khi đến
lớp con phải chào cô, chào bạn, chào người thân. Khi đi học về biết chào ông bà,
bố mẹ, anh chị, rèn trẻ giờ ăn, giấc ngủ để trẻ ngủ đúng giờ và ăn đủ bữa, nhắc
nhở phụ huynh hãy rèn cho con mình thói quen vệ sinh, thói quen tự phục vụ
bản thân hay thói quen giữ gìn vệ sinh chung vứt rác vào đúng nơi qui định. Khi
gia đình và nhà trường cùng phối hợp với nhau trong việc rèn trẻ điều đó sẽ
khiến cho việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
Trong các hội nghị cha mẹ học sinh: Tôi tuyên truyền các nội dung rèn nề
nếp thói quen cho trẻ, vận động phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài
thơ, câu chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ
dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt.
12


Hình ảnh: Họp phụ huynh đầu năm
+ Các thông tin trên bảng tuyên truyền: Tôi tuyên truyền với phụ huynh về
sức khoẻ, dịch bệnh của trẻ, chủ đề bé đang học bài thơ, câu chuyện, bài hát …
để phụ huynh nắm bắt được và kết hợp dạy thêm trẻ ở nhà.

Công tác phối kết hợp với các bậc phụ huynh trong việc rèn nề nếp thói quen
cho trẻ Tôi luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình và kết quả vượt quá sự mong đợi.

Hình ảnh: Phụ huynh và các bé tham gia hội thi “Bé khỏe, bé tài năng”
13


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:

2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Qua năm học 2018-2019 áp dụng SKKN tôi nhận trẻ đã thực sự yêu mến cô
giáo, các bạn và thích đi học, có nề nếp tham gia trong mọi hoạt động, trẻ có tác
phong mạnh dạn và tự tin hơn, chất lượng chăm sóc giáo dục đã đạt được hiệu
quả cao.
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng nề nếp, thói quen đã được cải thiện rõ rệt:
Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:
Bảng 1: Khảo sát đầu tháng 9/2018.
Trước khi áp dụng giải pháp

TT

1
2
3
4
5
6
7

Tiêu chí

Thói quen nề nếp đi học đều
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen cất đồ dùng đồ chơi
Thói quen nề nếp giờ ăn
Thói quen nề nếp giờ ngủ
Thói quen nề nếp học tập

Thói quen nề nếp vệ sinh

Tổng
Trẻ đạt
sổ trẻ Số trẻ %

30
30
30
30
30
30
30

25
20
23
23
24
23
24

83,3
66,7
76,7
76,7
80
76,7
80


Trẻ chưa đạt
Số trẻ
%

5
10
7
7
6
7
6

16,7
33,3
23,3
23,3
20
23,3
20

- Sau khi áp dụng SKKN trong việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ năm học
2018- 2019 thì kết quả như sau:
+ Trẻ có hành vi đạo đức tốt, đi học biết chào hỏi, không nói tục chửi bậy,
biết vâng lời ông bà, cha mẹ, cô giáo, yêu quý con vật, biết yêu thiên nhiên, biết
quan tâm đoàn kết với bạn, biết cảm ơn xin lỗi.
+ Đặc biệt các cháu về nhà đã biết tự mình làm một số việc tự phục vụ: Tự
xúc ăn, tự uống nước, biết gọi người lớn khi có nhu cầu đi vệ sinh, khi chơi
xong tự cất đồ chơi… biết đọc thơ, hát cho ông bà, bố mẹ nghe. Vì vậy các bậc
phụ huynh rất vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan
tâm đến việc học tập của các cháu nhiều hơn.

+ Các cháu có nề nếp thói quen tự phục vụ nên Tôi thực hiện nhiệm vụ chăm
sóc giáo dục một cách dễ dàng.
+ Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động một cách tích cực, thoải mái, mạnh
dạn và tự tin vào bản thân. Khi trẻ tham gia các hoạt động, tích cực, hứng thú,
không bị gò bó, không gây cho trẻ nhàm chán. Trẻ thích đi học, chăm ngoan,
biết nghe lời cô giáo, có nề nếp thói quen tốt trong mọi hoạt động học tập vui
chơi.
Bằng tấm lòng tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề mến trẻ cùng với sự nỗ
lực nghiên cứu không ngừng học hỏi của bản thân tôi đã áp dụng các giải pháp
14


nêu trên đối với trẻ lớp mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm do tôi chủ nhiệm và kết quả
đúng như tôi mong đợi sau khi đưa ra và áp dụng các giải pháp trên, trẻ đã tiến
bộ rõ rệt hơn so với kết quả khảo sát đầu năm. Điều này được thể hiện ở bảng
sau:
Bảng 2. Bảng khảo sát trẻ cuối năm:
Sau khi áp dụng giải pháp

TT

1
2
3
4
5
6
7

Tiêu chí


Thói quen nề nếp đi học đều
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen cất đồ dùng đồ chơi
Thói quen nề nếp giờ ăn
Thói quen nề nếp giờ ngủ
Thói quen nề nếp học tập
Thói quen nề nếp vệ sinh

Tổng
Trẻ đạt
sổ trẻ Số trẻ %

30
30
30
30
30
30
30

28
27
28
30
30
28
28

93,3

90
93,3
100
100
93,3
93,3

Trẻ chưa đạt
Số trẻ
%

2
3
2
0
0
2
2

6,7
10
6,7
0
0
6,7
6,7

Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy rằng tỷ lệ trẻ có nề nếp thói quen so
với đầu năm học được nâng lên rõ rệt. Cụ thể như sau:
Về các thói quen nề nếp đã tăng lên rõ rệt (Trẻ đi học đều từ 83,3% tăng

lên 93,3%; Trẻ biết chào hỏi từ 66,7% tăng lên 90%; Trẻ biết cất đồ dùng đồ
chơi từ 76,7% tăng lên 93,3%; Trẻ có nề nếp giờ ăn từ 76,7% tăng lên 100%;
Trẻ có nề nếp giờ ngủ từ 80% tăng lên 100%; Trẻ có nề nếp học tập từ 76,7%
tăng lên 93,3%; Trẻ có nề nếp vệ sinh từ 80% tăng lên 93,3%).
Điều đó chứng tỏ rằng với những cố gắng trong suốt quá trình một năm
học trong việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại
trường mầm non Thành Lâm huyện Bá Thước đó là bước đà vững chắc cho năm
học tiếp theo để giúp trẻ phát triển toàn diện, nhanh nhẹn, hoạt bát. Điều đáng
mừng là trẻ luôn hào hứng tham gia, có ý thức trong học tập. Trẻ mạnh dạn hồn
nhiên năng động và chủ động hơn trong các hoạt động. Trẻ hoạt động hứng thú,
thu hút sự chú ý của trẻ và đã mang lại kết quả cao trong từng hoạt động.
2.4.2. Đối với bản thân:
Bản thân tôi là một giáo viên mầm non thực hiện công tác chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục trẻ. Tôi đã tích lũy cho mình được những kinh nghiệm quý báu,
giúp cho tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Bản thân tôi thường xuyên cùng
bạn bè đồng nghiệp trao đổi những ý kiến về việc rèn luyện nề nếp, thói quen
cho trẻ để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng tại nhà trường.
Chúng tôi đã học hỏi nhau thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ... Sau
những lần trao đổi kinh nghiệm với nhau chúng tôi đã cùng thống nhất để áp
dụng vào thực tế giảng dạy của lớp mình, đem lại hiệu quả cao trong công việc.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp:

15


Giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo hơn trong việc lựa chọn các hình thức
giáo dục trẻ. Sáng tạo, nghiên cứu làm đồ dùng, dụng cụ tự tạo cho trẻ hoạt
động. Cô phải biết tạo môi trường mở và không gian cho trẻ hoạt động hoạt
động, từ đó tạo hứng thú, lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động tích cực. Trong
công tác giảng dạy phải là người yêu nghề mến trẻ, luôn tìm tòi các biện pháp áp

dụng phù hợp, để tạo hứng thú thu hút sự chú ý của trẻ cho trẻ. Tích cực học hỏi
đồng nghiệp, dự giờ để nâng cáo kiến thức về chuyên môn cho bản thân.
2.4.4. Đối với nhà trường:
Qua áp dụng sáng kiến này đã có tác động rõ nét đến hoạt động của nhà
trường . Cụ thể là các bậc cha mẹ đều khẳng định những kiến thức nuôi dạy con
theo khoa học qua tuyên truyền của nhà trường là bổ ích và đã giúp họ chủ động
phối hợp với nhà trường trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ đã đạt được
những kết quả rõ rệt đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của các bậc phụ
huynh, họ tin tưởng gửi con em mình ở lại trường ăn bán trú ngày một đông
hơn, đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp giáo dục xã nhà.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận:
Như Bác Hồ kính yêu đã nói:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan
Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được chăm sóc tận tình
của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính
vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là
một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung.
Việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những cơ sở
đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức khó
khăn luôn được đặt hàng đầu. Vì thế chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ
giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức khoa
học [4].
Trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của người
mẹ... vì thế các cháu mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm
vừa lưu luyến nhớ gia đình. Thậm chí có cháu còn sợ hãi khóc lóc... Vì tuổi này
trẻ còn rất bé, rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày đầu trẻ
mới nhập lớp, cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận được cảm giác an toàn,
được quan tâm và được yêu mến có thể coi là một thành viên trong cộng đồng

mà trẻ đang hoà nhập.
Là một giáo viên Mầm non phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và
vai trò trách nhiệm với cái tên “Người mẹ thứ hai” của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ,
nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ coi trẻ như con
mình. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, quên mình
là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Khi trẻ có cảm tình, có hứng thú cô
có thể sử dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động
một cách dễ dàng. Từ đó rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ.
16


3.2. Kiến nghị:
Căn cứ vào thực tế của nhà trường, tình hình chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng
trẻ năm học 2018 - 2019 tôi xin kiến nghị như sau:
- Đề nghị nhà trường mua bổ sung tài liệu phục vụ cho chương trình giáo
dục mầm non.
- Kiến nghị với Phòng giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức các buổi
chuyên đề, các lớp tập huấn để bồi dưỡng về chuyên môn cho giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức: Một số biện pháp
rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trung tâm tại trường mầm
non Thành Lâm đã được áp dụng ở lớp tôi chủ nhiệm và đạt được kết quả như
mong đợi. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã thực hiện trên đây chắc chắn
còn có những hạn chế mà bản thân tôi chưa nhận ra được. Rất mong được sự
tham gia, góp ý, bổ sung của hội đồng khoa học các cấp, để tôi có thêm nhiều
kinh nghiệm hay hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường
mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA

Bá Thước, ngày 20 tháng 3 năm 2019


HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
Không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Hà Thị Hoàn

Hà Thị Nhật

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình Giáo dục mầm non do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành.
17


2.Tạp chí giáo dục mầm non.
3. Tuyển chọn Trò chơi,bài hát, thơ ca,Truyện, câu đố theo chủ đề. Trẻ 3-4
tuổi. Do Viện chiến lược và chương trình giáo dục.Trung tâm nghiên cứu
chiến lược và phát triển chương trình giáo dục mầm non.
4. Một số bài viết về công tác đổi mới sinh hoạt chuyên môn nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục (Báo GD, các bài viết từ nguồn Internet).

18



SKKN một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3 4 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.89 KB, 13 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Mã số:…………………………..

- Tên sáng kiến: “Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi
trong trường mầm non”
- Tác giả: Trần Thu Lý.
- Đơn vị công tác: MN Tiên Hường.
- Chức vụ: Giáo viên.
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm.

Bình Xuyên, năm 2020.


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xun
I. Tác giả sáng kiến: TRẦN THU LÝ.
- Ngày tháng năm sinh: 21/11/1987.

Giới tính: Nữ.

- Đơn vị cơng tác (hoặc hộ khẩu thường trú): Trường MN Tiên Hường.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng
tác giả, nếu có): 100%.
II. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:


- Họ tên: TRẦN THU LÝ
- Đơn vị: Giáo viên Trường MN Tiên Hường.
III. Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các thông
tin cần được bảo mật (nếu có):
1.Tên sáng kiến: “Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong trường
mầm non’’
2. Lĩnh vực áp dụng:
Trong quá trình phát triển của trẻ nhất là trẻ 3-4 tuổi đang ở giữa độ tuổi nhà trẻ và
mẫu giáo nên việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ là vô cùng quan trọng.
Thông qua việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ từ đó giúp cho trẻ hình thành
được nề nếp thói quen ngay từ ban đầu. Đồng thời bản thân là giáo viên phụ trách
lớp 3 tuổi C tại trường mầm non Tiên Hường. Tôi thấy được việc giáo dục đưa các
cháu vào nề nếp đẻ tham gia các hoạt động trong ngày của trẻ tại trường là nhiệm
vụ quan trọng và cần thiết. Vì khi trẻ đã có nề nếp thì trẻ sẽ tiếp thu kiến thức một
cách khoa học và tham gia các hoạt động tích cức và sáng tạo hơn.Vì vậy tơi đã
đưa “Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non.

” và tôi nhận thấy rằng trẻ đã bước đầu được hình thành một số nề nếp thói
quen tốt trong các hoạt động của trẻ. Thông qua những những giải pháp này
giúp cho trẻ tự tin chủ động, tích cực và sáng tạo khi tham gia các hoạt động.
Chính vì lí do trên tơi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số giải pháp rèn nề


nếp cho trẻ 3-4 tuổi tại trường Mầm non Tiên Hường - Huyện Bình Xun Tỉnh Vĩnh Phúc”
3. Mơ tả sáng kiến:
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan
Đúng như vậy! Trẻ em cũng giống như chiếc búp non cần người lớn yêu thương,
chăm sóc và bảo vệ. Cây non được chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ phát

triển tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ sẽ trở thành người tốt. Chính vì thế việc chăm
sóc, ni dưỡng và giáo dục trẻ mầm non là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nó
chính là nề tảng đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục chung. Việc rèn luyện thói quen
nề nếp cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 3-4 nói riêng chính là hình thành cho trẻ
những cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là một cơng
việc khó khăn và ln được đặt lên hàng đầu.
Trẻ 3-4 là giai đoạn mà trẻ bắt đầu tập làm người lớn, bắt chước những hành
động, lời nói cử chỉ của người lớn. Đặc biệt trẻ thích được độc lập và tự chủ trong
mọi hành động. Ở lứa tuối này trẻ bắt chước những hành vi xấu thì rất nhanh cịn
những hành vi tích cực thì khó. Chính vì nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý trẻ
lứa tuổi này và nhận thấy tầm quan trọng củ việc rèn nề nếp cho trẻ. Đồng thời là
giáo viên mầm non được phân công chủ nhiệm lớp 3-4 tuổi, ở độ tuổi mà trẻ cịn
rất bé. Tơi nhận thấy rằng việc dạy cho trẻ những thói quen nề nếp trong sinh hoạt
hằng ngày của trẻ tại trường mầm non là nhiệm vụ vơ cùng khó khăn và quan
trọng. Vì khi trẻ có nề nếp thì trẻ sẽ tham gia các hoạt động một cách chủ động,
tích cực và sáng tạo hơn. Và hình thành cho trẻ những nề nếp thói quen tốt ban
đầu từ đó giúp cho trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện.
3.1 Về nội dung của sáng kiến:
Giai đoạn trẻ 3-4 tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thanh và phát
triển nhân cách trẻ lúc này trẻ còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài.
Đồng thời cúng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt nhưng ở giai đoạn này
trẻ dễ tổn thương về tâm lý. Chính vì thế muốn rèn nề nếp thói quen cho trẻ thì
giáo viên phải biết quan tâm, yêu thương, gần gũi với trẻ.
Trẻ em chính là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình và là tương lai của đất
nước. Trẻ sinh ra có quền được bảo vệ, chăm sóc ni dưỡng và giáo dục tồn
diện. Vì vậy việc giáo dục cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng và là việc làm cần
thiết. Việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nhằm bước đầu hình thành nhân
cách cho trẻ và phát triển tồn diện cho trẻ là việc làm vô cùng quan trọng và khó
khăn ln được đặt lên hàng đầu. Đặc biết đối với trẻ 3-4 tuổi thì việc rèn nề nếp
thói quen cho trẻ là nhiệm vụ khó khắn vì trẻ giai đoạn này cịn nhỏ và chưa có ý

thức như các anh chị lớp lớn. Viếc rèn luyện nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi sẽ là cái kiềng
vững chắc cho sự hình thành phát triển nhân cách cho trẻ sau này. Việc rèn luyện


nề nếp thói quen cho trẻ cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà
trường để giúp cho trẻ có những thói quen và duy trì những thói quen đó khơng
chỉ ở trường mà cịn ở nhà. Ngồi ra cịn phải thực biện thường xun liên tục
giúp cho trẻ dễ nhớ và thực hiện các thói quen đó một cách tốt nhất. Từ đó giúp
cho trẻ phát triển toàn diện và chủ động sáng taoh trong các hoạt động hằng ngày
tại trường cũng như các hoạt động ở nhà của trẻ.
Bản thân tôi là một giáo viên mầm non cũng nhân thấy rằng tầm quan trọng
của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ là một nhiệm vụ khó khăn. Trong thực
tế cho thấy trẻ có nề nếp thói quen sẽ tham gia mọi hoạt động một cách tích cực và
chủ động hơn. Cho nên bằng các phương pháp và kinh nghiệm của bản thân để
giúp cho trẻ bước đầu có những nề nếp thói quen tốt. Từ đó giúp cho trẻ hình
thành những đức tính tốt để sau này trở thành người cơng dân tốt cho xã hội.
Chính vì thế tơi chon đề tài “ Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong
trường mầm non”
a. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Năm học 2019 – 2020 tôi được phân công dạy lớp 3 tuổi C có 25 trẻ. Bản
thân tơi nhận thấy rằng rèn nề nếp thói quen cho trẻ là rất cần thiết. Nhưng trong
thực tế thì trẻ chưa có thói quen nề nếp cịn khá cao ngun nhân là do cha mẹ
thương con và làm hết mọi việc cho con. Chính vì thế trong năm học này tơi đã
đưa ra một số giải pháp giúp cho trẻ rèn nề nếp thói quen, để trẻ tự tin hơn, chủ
động và tích cực hình thành những thói quen nề nếp tốt trong các hoạt động của
trẻ.
Trong quá trình thực hiện đề tài tơi nhận thấy có một số thuận lợi và khó
khăn sau:
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường đầu tư trang thiết bị dạy học,
bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.

- Trẻ đi học đều, có sức khỏe tốt, nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các hoạt động
của lớp.
- Bản thân luôn cố gắng học tập trau dồi những kiến thức để nâng cao chuyên
môn. Luôn được sự gần gũi và yêu mến của các cháu học sinh, phụ huynh tin cậy
luôn ủng hộ các phong trào của trường cũng như của lớp. Được bàn bè đồng
nghiệp yêu quý, giúp đỡ trong cơng tác chăm sóc ni dưỡng và giáo dục trẻ.
Bên cạnh đó cịn có một số khó khăn như:
- Khơng gian lớp học cịn chật hẹp chưa đảm bảo cho các hoạt động.
- Trẻ được sống trong môi trường q bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm khơng có
tinh thần tự lập, ích kỷ...
- Một số phụ huynh cịn chưa thực sự quan tâm tới việc rèn nề nếp cho trẻ. Trẻ con
biết gì mà rèn hay trẻ con thì học gì.


Qua điều tra thực tế về việc rèn nề nếp của trẻ trong lớp tôi, tôi nhận thấy kết
quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng trẻ đầu năm ( tháng 9/2019)
TS
STT HS

Khảo sát đầu năm
Tiêu chí
Đạt

Khơng đạt

Thói quen nề nếp chuyên cần
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen nề nếp ăn, ngủ


15/25 = 60%
16/25= 64%
13/25 = 52%

10/25 = 40%
09/25 = 36%
12/25 = 48%

Thói quen nề nếp học tập

11/25 = 44%

14/25 = 56%

5

Thói quen nề nếp vệ sinh

12/25 = 48%

13/25 = 52%

6

Thói quen lấy và cất đồ chơi

13/25= 52%

12/25=48%


1
2
3
4

25
trẻ

b. Các giải pháp
b.1.Giải pháp 1: : Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ trong các hoạt
động mọi lúc mọi nơi.
Việc rèn nề nếp cho trẻ là việc cần thực hiện thường xuyên và liên tục. Nên
giáo viên phải biết lồng luồn, tích hợp để trẻ được làm quen thơng qua các hoạt
động mọi lúc mọi nơi. Để bước đầu hình thành thói quen nề nếp cho trẻ.
Một buổi sinh hoạt hàng ngày của trẻ gồm các hoạt động: Thể dục sáng, học
tập, hoạt dộng ngồi trời, hoạt động góc, giờ ăn, giờ ngủ, giờ vui chơi, đón và trả
trẻ. Để trẻ được tham gia tích cực các hoạt động này thì giáo viên phải giúp cho
trẻ rèn luyện nề nếp thói quen “ giờ nào việc nấy”. Vì trẻ ở độ tuổi này còn nhỏ và
chưa ý thức được như các anh chị. Cho nên cơ giáo chính là tấm gương để cho trẻ
noi theo. Muốn tạo cho trẻ được nề nếp thói quen trong các hoạt động thì người
giáo viên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi, cần phải dành tình cảm cho trẻ để tạo sự
tin tưởng của trẻ đối với cơ . Từ đó cơ giáo có thể uốn nắn trẻ dần dần để hình
thành cho trẻ nề nếp thói quen tốt hoặc thơng qua các hoạt động của trẻ tại trường.
Cái gì cũng vậy, ngày xưa đã có câu “ Trăm hay khơng bằng tay quen”. Việc
rèn nề nếp cho trẻ cũng cần phải có thời gian và được rèn luyện mọi lúc mọi nơi
để hình thành cho trẻ những thành thói quen tạo thành kĩ năng, kĩ xảo.
Thơng qua giờ đón, trả trẻ thì giáo viên có thể nhắc trẻ chào cơ, chào ơng
bà, bố mẹ để từ đó hình thành cho trẻ thói quen nề nếp chào hỏi.



Trong giờ thể dục sáng thì giáo viên rèn nề nếp thói quen cho trẻ xếp hàng,
khơng nói chuyện ồn ào khi xếp hàng, không chen nhau xô đẩy biết xếp theo thứ
tự bạn thấp đứng trước bạn lớn đứng sau để. Từ đó giúp trẻ có ý thức hơn trong
học tập , có nề nếp khi xếp hàng, có tính kỷ luật.
Trong các giờ học: Giáo viên rèn nề nếp học tập cho trẻ như ngoan ngoãn,
ngồi ngay ngắn, chú ý lắng nghe cô giáo giảng bài, giơ tay phát biểu xây dựng bài,
khơng đùa nghịch nói chuyện trong giờ học. Trẻ 3-4 tuổi cịn nhỏ có lúc chưa ý
thức được hành động của mình giáo viên cần nhắc nhở trẻ phải biết xin phép cơ
mỗi khi ra ngồi hay có nhu cầu cá nhân, khơng tự ý chạy ra ngồi chơi.
Qua hoạt động vui chơi: Cơ dạy trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ
chơi. Để trẻ thêm hứng thú và tích cực tham gia vào hoạt động cơ có thể cho trẻ
vừa cất đồ dùng đồ chơi vừa đọc bài thơ sau:
Bạn ơi hết giờ rồi
Nhanh tay cất đồ chơi
Nhẹ tay thôi bạn nhé
Cất dồ chơi đi nào”
Trong giờ ăn ngủ cũng vậy. Việc ăn, ngủ ở trường của trẻ thì giáo viên cũng
phải giúp trẻ có những thói quen nề nếp ăn, ngủ phải văn minh. Trước khi ăn thì
phải làm gì, trong khi ăn thì phải như thế nào…Giáo viên có thể lựa chọn những
bài hát, bài thơ có nội dung đến việc ăn ngủ để lồng luồn giáo dục cho trẻ thói
quen tốt, văn minh trong việc ăn, ngủ.
Ví dụ: Bài thơ: Giờ đi ngủ, Giờ ăn
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa, bát, đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng
Cơm rơi, cơn vãi
Nói tóm lại việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ trong các hoạt động
mọi lúc mọi nơi là việc làm cần thiết và quan trọng. Vì trẻ mầm non có đặc điểm

nhanh nhớ mau quên nên việc cho trẻ làm quen thường xuyên mọi nơi mọi lúc là
rất tốt giúp cho trẻ hình thành được các thói quen nề nếp. Từ đó giúp cho trẻ tham
gia các hoạt động chủ động hơn, tích cực hơn.


b.2. Giải pháp 2: Tuyên truyền phối hợp với cha mẹ trẻ trong việc rèn
nề nếp cho trẻ.
Ngoài thời gian trẻ ở trường thì thời gian trẻ ở nhà cũng nhiều. Cho nên
khơng chỉ rèn nề nếp thói quen cho trẻ ở trường mà giữ thói quen nề nếp đó ở nhà
là cần thiết và quan trọng. Nắm bắt được tầm quan trọng của phụ huynh trong việc
rèn nề nếp cho trẻ. Để tạo được sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường trong
việc phối hợp với cha mẹ trẻ là việc làm cần thiết và quan trọng để duy trì nề nếp
thói quen cho trẻ. Vì nếu như ở trường trẻ có nề nếp mà nhưng khi trẻ ở nhà mà bố
mẹ không phối hợp với cô duy trì mà để trẻ tùy tiện trẻ sẽ hay quên và khơng có
thói quen tốt. Chính vì vậy phụ huynh đóng một vai trị quan trọng trong việc duy
trì và rèn luyện nề nếp thói quen tốt cho trẻ. Cho nên việc tuyên truyền đến phụ
huynh là một trong những biện pháp quan trọng và hữu hiệu để rèn nề nếp thói
quen cho trẻ. Ngay từ đầu năm học trong buổi họp phụ huynh tôi đã tuyên truyền
đến các bậc phụ huynh các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, chế độ sinh hoạt
của trẻ, kĩ năng , các nề nếp thói quen cần có của trẻ và sự phối hợp dạy dỗ giữa
gia đình và nhà trường để tạo được nề nếp thói quen tốt cho trẻ. Đối với trẻ ở lớp,
tôi đã trao đổi với các bậc phụ huynh trong các giờ đón trả trẻ hàng ngày về các nề
nếp mà trẻ học trong ngày, trẻ ăn, uống, chơi…như thế nào. Đồng thời qua bảng
tuyên truyền của lớp để phụ huynh nắm bắt được từ đó ở nhà duy trì và tiếp tục
rèn nề nếp cho con. Ngồi ra tơi cịn mời phụ huynh đến tham gia hoạt động hàng
ngày của trẻ để phụ huynh biết và hiểu hơn các hoạt động một ngày của trẻ ở
trường.
Bên cạnh đó thì với thời đại cơng nghệ thơng tin phát triển rộng rãi. Nên
việc tuyên truyền với phụ huynh khơng cịn bó buộc bằng các hình thức cũ. Mà
giáo viên có thể trao đổi với phụ huynh thơng qua Zalo, Gmail, facebook của lớp

hoặc Zalo, Gmail, Facebook của phụ huynh để thông báo kịp thời đến phụ huynh
về tình hình của trẻ tại trường. Từ đó có những biện pháp thống nhất kịp thời giữa
gia đình và nhà trường để giúp cho trẻ duy trì các nề nếp thói quen một cách tốt
nhất.
Nói tóm lại việc phối hợp với phụ huynh trong việc rèn nề nếp thói quen
cho trẻ là rất quan trọng, nó quyết định đến kết quả rèn luyện của trẻ. Nó giúp cho
trẻ học tập chủ động, vui chơi sáng tạo hơn, tham gia các hoạt động tích cực sáng
tạo hơn. Từ đó giúp hình thành cho trẻ những thói quen tốt, phát triển cho trẻ toàn
diện.
b.3.Giải pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm thực hành những
thói quen nề nếp mọi lúc mọi nơi.
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non có đăc điểm nhanh nhớ và mau quên. Nên
cùng với việc giáo viên hướng dẫn trẻ rèn nề nếp thói quen thì việc giúp cho trẻ
nhớ để thực hiện là điều khá khó khăn. Chính vì vậy mà giáo viên cần tạo cho trẻ


cơ hội được thực hành những nề nếp thói quen mà trẻ đã được học. Người xưa đã
có câu “Học phải đi đôi với hành” Thực hành sẽ giúp cho trẻ khắc sâu hơn kiến
thức mà trẻ đã được cô giáo hướng dẫn.
Ví dụ: Trong giờ học có bạn ngồi học chưa đẹp cịn đùa nghịch nữa thì cơ
giáo có thể hỏi cả lớp là bạn ngồi học như vậy đã đúng chưa? Ngồi học như thế
nào là ngoan. Các con ngồi ngoan để cho bạn nhìn và làm theo nào…
Hoặc có thể cho trẻ biết rồi hướng dẫn cho trẻ chưa biết để cả hai cùng
được thực hành
Ví dụ: Bạn nào giỏi lên làm lại cho cô và cả lớp biết cách rửa tay đúng cách
Xếp dép như thế nào là đúng…
Trong giờ hoạt động vui chơi: khi chơi thì các con phải chơi như thế nào?
Sau khi chơi xong thì các con phải làm gì?...
Hoặc giáo viên có thể tổ chức một trò chơi nhỏ tại lớp để trẻ có thể thể hiện
hiểu biết cũng như thực hiện các kĩ năng mà trẻ đã được học.

Ví dụ: Trị chơi “ Bé thông thái”. Cô đặt những câu hỏi có nội dung đến nề
nếp thói quen và chia trẻ thành các đội chơi. Khi cô đọc xong câu hỏi thì các đội
chơi phải gõ sắc xơ. Đội nào gõ xắc xơ nhanh thì được trả lời. Trả lời sai thì sẽ
nhường quyền trả lời cho đội gõ sắc xơ nhanh tiếp theo. Trả lời đúng thì được tặng
một bơng hoa. Đội nào dành được nhiều hoa nhất đội đó sẽ là đội thắng cuộc.
Giáo viên có thể xây dựng các tình huống để trẻ có cơ hội thực hành những
thói quen nề nếp mà bản thân trẻ đã tiếp thu được.
Ví dụ: Tại sao lại có vỏ sữa ở đây? Chúng mình phải làm gì nào? ( Trẻ sẽ
biết là nhặt vỏ hộp sữa và để vào sọt rác)
Sau khi tôi thực hiện các giải pháp rèn nề nếp cho trẻ tại lớp của tơi thì tơi
thấy rằng trẻ đã có tiến bộ rõ rệt, có nề nếp hơn trong các hoạt động, tham gia tích
cực và sáng tạo hơn.Qua thực tế bản thân tôi thấy rằng việc rèn nề nếp thói quen
cho trẻ là việc làm cần thiết và quan trọng. Vì rèn nề nếp thói quen sẽ giúp cho trẻ:
+ Rèn luyện và hình thành cho trẻ thói quen giờ nào việc ấy
+ Trẻ chơi ngoan đồn kết, biết nhường nhịn giúp đỡ bạn trong khi chơi
+ Có ý thức bảo quản và giữ gìn đồ dùng đồ chơi.
+ Trẻ hoạt động độc lập tích cực hứng thú tại nhóm chơi.
Từ đó giúp cho trẻ năng động và sáng tạo trong các hoạt động. Là nề tảng
để phát triển nhân cách và trí tuệ cho trẻ.
3.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi
cho trẻ 3-4 tuổi trong các trường mầm non.
4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:


4.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua quá trình nghiên cứu ứng dụng về “Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4
tuổi tại trường Mầm non Tiên Hường - Huyện Bình Xun - Tỉnh Vĩnh Phúc”
tơi nhận thấy rằng. Nhìn chung trẻ đã có một số thói quen nề nếp như: Đi học đều,

trẻ biết chào hỏi, có thói quen nề nếp trong các hoạt động vui chơi, học tập, vệ
sinh, ăn ngủ.
Từ những nhận thức đúng đắn đó, tơi đã áp dụng các giải pháp giúp cho trẻ 3-4
tuổi rèn nề nếp ở trường Mầm non Tiên Hường và thu được kết quả đáng mừng.
Cụ thể kết quả sử dụng Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong
trường mầm non. Tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng trẻ đầu năm ( tháng 9/2019)
TS
STT HS

Khảo sát đầu năm
Tiêu chí
Đạt

Khơng đạt

Thói quen nề nếp chuyên cần
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen nề nếp ăn, ngủ

15/25 = 60%
16/25= 64%
13/25 = 52%

10/25 = 40%
09/25 = 36%
12/25 = 48%

Thói quen nề nếp học tập


11/25 = 44%

14/25 = 56%

5

Thói quen nề nếp vệ sinh

12/25 = 48%

13/25 = 52%

6

Thói quen lấy và cất đồ chơi

13/25= 52%

12/25=48%

1
2
3
4

25
trẻ

Từ kết quả trên, Tôi đã áp dụng một số giải pháp rèn nề nếp cho tre 3-4 tuổi trong
trường mầm non và đạt được một số kết quả về chuyên cần, chào hỏi, ăn ngủ, học

tập, vệ sinh và lấy và cất đồ chơi.
Bảng2: Kết quả khảo sát chất lượng trẻ tính đến tháng 01/2020.
TS
STT HS

Tiêu chí

Khảo sát tính đến tháng
01/2020
Đạt
Khơng đạt

1
2
3

Thói quen nề nếp chun cần
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen nề nếp ăn, ngủ

20/25 = 80%
21/25= 84%
19/25 = 76%

25

05/25 = 20%
04/25 = 16%
06/25 = 24%



4

trẻ

Thói quen nề nếp học tập

19/25 = 76%

06/25 = 24%

5

Thói quen nề nếp vệ sinh

20/25 = 80%

05/25 = 20%

6

Thói quen lấy và cất đồ chơi

22/25= 88%

03/25=12%

Như vậy sau khi áp dụng đề tài tơi thấy chất lượng trẻ có nề nếp tăng lên so với
đầu năm học. Kết quả đó được thể hiện cụ thể như sau:
Bảng 3: Kết quả so sánh chất lượng của trẻ.

BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Tiêu chí
TS Khảo sát đầu năm
Khảo sát tháng
HS (09/2019)
01- 2020
Đạt
Khơng đạt
Đạt
Khơng đạt

Thói quen nề
nếp chun
cần
Thói quen nề
nếp chào hỏi
Thói quen nề
nếp ăn, ngủ
Thói quen nề
nếp học tập
Thói quen nề
nếp vệ sinh
Thói quen lấy
và cất đồ chơi

So
sánh
Tỉ lệ
Đạt
tăng


15/25 = 60% 10/25 = 40% 20/25 = 80% 05/25 = 20%
20%
25
trẻ

16/25= 64%

09/25 = 36% 21/25= 84%

04/25 = 16%

13/25 = 52% 12/25 = 48% 19/25 = 76% 06/25 = 24%
11/25 = 44%

14/25 = 56% 19/25 = 76% 06/25 = 24%

12/25 = 48% 13/25 = 52% 20/25 = 80% 05/25 = 20%
13/25= 52%

12/25=48%

22/25= 88%

03/25=12%

20%
24%
32%
32%

36%

Qua số liệu của bảng trên cho thấy, sau khi áp dụng thì trẻ đã nâng cao được nề
nếp thói quen của trẻ.
4.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Từ những biện pháp giúp trẻ rèn nề nếp cho trẻ tôi nhận thấy chất lượng giáo
dục phát triển tình cảm xã hội tăng lên rõ rệt, đây là điều mà tôi mong muốn nhất.
+ Chất lượng và kết quả giờ dạy của tơi được nhà trường và chun mơn đánh
giá có chất lượng và sáng tạo.


Sau khi tiến hành áp dụng những biện pháp trên tơi nhận thấy trẻ có những chuyển
biến rõ nét về hình thành các nề nếp thói quen: Đi học đều, biết chào hỏi, có thói
quen nề nếp ăn ngủ, học tập, vệ sinh và lấy và cất đồ chơi... và phát triển những
phẩm chất tốt đẹp: tính ngăn nắp, biết chia sẻ, nhường nhịn. Trẻ tự tin tham gia
vào các hoạt động của trường lớp. Ngoài ra, phụ huynh thường xuyên trao đổi và
kết hợp với giáo viên để cùng rèn nề nếp cho trẻ và thấy được tiến bộ của con
mình. Đồng thời khoảng cách giữa cơ và trị xích lại gần hơn. Thêm vào đó, mối
quan hệ giữa phụ huynh và nhà trường thêm gắn bó.
5. Các thơng tin cần được bảo mật (nếu có): Khơng.
IV. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
. Điều kiện về cơ sở vật chất:
- Các trang thiết bị cần thiết: Máy tính, máy chiếu.
- Các đồ dùng, đồ chơi sẵn có và tự tạo...
- Lớp học đầy đủ trang thiết bị cần cho trẻ: tranh ảnh, giấy, bút, sáp, màu
nước…
. Điều kiện về giáo viên:
- Giáo viên mầm non, yêu nghề, nhiệt tình, ham học hỏi, sáng tạo.
* Phụ huynh:

- Nhiệt tình ủng hộ các phịng trào và hoạt động của lớp, phối kết hợp với
giáo viên và nhà trường chặt chẽ.
. Điều kiện về trẻ:
- Trẻ lớp 3 - 4 tuổi có nề nếp, ngoan, lễ phép với cơ giáo và đồn kết với
bạn bè.
V. Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu
có): Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi cho trẻ 3 - 4 tuổi tại các trường mầm
non.
Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật,
không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hồn tồn chịu trách nhiệm về thơng
tin đã nêu trong đơn

Tiên Hường, ngày .... tháng..... năm 2020
NGƯỜI VIẾT ĐƠN.


Trần Thu Lý
PHỊNG GD&ĐT BÌNHXUN
TRƯỜNG MN TIÊN HƯỜNG
Số:……………

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hương Canh , ngày ... tháng ... năm 2019

BẢN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ NGHỊ CƠNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xun

Phịng giáo dục và đào tạo huyện Bình Xun
Đơn vị cơng tác: Trường mầm non Tiên Hường nhận được đơn đề nghị
công nhận sáng kiến của Bà: Trần Thu Lý
- Ngày tháng năm sinh: 21/11/1987

Giới tính: Nữ

- Đơn vị cơng tác: Trường Mầm Non Tiên Hường.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến : 100%
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thu Lý.
- Tên sáng kiến: Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong trường
mầm non.
- Lĩnh vực áp dụng: Phát triển tình cảm xã hội .Trẻ mẫu giáo lớp 3 tuổi C Trường Mầm Non Tiên Hường.
Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị công nhận sáng kiến.
-

Tôi tên là: Nguyễn Thị Xuân

-

Chức vụ: Hiệu trưởng trường mầm non Tiên Hường

Thay mặt trường mầm non Tiên Hường nhận xét, đánh giá như sau:
1.Đối tượng được công nhận sáng kiến:
- Giải pháp chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non.
+ Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ trong các hoạt động mọi lúc mọi nơi.
+ Tuyên truyền phối hợp với cha mẹ trẻ trong việc rèn nề nếp cho trẻ.
+ Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm thực hành những thói quen nề nếp

mọi lúc mọi nơi.
2. Nhận xét, đánh giá về nội dung sáng kiến:


a) Đảm bảo tính mới, tính sáng tạo:
- Khơng trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến nộp
trước;
- Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật đến
mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
- Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp dụng
thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều kiện để áp
dụng, phổ biến;
- Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải
thực hiện.
b) Giải pháp có khả năng mang lại lợi ích thiết thực:
- Mang lại hiệu quả kinh tế: Thiết thực, hiệu quả, khơng tốn tiền.
- Mang lại lợi ích xã hội: Tăng cường khả năng thích nghi của trẻ trong học
tập và trong cuộc sống
c) Về khả năng áp dụng của sáng kiến : Sáng kiến có khả năng áp dụng
rộng rãi cho trẻ 3-4 tuổi tại các trường mầm non.
3. Kiến nghị đề xuất:
- Công nhận sáng kiến sáng kiến đảm bảo có hiệu quả tốt.
- Trường Mầm non Tiên Hường. Đề nghị Hội đồng sáng kiến xét công nhận
sáng kiến “ Một số giải pháp rèn nề nếp cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non.”
Xin trân trọng cảm ơn.
HIỆU TRƯỞNG
(Ký ghi rõ họ và tên)




Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp rèn nề nếp thói quen vệ sinh cho trẻ 4-5 tuổi"

Sat Jan 02 16:09:00 GMT+07:00 2021

1. Phần mở đầu:

1.1. Lý do chọn đề tài:

Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ chính là một trong những bước hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ ở trường mầm non nói chung và ở lớp mẫu giáo 4-5 tuổi nói riêng, ở độ tuổi này trẻ cũng mới bắt đầu nhận thức được việc mình làm đúng – sai, tốt – xấu mới phân biệt rõ mình và người khác, mình và thế giới xung quanh, biết được các thông tin cơ bản về bản thân mình như tên trẻ, tên ba mẹ, địa chỉ nhà,... Trẻ rất quan tâm, chú ý đến những nhận xét của mọi người đến bản thân mình. Ở độ tuôi này, cô giáo không nên so sánh trẻ này với trẻ khác, để tránh trẻ không nhận định rõ ràng về bản thân mình. Chính vì vậy vấn đề rèn nề nếp thói quen cho trẻ 4-5 tuổi là hết sức quan trọng và cần thiết. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ sẽ là cái kiềng vững chắc làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách sau này.

Là một giáo viên mầm non, tôi được phân công phụ trách trẻ ở độ tuổi Mẩu giáo 4-5 tuổi, tại trường Mầm non Cự Nẫm. Đây là lứa tuổi rất khó so với các độ tuổi khác, số lượng trẻ lại đông: đầu năm học lớp có 35 trẻ, nên việc đưa trẻ vào nề nếp là một vấn đề không chỉ ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải có thời gian và lòng kiên trì thì việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ mới có kết quả. Vì vậy, tôi thấy việc giáo dục đưa trẻ vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình học tập của trẻ.

Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, thói quen ngay từ những ngày đầu năm học, những ngày mà trẻ không muốn rời xa bố mẹ để đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả các cô giáo và đồng nghiệp nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nên tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi”. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đồng thời góp phần thực hiện tốt phương pháp đổi mới giáo dục Mầm non trong tất cả các hoạt động, đặc biệt là rèn nề nếp thói quen cho trẻ 4-5 tuổi.

* Điểm mới của đề tài.

Mặc dù nội dung của đề tài không còn mới, đã có nhiều người nghiên cứu. Nhưng trên cơ sở tìm tòi tổ chức thực hiện tại lớp, bản thân tôi đã lựa chọn tìm ra các biện pháp sáng tạo, mới lạ và phù hợp hơn, với tình hình thực tế của lớp tôi hướng dẫn trẻ thực hiện tốt việc “Rèn nề nếp thói quen cho trẻ” nhằm giúp trẻ có nề nếp tốt, sáng tạo và hứng thú, tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức ban đầu về tất cả các lĩnh vực để trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.

1.2. Phạm vi áp dụng:

Đối với sáng kiến kinh nghiệm này, ngay từ đầu năm học 2019-2020 bản thân tôi đã lựa chọn và đặng ký tên đề tài tôi đã cố gắng và tìm ra các biện pháp áp dụng và triển khai thực hiện, vận dụng ngay cho trẻ lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở lớp tôi phụ trách tại trường Mầm non Cự Nẫm.

2. Phần nội dung:

2.1. Thực trạng của việc rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non.

* Tình hình chung:

Qua thực tế hướng dẫn trẻ 4 - 5 tuổi ở lớp tôi phụ trách để rèn nề nếp, thói quen cho trẻ khi chưa áp dụng các biện pháp nghiên cứu tôi đã nắm được một số thông tin như sau:

Do điều kiện 100% trẻ sống ở vùng nông thôn, xa trường, mùa mưa đường sá đi lại khó khăn, một số trẻ ít được đi đây đi đó, ít được giao tiếp với nhiều người, hơn nữa bố mẹ trẻ cũng chưa có kinh nghiệm trong việc dạy trẻ các kỹ năng nề nếp, thói quen lễ giáo, nề nếp học tập và các thói quen vệ sinh nên khi đến lớp trẻ còn rụt rè, chưa có thói quen trong mọi hoạt động. Hơn nữa năm học bị dán đoạn vì dịch bệnh covid 19 nên trẻ quên những kỹ năng nề nếp, thói quen của một số hoạt đông như: Vệ sinh rữa tay, lau mặt... Nhằm tìm ra một số biện pháp, hình thức để rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ được hoạt động thoải mái, tự nhiên. Chứ không gò bó, áp đặt rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt được kết quả một cách tốt nhất.

Ưu điểm: Một số trẻ đã hình hành được thói quen nề nếp như : Trẻ ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, bố mẹ quan tâm đến việc học hành của trẻ. Có một số trẻ tương đối mạnh dạn khi tiếp xúc với cô giáo và các bạn. Ban đầu trẻ đã biết chào hỏi người lớn, đến lớp chào cô giáo, chào bạn và các cô các bác trong trường, trẻ đã biết đi vệ sinh đúng nơi quy định và biết vứt, bỏ rác vào thùng rác.

Nguyên nhân: Đối với những trẻ này ở nhà được bố mẹ rèn luyện và hình hành cho trẻ một số kỹ năng ban đầu nên khi đến lớp trẻ mạnh dạn trong các hoạt động, tự tin trong giao tiếp như bạn: Thùy Dương, Dương Anh…Một số trẻ là con đầu lòng, bố mẹ có điều kiện để chăm sóc giáo dục trẻ về mọi mặt nên trẻ đã hình thành được một số kỹ năng trong giao tiếp và các hoạt động khác.

Nhược điểm: Vào đầu năm học đa số trẻ đến lớp còn hay khóc, chưa có thói quen chào cô giáo, chào người lớn và chào bạn bè. Trẻ chưa có các kỹ năng trong giao tiếp, ví dụ như: trẻ chưa mạnh dạn, còn khép nép sợ sệt khi gặp người lạ, gặp cô giáo, khi nói chuyện với các bạn còn chưa biết cách xưng hô “bạn-mình” hoặc không thích chơi với bạn mà chỉ ngồi một chổ và chơi một mình như bạn Nhân, Kiệt…Bên cạnh đó trẻ còn chưa có thói quen trong các hoạt động khác như: ngồi học ngay ngắn nghiêm túc mà trẻ còn tự do đi lại trong lớp, ra vào lớp chưa biết xin phép cô giáo, còn hay nói ngang trong giờ học như bạn: Diệu Châu… Khi tham gia các hoạt động khác như: hoạt động ngoài trời thì trẻ còn hay chạy nhảy lung tung, hay trêu chọc các bạn và chưa tập trung chú ý vào hoạt động như bạn: Gia Hưng, Khánh…

Ngoài ra, trẻ còn chưa biết tự đi vệ sinh mà còn hay đi tiểu trong quần sau đó mới nói với cô giáo. Trẻ chưa có các thói quen thực hiện các thao tác rửa tay, lau mặt đúng quy trình mà chỉ rửa tay và lau mặt qua loa cho xong việc, khi ăn quà bánh xong là vứt rác lung tung không bỏ vào thùng rác. Phần lớn do điều kiện kinh tế nên bố mẹ đi làm ăn xa, trẻ sống với ông bà và một số trẻ khác thì sống trong gia đình đông con nên việc giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế.

Trẻ 4-5 tuổi là độ tuổi khởi điểm của sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hòa quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn non nớt và nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. Trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý.

Bởi vậy, ngay từ những ngày đầu tiên trong năm học 2019-2020 này, khi đón trẻ từ độ tuổi lớp bé lên và những trẻ lần đầu tiên đến trường thì tổng số trẻ lớp tôi là 35 trẻ. Trong đó chỉ có 6/35 trẻ là có nề nếp tương đối khá đạt 17%, còn lại 29/35 trẻ còn rất bỡ ngỡ và rụt rè, trẻ thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không muốn tham gia vào mọi hoạt động và có thể trẻ dường như không hòa nhập, hòa đồng vào tập thể, chiếm tỷ lệ 82,8 % Đa số trẻ còn nhút nhát, sợ sệt, chưa có tính mạnh dạn trong giao tiếp. Khi đến trường trẻ còn hay khóc và chưa có các thói quen trong các hoạt động.

Trẻ ở độ tuổi này vẫn còn được ông bà, bố mẹ nâng niu chiều chuộng, phần lớn trẻ chưa phải thực hiện các thao tác tự phục vụ cũng như mọi người thường rất dễ bỏ qua những khuyết điểm của trẻ vì nghĩ rằng “trẻ còn nhỏ chưa biết gì”. Vì vậy, đây chính là khó khăn trong việc rèn nề nếp thói quen trong mọi hoạt động cho trẻ.

Bên cạnh đó lứa tuổi mẩu giáo 4-5 tuổi khả năng ghi nhớ có chủ định của nhiều trẻ còn hạn chế, trẻ “chóng nhớ mau quên”. Nên việc dạy trẻ các kỹ năng, nề nếp thói quen phải được tiến hành thường xuyên, mọi lúc mọi nơi, đòi hỏi sự kiên trì của người lớn và thời gian trẻ ở trường tham gia các hoạt động với cô giáo còn nhiều hơn ở với gia đình. Bởi vì thế muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu tiên trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được niềm hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và cảm thấy mình là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hòa nhập. Quan hệ giữa cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con và hoạt động lao động sư phạm của cô giáo Mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.

Chính vì vậy, nên tôi mạnh dạn chia sẻ về một số biện pháp đưa trẻ vào nề nếp, thói quen mà tôi đã thực hiện trong năm học 2019-2020 này.

2.2.Các biện pháp:

2.2.1. Biện pháp 1: Dạy trẻ có thói quen chào hỏi người lớn:

Mục đích: Nhằm giúp trẻ có thói quen chào hỏi khi gặp người lớn, trẻ biết chào hỏi đúng lúc đúng nơi và chào đúng thứ tự theo cấp bậc từ trên xuống

Yêu cầu: Trẻ biết tự giác chào hỏi và lễ phép với người lớn ở mọi lúc mọi nơi, mạnh dạn tự tin khi giao tiếp, vui chơi cùng với các bạn.

Quy trình thực hiện: Vào đầu năm học hơn 90% trẻ lớp tôi còn bỡ ngỡ, rụt rè và chưa có thói quen chào hỏi người lớn, chào cô giáo và những người xung quanh hoặc bố mẹ, cô giáo có nhắc nhở thì trẻ chỉ chào ào ào cho qua chuyện sau đó lại quên mất. Đa số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin khi giao tiếp, vui chơi cùng các bạn.

Ví dụ như: Cháu Thế Nhân, Gia Bảo, Diệu Châu...khi mới vào học bố mẹ đưa cháu đến lớp là cháu khóc đòi về với bố mẹ chứ không chịu vào lớp với cô giáo và các bạn.

Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề nên tôi đã áp dụng biện pháp dạy trẻ mà không mang tính gò bó, áp đặt để trẻ tiếp thu một cách tự nhiên thoải mái như: hằng ngày vào những lúc đón trẻ, trả trẻ tôi luôn ân cần niềm nở, gần gủi với trẻ và trò chuyện với trẻ về tình cảm của trẻ đối với gia đình, ông bà, bố mẹ và tình cảm của trẻ đối với cô giáo, với bạn bè nhằm tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái tự tin khi gặp gỡ tiếp xúc với các bạn trong lớp. Ngoài ra tôi thường hay hát cho trẻ nghe và dạy trẻ hát những bài bài hát có nội dung về tình cảm gia đình, về tình làng xóm và sự yêu thương kính trọng mọi người nhằm giúp trẻ hiểu rõ hơn về nét đẹp của con người Việt Nam thông qua các hành vi: ứng xử có văn hóa, nói năng nhẹ nhàng, chào hỏi lễ phép và tôi cũng thường đọc cho trẻ nghe những bài thơ, kể những câu chuyện có nhiều mẩu đối thoại, có lời chào hỏi rõ ràng trong các trường hợp cụ thể.

Bên cạnh những việc làm đó thì cô giáo luôn luôn là tấm gương sáng về việc chào hỏi đối với tất cả mọi người khi gặp gỡ, tiếp xúc và trò chuyện. Không chỉ có cô giáo làm tốt việc này mà tôi còn thường xuyên trao đổi với phụ huynh để có sự phối kết hợp giữa giáo viên và gia đình. Ngày ngày tôi kiên trì dạy dỗ trẻ kết hợp với lời động viên khen ngợi kịp thời để trẻ mạnh dạn và phát huy tốt hơn khả năng của mình. Chính những điều đó đã dần tạo cho trẻ có một thói quen tốt.

Với những việc làm và biện pháp trên thì đến gần cuối học kỳ 1, lớp Nhỡ 1 do tôi phụ trách đã có 70 – 80 % trẻ có thói quen tự giác chào hỏi lễ phép khi gặp người lớn và trẻ chơi đoàn kết với nhau rất vui vẻ. Sang đầu học kỳ 2 đến nay nề nếp chào hỏi của trẻ đã có nhiều chuyển biến đáng kể và đạt kết quả khá cao 90 - 97 %.

Các cháu như: Thế Nhân, Gia Bảo, Diệu châu...khi được mẹ đưa tới lớp thì cháu đã biết khoanh tay chào mẹ, chào cô giáo, chào các bạn và mạnh dạn đi vào lớp cùng vui đùa tươi cười với các bạn.

Điều kiện thực hiện: Hàng ngày vào những lúc đón trẻ, trả trẻ tôi thường gần gủi trò chuyện với trẻ và trao đổi với phụ huynh những kinh nghiệm hay, những biện pháp tốt nhằm để có sự phối kết hợp sự giáo dục giữa gia đình và cô giáo cùng chăm sóc, nuôi dạy trẻ được tốt hơn Qua thời gian gần một năm học trôi qua với sự dạy dỗ và rèn luyện kiên trì, đến nay đa số trẻ trong lớp tôi đã biết tự giác chào hỏi, đã có hơn 97 % cháu có thói quen tốt trong việc chào hỏi người lớn ở mọi lúc mọi nơi. Được nhà trường và các bậc phụ huynh công nhận bước tiến bộ rõ nét về thái độ của con em mình. Phụ huynh lớp cảm ơn và dành nhiều tình cảm đối với cô giáo khiến cho tôi có thêm nhiều động lực để dạy trẻ tốt hơn.

2.2.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh:

Mục đích: Nhằm giúp trẻ có thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường xung quanh trường, lớp gọn gàng sạch đẹp.

Yêu cầu : Trẻ biết thực hiện các thao tác rửa tay, lau mặt đúng theo quy trình và có thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể sạch đẹp, áo quần đầu tóc gọn gàng. Biết nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi quy định.

Quy trình thực hiện : Trẻ 4-5 tuổi thường chưa có thói quen vệ sinh cá nhân cũng như các thao tác tự phục vụ, đây cũng là vấn đề mà các bậc phụ huynh cũng như cô giáo quan tâm rất nhiều. Ở độ tuổi này trẻ thường có thói quen quệt tay ngang mũi, thói quen vứt rác bừa bãi, chưa biết tự mặc quần áo, lấy cất giày dép, đồ dùng cá nhân, chưa biết tự rữa tay, lau mặt đúng cách ...đây là những nội dung mà cô giáo phải dạy trẻ để tạo cho trẻ những thói quen, nề nếp tốt nhằm giữ vệ sinh cá nhân, đảm bảo vệ sinh chung đúng với môi trường giáo dục.

Ví dụ như : Đầu năm học có một số cháu như: Thế Nhân, Phúc Hưng, Gia Hưng, Gia Bảo...có thói quen quệt tay ngang mũi, hoặc có khi lấy vạt áo để lau mũi. Bên cạnh đó còn có một số cháu khác như: Thái Dương, Đức Khang, Trọng Nghĩa...có thói quen vứt rác bừa bãi và 90% trẻ chưa biết tự mặc áo quần, lấy cất giày dép, đồ dùng cá nhân, chưa biết tự rửa tay lau mặt đúng cách.

Vì vậy, tôi đã đưa ra kế hoạch dạy trẻ và để làm tốt vấn đề này tôi đã thực hiện các hình thức, biện pháp như sau: tôi cùng với nhà trường vận động phụ huynh đóng góp các khoản thu nộp đầy đủ để có nguồn kinh phí mua sắm đầy đủ các đồ dùng để phục vụ hoạt động vệ sinh như: giá phơi khăn, khăn lau mặt, khăn mùi xoa, xà phòng...bên cạnh đó tôi kết hợp với giáo viên trong lớp thường xuyên sử dụng biện pháp làm mẫu, tạo môi trường lớp học mang tính giáo dục cao, xung quanh lớp tôi dán những bức tranh, những hình ảnh có nội dung tuyên truyền giáo dục trẻ, ở mọi lúc mọi nơi bất cứ thời điểm nào có thể tích hợp được là tôi thường giới thiệu cho trẻ biết về nội dung bức tranh, hình ảnh đó để nhắc nhở trẻ học tập và làm theo, bên cạnh đó tôi còn phân công các cháu theo dõi, quan sát nhau xem bạn mình làm như thế nào, làm đúng hay chưa. Ngoài ra bằng những lời ca, tiếng hát, thơ ca hò vè cũng là một hình thức giáo dục trẻ rất nhẹ nhàng và hiệu quả. Bên cạnh đó không thể thiếu lời khen ngợi động viên kịp thời trước những hành vi đẹp của trẻ, giúp trẻ thấy phấn khởi và thấy mình tiến bộ, mình giỏi thật sự.

Ví dụ như: Các cháu đầu năm chưa có thói quen giữ gìn vệ sinh thì cuối năm đã thưc hiện tương đối tốt các kỹ năng, thao tác rửa tay lau mặt và các kỹ năng khác.

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ vệ sinh

Điều kiện thực hiện: Thời gian vào đầu năm học khi đã bắt đầu đi vào rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì tôi thường xuyên hướng dẫn trẻ cách rửa tay, lau mặt, cách đi tiêu đi tiểu đúng nơi quy định. Sau khi trẻ đã quen dần với hoạt động giữ gìn vệ sinh thì tôi thường xuyên gần gũi, trò chuyện, nhắc nhở trẻ ở mọi mọi nơi. Bên cạnh đó tôi thường kết hợp với gia đình trẻ để thường xuyên động viên, nhắc nhở, giáo dục trẻ có thói quen tốt.

Chính vì vậy, đến nay lớp tôi không có hiện tượng trẻ quệt tay ngang mũi và vứt rác bừa bãi nữa mà các thói quen vệ sinh, lao động tự phục vụ của trẻ đã có những thay đổi và đạt kết quả tương đối tốt, 35/35 trẻ thực hiện đúng quy trình các thao tác rửa tay, lau mặt và biết vứt, bỏ rác đúng nơi quy định- đạt 100 %.

2.2.3. Biện pháp 3: Tạo cho trẻ có thói quen nề nếp trong: Hoạt động học, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi, ăn, ngủ.

Mục đích: Bước đầu hình thành cho trẻ có thói quen trong nề nếp học tập như: ngồi học ngay ngắn nghiêm túc, ra vào lớp biết xin phép cô giáo. Khi tham gia hoạt động

ngoài trời thì tuân thủ theo những yêu cầu, quy định của cô, của lớp, không chạy nhảy lung tung và hứng thú với hoạt động quan sát .

Giao dục trẻ trước khi ăn phải biết mời cô, mời bạn, khi ăn không nói chuyện, không nhai nhồm nhoàm, biết ăn hết khẩu phần ăn của mình và biết tên gọi, lợi ích của các loại thực phẩm.

Giáo dục trẻ biết ngủ đúng giờ, ngủ đủ giấc để đảm bảo sức khỏe.

Yêu cầu: Trẻ biết thực hiện đúng theo sự hướng dẫn của cô và biết tự giác khi tham gia các hoạt động.

Quy trình thực hiện: Thời gian mới vào đầu năm học, trẻ lớp tôi có thói quen cười nói tự do, ngồi học chưa ngay ngắn, nghiêm túc mà còn hay chạy lung tung trong lớp và ra vào lớp tự do mà không cần sự cho phép của cô giáo. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân, những khác biệt này bao gồm về thể chất, năng lực và tất cả các trẻ có quyền đòi hỏi quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Điều này cũng khiến tôi cảm thấy rất băn khoăn, lo lắng.

Muốn tạo cho trẻ có nề nếp thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của trẻ, luôn nhẹ nhàng gần gủi, yêu thương trẻ, luôn coi trẻ như con của mình để uốn nắn trẻ, để giúp trẻ có thói quen chú ý, tham gia các hoạt động của lớp tốt thì ban đầu tôi cho trẻ quen với việc thực hiện theo các hiệu lệnh của cô giáo.

Ví dụ: Khi cô nói : “các cháu” thì trẻ nói “im lặng” hay cô gõ xắc xô 1 tiếng thì trẻ nói “ trật tự ”, cô nói “miệng xinh ” thì trẻ đáp “ không nói chuyện” hoặc cô nói “bé ngoan” thì trẻ nói “ngồi đẹp ”... và tôi thường xuyên trò chuyện, nhắc nhở trẻ muốn ra vào lớp thì phải biết giơ tay xin phép cô, ngồi học ngay ngắn không nói chuyện.

Cùng với đó là biện pháp động viên, khen ngợi, nêu gương, phần thưởng để kích thích sự hứng thú của trẻ.

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ: Hoạt động đọc sách, xem sách

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ: Hoạt động vui chơi

Còn khi trẻ hoạt động ngoài trời thì tôi chọn những hoạt động, những đồ vật, sự việc gần gủi với trẻ để trẻ dễ quan sát và trò chuyện. Từ đó tạo sự hứng thú cho trẻ tham gia vào hoạt động, tránh trường hợp trẻ chạy nhảy lung tung.

Ví dụ : khi thực hiện chương trình chủ điểm: Thực vật, thì tôi chọn hoạt động có chủ đích là “ quan sát vườn rau” và trò chơi vận động “Gieo hạt” để tạo hứng thú cho trẻ.

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ:

Hoạt động ngoài trời: trẻ quan sát vườn rau

Đến giờ ăn trưa, đa số ở nhà trẻ được bố mẹ cưng chiều bồng bế mỗi khi cho ăn nên trẻ hay nũng nịu, cho nên khi đến trường thì đa số trẻ chưa biết tự bưng bát để ăn cơm. Bởi vậy, ngay từ đầu năm tôi nắm được đặc điểm của lớp và tôi đã dùng những biện pháp để giúp trẻ tự bưng cơm ăn và ngồi ăn không quấy khóc bằng cách: vào đầu giờ ăn thì tôi nhắc trẻ ngồi vào bàn ngay ngắn, không nói chuyện và khi lên bưng cơm là phải biết xin cô, cảm ơn cô. Bên cạnh đó tôi còn giáo dục trẻ biết mời cô, mời bạn ăn cơm và trong khi ăn không nói chuyện riêng, không để rơi cơm xuống bàn...Sau khi ăn xong phải biết rửa tay, lau mặt sạch sẽ. Trong khi trẻ ăn mà cháu nào ăn ít hoặc hay nói chuyện là tôi đến ngồi gần trẻ và động viên, nhắc nhở trẻ ăn (có thể xúc cơm cho trẻ ăn, động viên khuyến khích trẻ ăn hết suất).

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ ăn

Cứ như vậy, hàng ngày tôi thường xuyên gần gủi và rèn cho trẻ để trẻ có thói quen ngồi ăn nghiêm túc, không nói chuyện, không làm rơi vải cơm ...với những biện pháp này thì đến bây giờ 100 % trẻ lớp tôi đã đi vào nề nếp.

Đến giờ ngủ trưa thì đa số trẻ ở nhà còn ham chơi và bố mẹ cũng chưa tạo cho trẻ cho trẻ có thói quen ngủ trưa, nên đầu năm trẻ còn khó ngủ.Vì vậy, tôi thường mở những bản nhạc dân ca hoặc hát cho trẻ nghe để trẻ dể dàng đi vào giấc ngủ. Đến nay 100 % trẻ lớp tôi đã đi vào nề nếp ổn định và không có cháu nào quấy khóc trong khi ngủ.

Rèn nề nếp thói quen cho trẻ qua giờ ngủ

Điều kiện thực hiện: Ngoài thời gian tổ chức các hoạt động trên, thì ở mọi lúc mọi nơi khi nào có điều kiện là tôi trò chuyện với trẻ để động viên, khuyến khích trẻ thi đua cùng với các bạn và nhắc nhở phụ huynh về nhà dạy bảo thêm cho các cháu.

2.2.4. Biện pháp 4: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh:

Để thực hiện tốt việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ vai trò rất quan trọng do đó tôi đã tuyên truyền với các bậc phụ huynh về việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. Từ đó phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm ra nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với bố mẹ trẻ để rèn luyện thêm cho trẻ khi ở nhà giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ có khoa học hơn và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.

Vận động phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ câu chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt.

Tôi trao đổi với phụ huynh thông qua các hình thưc: qua giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh và cập nhật các thông tin trên bảng tuyên truyền “Những

điều bố mẹ cần biết” nhằm tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ.

2. 3. Kết quả đạt được:

* Đối với biện pháp : Dạy trẻ có thói quen chào hỏi người lớn.

- Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá – đạt 8,5%.

- Cuối học kỳ 1: + có 26/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 74,2%.

+ còn 9/35 cháu có nề nếp khá - chiếm 25,7 %.

- Cuối năm học: + có 34/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 97 %.

+ còn 1/35 cháu có nề nếp khá - chiếm 2,8%.

* Đối với biện pháp : Dạy trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân .

- Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá - đạt 8,5%.

- Cuối học kỳ 1: + có 30/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 85,7%.

+ còn 5/35 cháu có nề nếp khá – chiếm 14,3%.

- Cuối năm học: + có 35/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 100%.

* Đối với biện pháp: Tạo cho trẻ có thói quen, nề nếp: Hoạt động học, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi, ăn, ngủ .

- Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá – đạt 8,5%.

- Cuối học kỳ 1: + có 26/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 74,2%.

+ còn 9/35 cháu có nề nếp khá – chiếm 25,7 %.

- Cuối năm học: + có 35/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 100 %.

* Đối với biện pháp: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh: 35/35 phụ huynh đều tán thành và phối hợp tốt với cô giáo trong việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ.

3. Phần kết luận:

3.1 ý nghĩa của đề tài:

Là một giáo viên có nhiệt huyết với nghề, tôi luôn băn khoăn trăn trở đặt ra các câu hỏi “Làm thế nào? Làm gì?...” để rèn nề nếp thói quen cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tại lớp mình phụ trách. Sau một năm nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng các biện pháp hữu hiệu, kỷ năng nề nếp của trẻ lớp tôi đã được nâng cao rỏ rệt:

Nề nếp chào hỏi thì hầu như cháu nào cũng biết lễ phép với mọi người, đặc biệt là với bố mẹ, cô giáo. Điều đó thể hiện rõ rệt ở chổ: khi bố mẹ đưa trẻ đến trường, đến lớp là cháu niềm nở đến chào cô, chào bạn rồi chào bố mẹ để vào lớp một cách thích thú. Còn phụ huynh rất khen ngợi và phấn khởi khi con mình biết chào hỏi một cách lễ phép. Phụ huynh rất thích thú cho con đến trường và có nhiều tình cảm với cô giáo, với nghành học Mầm non.

Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã vận dụng trong việc rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi trong các hoạt động của năm học 2019-2020 mà tôi cho là có hiệu quả và có ý nghĩa rất to lớn đối với bản thân và bạn bè đồng nghiệp. Qua đó, sẽ giúp chúng ta có sự nhìn nhận về vấn đề một cách khoa học hơn và nếu xét về góc độ giáo dục nề nếp, thói quen đối với trẻ độ tuổi từ 4-5 tuổi mà cứ thực hiện theo một khuôn mẫu nhất định thì sẽ không đưa lại hiệu quả cao và tính chủ động tích cực của trẻ sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ của trẻ sẽ phát triển thấp và trẻ sẽ phát triển một cách thụ động. Vì thế cô giáo luôn tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo. Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non cần phải có sự định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Có cảm tình, có hứng thú với trẻ. Vì thế nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chổ cô biết hòa nhập vào thế giới của trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ để trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ có những hiểu biết nhất định và tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức, đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn trong cuộc sống.

Muốn thực hiện được những mục tiêu trên thì vần đề rèn nề nếp, thói quen cho trẻ mầm non phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng đổi mới. Đặc biệt là cô giáo phải có tâm huyết với nghề, phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên tiếp thu đầy đủ các chuyên đề và tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn nề nếp, thói quen cho trẻ đạt kết quả cao.

Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên cùng với sự phối hợp với các bậc phụ huynh sự nổ lực nhiệt tình của giáo viên đứng lớp, bản thân tôi thấy những biện pháp đó có hiệu quả nên tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp để cùng nhau học hỏi và trao đổi kinh nghiệm nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện hơn.

3.2. Bài học kinh nghiệm :

Qua thời gian thực hiện đề tài, bản thân tôi tự rút ra được bài học kinh nghiệm như sau:

- Cô giáo phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức, phẩm chất chính trị.

- Luôn luôn học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

- Phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, có ý thức tận tụy với công việc và biết hòa mình vào với trẻ để cùng chơi với trẻ.

- Cô giáo phải thường xuyên học tập, trau dồi kinh nghiệm, nâng cao tinh thần học hỏi để tiếp thu những ý kiến hay, những sáng kiến tốt.

- Giáo viên luôn gương mẫu trong mọi hoạt động. Mọi cử chỉ, lời nói của cô là hình ảnh, là tấm gương sáng để trẻ noi theo.

- Cần có sự phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên để nâng cao hiệu quả của việc chăm sóc, giáo dục trẻ.

Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện và đạt được. Tuy nhiên, trong khi thực hiện đề tài cũng có phần thiếu sót, kính mong Hội đồng khoa học, Ban lảnh đạo nhà trường và bạn bè đồng nghiệp có những ý kiến góp ý để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Hoài Thu


Top 10 Biện pháp rèn trẻ vào nề nếp hay nhất mà giáo viên mầm non nên biết

27-10-2021 10 29634 0 0