Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi

SKKN Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.19 KB, 20 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP:

“Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và
bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế giáo dục
con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con người đối
với xã hội, đối với cộng đồng. Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ tương lai của đất
nước nên ngay từ thưở lọt lòng mẹ chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo. Đối
với trẻ mầm non cuộc sống còn rất non nớt, rất cần sự chăm sóc của người lớn, đó là sự
chăm sóc không chỉ là vật chất mà còn cả về tinh thần vì đây là giai đoạn trẻ học, tiếp
thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm
xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế
giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó
với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm
sự giúp đỡ từ người khác.
Hiện nay tình trạng trẻ em vô tư, thờ ơ, trầm cảm, tự kỷ chưa có cách xử lý phù
hợp với những tình huống diễn ra hằng ngày như: Thưa – gởi, cảm ơn – xin lỗi, thăm
hỏi, giúp đỡ,...hay những hành vi gây hại với môi trường: Hái hoa, bẻ cành, dẫm lên
thảm cỏ, không thích chăm sóc cây cối xung quanh,...hoặc việc làm gây hại đến chính
bản thân trẻ: xem ti vi khoảng cách gần, ngủ không đúng giờ,...là nỗi trăn trở của người
giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đối với những trẻ có một số vấn đề về
hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng trẻ đến trường. Đơn giản là vì
những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và
làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô
giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có
được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp
và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
Để có một đất nước phồn vinh, văn minh, giàu mạnh, đầy ắp những con người
biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó
khăn, luôn có thái độ, hành vi ứng xử đúng với tình huống đã, đang và có thể sẽ xảy ra
1




trong thực tế. Ngay từ lứa tuổi mầm non, quan trọng là trẻ 5 tuổi chúng ta cần hình thành
“kỹ năng sống” phù hợp, để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách có định
hướng, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống
trên 4 lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần. Từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ
năng sống hòa nhập với thế giới xung quanh.
Với trách nhiệm là giáo viên chủ nhiệm lớp 5 tuổi, tôi đã trăn trở rất nhiều về
việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh
trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ.
Một tập thể trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui vẻ
và phát triển ở nhóm lớp. Nếu thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cũng
đồng nghĩa với việc thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn bởi 2 yếu tố này hỗ trợ lẫn nhau
và không tách rời nhau. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”.
II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP

Đề tài sáng kiến đã từng có nhiều người nghiên cứu song ở mỗi độ tuổi, mỗi
trường, mỗi vùng miền lại mang một đặc điểm riêng. Do vậy các giải pháp đưa ra áp
dụng cũng không thể giống nhau. Và thực tế ở trường mầm non n¬i t«i c«ng t¸c,
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được tổ chức lồng ghép ở lớp thông qua mọi hoạt động tại
thời điểm trong ngày, thế nhưng giáo viên chưa thực sự chú trọng đến việc tổ chức các
hoạt động giáo dục kỹ năng đó sao cho phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn và đưa lại hiệu quả
giáo dục cao. Chính vì thế giáo dục kỹ năng sống vẫn còn thể hiện một cách hình thức,
chưa thể hiện hết hiệu quả của nó đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Vì lẽ đó tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài này nhằm mục đích:
Phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, lễ phép, tự tin của trẻ
thông qua các hoạt động trong ngày như ( hoạt động học, chơi,ăn, ngũ, lao động….)
nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản. Từ đó, giúp trẻ có thái độ,
hành vi đúng đắn, tích cực đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, có kinh

nghiệm trong cuộc sống, biết được điều nên làm và không nên làm để thích ứng với
cuộc sống hiện tại và trong tương lai. Ví dụ: trẻ nói lời “cảm ơn” khi được được lớn hay
2


bạn bè cho quà, hay thấy cộng rác là trẻ tự nhặt bỏ vào thùng rác, hành động “cảm ơn”;
“nhặt rác” đã trở thành “ý thức” của trẻ chứ không phải vì người khác sai bảo.
III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi”, tôi đã vận dụng những kiến thức, hiểu biết cơ bản của mình
chuyễn tải đến trẻ nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ đạt được kết quả khá mỹ mãn.
Được hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao và khuyến khích cần nhân rộng đề tài
ở các trường MN trong toàn huyện, tỉnh và đăng trên Web, giáo án điện tử.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU:

Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả
năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Lứa tuổi
mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân cách. Kỹ
năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách trẻ. Phát triển về các mặt
thể chất, tình cảm - xã hội, về giao tiếp, về ngôn ngữ, nhận thức , giúp trẻ sẵn sàng đi
học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là:
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo
bền bỉ, tháo vát, có khả năng thích ứng được với những điều kiện sống thay đổi.
Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương và lòng biết ơn, đồng cảm
với mọi người xung quanh.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người khác,
có khả năng giao tiếp tốt với mọi người.
Giúp trẻ ham hiểu biết, linh hoạt sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt
động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành

nhiệm vụ…Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng chào hỏi, Kỹ
năng tự phục vụ, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng mạnh dạn, kỹ năng nhận thức, kỹ
năng vận động, kỹ năng thích nghi, kỹ năng vệ sinh . Từ đó, chương trình giáo dục mầm
non đã đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: Dạy trẻ có kỹ năng
hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ
năng kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ
3


vi nhau, c th hin an xen vo nhau, cú th thc hnh trong bt c tỡnh hung no
xy ra hng ngy. Cho nờn vic giỏo dc v vn dng tt s giỳp tr cú nhõn cỏch tt.
Khi giỏo dc k nng sng cũn gúp phn m rng nhn thc, phỏt trin trớ tu, giỏo dc
o c, giỏo dc thm m, phỏt trin ngụn ng... cho tr.
Ni dung dy k nng sng cho tr mm non ó trin khai c mt s nm hc,
tuy nhiờn kt qu t trờn tr cha cao v cha ng u gia cỏc tr. Nu giỏo viờn
thc hin chuyờn sõu v cú phng phỏp giỏo dc phự hp thỡ kt qu trờn tr s cú
bc tin b nhanh chúng.
1. Thun li:
Nm hc 2016 -2017 tụi c nh trng phõn cụng ch nhim nhúm lp 5- 6
vi s lng l 39 chỏu, trong ú 19 chỏu n, 20 chỏu nam, tt c u ó qua lp mu
giỏo nh nờn ó cú mt s k nng sng c bn. a s tr ngoan ngoón, mnh dn, hn
nhiờn, t yờu cu v phỏt trin th cht, phỏt trin nhn thc, phỏt trin ngụn ng, v
tỡnh cm xó hi, bit cm th cỏi hay cỏi p trong cuc sng xung quanh tr.
Lớp học cú din tớch, sch s, thoỏng mỏt cú y ỏnh sỏng tr hc tp.
Mt khỏc lp c u t y trang thit b in t, CNTT, giỳp giỏo viờn d dng
hn trong vic chuyn ti kin thc, tit hc cng tr nờn sinh ng v hp dn. Nh
trng luụn to iu kin giỳp v trang thit b dng c, dựng dy hc.
Luụn nhn đợc sự quan tâm chỉ đạo sát sao v chuyờn mụn của ban
giám hiệu nhà trờng ó to iu kin cho giỏo viờn c i tp hun, hc hi thờm
kinh nghim ca cỏc trng bn.

Bn thõn tụi luụn cú tinh thn trỏch nhim cao, yờu ngh mn tr, luụn quan sỏt,
nm bt c c im tõm sinh lý, hỡnh thnh n np thúi quen ca tng tr trong lp.
Bn thõn trỡnh chuyờn mụn i hc, c tp hun v ni dung dy k nng
sng cho tr mm non do Phũng giỏo dc t chc v qua cỏc bui bi dng chuyờn
mụn ti trng, tớch cc nghiờn cu ti liu v giỏo dc k nng sng cho tr mm non.
Trng, lp cú khụng gian hot ng an ton cho tr, cú dựng chi cn
thit trong cỏc hot ng giỏo dc.

4


Tr kho mnh v rt ho hng , sụi ni vi cỏc hot ng do cụ t chc, lnh hi
nhanh cỏc kin thc cụ giỏo truyn t.
Ph huynh quan tõm n tr, tớch cc tham gia vo cỏc hot ng ca nh trng,
ca nhúm lp.
Ti liu hng dn s dng b chun phỏt trin tr 5 tui cú cỏc ch s, hng dn
cỏch ỏnh giỏ tr rừ rng v c th nờn vic dy tr cỏc k nng v ỏnh giỏ kt qu trờn
tr rt thun li, chớnh xỏc, t ú bit tr no t c v cha t c tip tc rốn
tr vo cỏc ch tip theo.
Mặc dù có những thuận lợi nh vậy song trong quỏ trỡnh thc hin vn
gp phi nhng khăn sau:
2. Khú khn
Trỡnh nhn thc ca tr khụng ng u, do ú cựng mt thi gian v bin
phỏp dy tr cỏc ni dung k nng sng nhng kt qu trờn tr t cha tng ng vi
nhau.
Mt s tr nhỳt nhỏt nờn khụng t tin khi tham gia vo cỏc hot ng ,mt s tr
li quỏ hiu ng nờn khi hot ng cha chỳ ý vo s hng dn ca cụ, k nng sng
ca tr cũn nhiu hn ch.
S quan tõm ca gia ỡnh dnh cho cỏc chỏu l khụng ng u, 100% ph huynh
l nụng thụn . Mt s ph huynh i lm n xa cỏc chỏu nh vi cỏc anh ch hoc

ụng b ó gi, thi gian ph huynh quan tõm n tr cũn ớt, khụng dnh thi gian trũ
chuyn tỡm hiu tõm t nguyn vng ca tr giỏo dc tr m ch bit chiu theo
mi ũi hi ca tr, tr c ỏp ng quỏ y v nhu cu tr cn. Vớ d: tr ch cn
ũi mua dựng no ú l c ỏp ng ngay m khụng bit iu ú cú phự hp vi
hon cnh kinh t ca b m hay khụng, khi c mún chi ú tr cng khụng bit
cm n b m.õy cng l mt trong nhng nguyờn nhõn lm cho tr thiu k nng
sng.
Mc dự nh trng ó h tr v u t, tuy nhiờn kinh phớ trong vic t chc mt
s cỏc hot ng ngoi khoỏ vo cỏc ngy l, ngy tt nhm dy k nng sng cho tr
cũn hn ch v cha thng xuyờn.
5


Mt s nm hc tr li õy, riờng ni dung giỏo dc tr 5 tui cú ban hnh b
chun phỏt trin tr 5 tui thụng qua 4 lnh vc - 28 chun- 120 ch s vi yờu cu giỏo
viờn lng ghộp cỏc ch s ny vo mc tiờu tng ch sao cho phự hp qua ú dy
tr cỏc kin thc v k nng cn thit, chun b v tõm th v th cht cho tr 5 tui lờn
lp mt. a s giỏo viờn ó lng ghộp ch s vo mc tiờu phự hp nhng mt s ch s
cha t c ch trc giỏo viờn thng b qua m khụng rốn tip tr hoc a
tip vo mc tiờu ca ch sau cho nờn nhiu tr b b qua cỏc k nng ca ch s ú.
3. Kho sỏt thc trng:
* V phớa tr:
Vào đầu tháng 9, tôi tiến hành khảo sát để đánh giá về thực
chất và khả năng của trẻ, xem kỹ năng sng ca tr thụng qua cỏc mt t
c nh th no. Tôi đánh giá 2 mức độ ( t v cha t), để từ đó có
kế hoạch bồi dỡng cụ thể:
t
Mc ni dung kho sỏt
K nng giao tip cho hi
K nng t lp, t phc v

K nng hp tỏc hot ng cựng nhúm
Tr mnh dn, t tin
K nng nhn thc
K nng vn ng
K nng thớch nghi
K nng v sinh

SL

%

20
19
13
10
10
15
13
14

51%
49%
33%
26%
26%
38%
33%
36%

Khụng t

SL
%
19
20
26
29
29
24
26
25

49%
51%
67%
74%
74%
62%
67%
64%

Qua bng kho sỏt, thng kờ trờn thỡ chỳng ta bit c rng k nng sng ca
tr lp tụi cỏc mt cũn hn ch. T l tr t c quỏ thp..
* V phớa giỏo viờn.
Giỏo viờn ó tớch cc thc hin lng ghộp ni dung dy k nng sng cho tr vo
cỏc hot ng trong ngy , ó a cỏc ch s phỏt trin tr 5 tui vo mc tiờu ca ch
rốn mt s k nng qua cỏc ch s ú nhng hỡnh thc t chc cha linh hot, cha
sỏng to, cũn lung tỳng nờn cha lụi cun tr tham gia hot ng mt cỏch hng thỳ.

6



Chưa mạnh dạn, tự tin, chưa chú trọng sâu vào việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
* Về phía phụ huynh.
Một số phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện các
kỹ năng sống tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người thân
chiều chuộng thì trẻ lại không thực hiện một số kỹ năng sống trẻ có mà luôn phụ thuộc
vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất cứ lúc nào
nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…). Phụ huynh còn nuông chiều và làm
thay trẻ
4. Nguyên nhân của thực trạng
Qua khảo sát, đánh giá kết quả tôi tìm ra một số nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ đạt được
của trẻ còn thấp đó là:
Do trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều.
Do trẻ còn nhút nhát không giám thực hiện theo yêu cầu của cô.
Hình thức tổ chức các hoạt động chưa linh hoạt, chưa kích thích hứng thú cho trẻ
hoạt động.
Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đẹp, chưa hấp dẫn.
Công tác phối kết hợp với phụ huynh của giáo viên còn hạn chế.
Qua kết quả khảo sát thực trạng trên, bản thân tôi rất băn khoăn, lo lắng để tìm ra
các biện pháp nhằm đưa chất lượng của giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả cao hơn. Vì
vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ” ở lớp mình phụ trách.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:

*Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức tìm tòi để tự bồi dưỡng cho bản thân.
Để thực hiện tốt “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi”
trước hết giáo viên không chỉ nghiên cứu nắm vững, mục đích, yêu cầu của hoạt động,

mà còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh
7


hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt. Giúp trẻ hiểu bài sâu hơn, và
vận dụng những điều đã học vào thực tế hằng ngày của trẻ.
Năm học 2016 – 2017 bản thân tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm
cho tham gia lớp tập huấn tại phòng giáo dục với chuyên đề dạy kỹ năng sống cho trẻ
từ đó giúp tôi càng nắm chắc, khắc sâu hơn kiến thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ như:
mục đích, nội dung, phương pháp…để truyền thụ kiến thức cho trẻ thông qua các hoạt
động trong ngày.
Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí
mầm non, xem ti vi…..Cụ thể là:
+ Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm
non theo bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi.
+ Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non{ nhà xuất bản đại
học quốc gia}.
+ Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu
giáo.
+ Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo.
Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…
+ Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta
trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần…
Tôi mạnh dạn trao đổi, chia sẽ, thảo luận với đồng nghiệp trong trường và trường
bạn về thực trạng và giải pháp mà tôi đã thực hiện và tham khảo thêm ở các bạn đồng
nghiệp để từ đó tôi lĩnh hội được vốn kiến thức tốt nhất trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống cần thiết.
Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương
để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả
bằng phương pháp “ Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội

dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng
nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề. Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô
giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và tôi đưa
8


ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
đó là: Không nói dài và nói nhiều; Không đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi;
Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh luận
và kết luận; Không làm thay, làm hộ trẻ; Không bắt trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay
lập tức, vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thỏa thuận giữa các bên, không
tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở trẻ.
* Giải pháp 2: Hình thành kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong
ngày.
. Hình thành thói quen tốt trong giờ đón, trả trẻ:
Trong xã hội hiện nay với công nghệ tiên tiến phát triển không ngừng về mọi mặt,
thì những kỹ năng giao tiếp chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ
năng chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón trả trẻ.
Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp vơi cô cùng bạn bè,
tôi chủ động chào trẻ trước “ Cô chào bạn Lan” thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “ Con
chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ để đi vào lớp nào. Hoặc khi trẻ đang chơi nếu
có khách đến thì tôi nhắc trẻ “ Các con chào bác, cô, dì.... đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ
sẽ có thó quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao
tiếp với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi với trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn,
về những người thân của trẻ, thế giới xung quanh từ đó trẻ mạnh dạn hơn, khi tiếp xúc
và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác.
Tôi sử dụng phương pháp thực hành, trải nghiệm, hình thức nêu gương, đánh giá
để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn. Cụ thể ngay từ đầu năm tôi đã tập cho trẻ ý thức tự cất
đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp lúc vào lớp cũng như lúc ra về. Và tôi phân công nhóm
trưởng sẽ kiểm tra xem bạn nào thực hiện chưa đạt, cuối ngày tôi sẽ đánh giá và nêu

gương bạn thực hiện tốt, đồng thời cũng khích lệ động viên cá nhân có cố gắng. Sau đó
tôi có thể đưa ra hình thức khen thưởng khác (cắm cờ, kẹo, tặng quà, ..) để trẻ thực hiện
tốt hơn. Từ đó việc cất đồ dùng không còn là “hành động” mà trở thành “ý thức”, trẻ tự
thực hiện không cần phải đợi nhắc nhở hay kiểm tra.
. Hình thành kỹ năng sống thông qua hoạt động học:
9


Tôi luôn chú ý bồi dưỡng cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân cách tốt đẹp qua những
câu chuyện, bài thơ, tục ngữ, ca dao, đồng dao, bài hát,.... Được nghe kể chuyện là điều
trẻ rất thích, do đó tôi lựa chọn câu chuyện phù hợp để lồng ghép giáo dục. Chẳng hạn
chủ đề bản thân, với câu chuyện “Giấc mơ kì lạ” có nội dung giáo dục “ăn uống đầy đủ
để các giác quan hoạt động”, khi đó cô chuyển tải những thông điệp quý báu “kỹ năng tự
nhận thức bản thân”, hãy biết giữ gìn và bảo vệ chính cơ thể mình.
Trong bài thơ “Thỏ bông bị ốm” với nội dung “Bạn Thỏ bị đau bụng với lý do ăn
thức ăn còn sống, uống nước ngoài ao” nhằm lồng ghép giáo dục kỹ năng an toàn, tự
bảo vệ (không ăn thức ăn chưa được nấu chín, không ra gần bờ ao dễ xảy ra tai nạn).
Thông qua hoạt động âm nhạc kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ tình cảm, khả
năng tưởng tượng, và tính sáng tạo của mình.
Ví dụ: Tiết múa “ Cô mẫu giáo miền xuôi” trẻ nói “ Dạ thưa cô cháu không múa
được” Cô động viên trẻ thế con có yêu cô giáo của mình không? À vậy thì con hãy múa
cùng cô để tặng cô giáo của mình nha. Từ những lời động viên khích lệ đó trẻ sẽ hứng
thú hơn và tự tin hơn trong hoạt động.
Thông qua hoạt động làm quen với toán: “ Sắp xếp theo quy tắc” tôi sử dụng trò
chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng, nhanh, thì đội đó
sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác hoàn thành bài tâp.
Trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ dùng đồ chơi sáng tạo
Thông qua hoạt động môi trường xung quanh: Chủ đề gia đình tôi cho trẻ chia sẻ
những thông tin về gia đình, những việc mà trẻ hay làm ở nhà, qua đó giáo dục kỹ năng
giao tiếp, lắng nghe ý kiến người khác.

Đối với các hoạt động khác diễn ra trong hoạt động học cũng vậy, giáo viên lựa
chọn nội dung phù hợp, kết hợp với phương pháp dùng lời, trẻ được nghe, được đọc
cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung quanh, từ
đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm.
. Hình thành kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi.
Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo “Học bằng chơi chơi mà học” , thông qua hoạt
động vui chơi trẻ sẽ bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt, vì vậy tôi luôn lồng
10


ghép tích hợp nhiều kỹ năng sống cần thiết. Ví dụ “nhìn ngắm hoa đẹp” trẻ thể hiện cảm
xúc vui vẻ, thoải mái, từ đó trẻ yêu thích cái đẹp, không được hái hoa vì hoa làm đẹp
cho thiên nhiên. Hoặc tôi sử dụng tình huống để trẻ giải quyết “đang đi dạo chơi cùng
trẻ thì trẻ bị ngã”, lúc này trẻ sẽ dựa vào cách giải quyết của trẻ mà rèn cho trẻ “kỹ năng
giúp đỡ chia sẻ”, phải biết đỡ bạn bị ngã, không những vậy mà khi đi bất cứ đâu nếu có
gặp người lớn tuổi, em nhỏ, người tàn tật thì giúp đỡ, cảm thông với hoàn cảnh của họ.
Giáo viên cho trẻ dạo chơi sân trường, tận dụng nhiều tình huống ví dụ “cơn gió
làm lá cây rơi xuống sân”, sân trường không còn sạch đẹp, vậy làm thế nào để sân
trường sạch đẹp ? (nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào thùng rác)...Hình thành được kỹ năng
ứng xử văn minh cho trẻ, không những ở trường mà trẻ sẽ thực hiện việc giữ vệ sinh ở
nhà, ở lớp, ở nơi công cộng...
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, trẻ 5 tuổi càng hứng thú
và tích cực hơn bởi đáp ứng được nhu cầu. Trẻ được chơi với đồ vật, được trải nghiệm
thực tế, là cơ sở vững chắc để hình thành và phát triển, rèn luyện và giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
Trong chủ đề “nghề nghiệp” ở góc phân vai có trò chơi “bác sĩ”, bác sĩ khám bệnh
cho bệnh nhân với thái độ vui vẻ, niềm nở, y tá cấp phát thuốc và dặn bệnh nhân uống
thuốc đúng giờ, bệnh nhân bốc số thứ tự và ngồi chờ khám theo lượt, lúc này tôi giả bộ
đóng vai bà lão đi khám bệnh, bà lão đi sau cùng nhưng được cô y tá dẫn đi khám trước,
tình huống xảy ra là các bệnh nhân kia không đồng ý, bác sĩ mới ra giải thích: bệnh nhân

vui lòng đợi tí, ưu tiên cho người già và trẻ nhỏ. Có thể nói trẻ đóng vai bác sĩ đã có
kinh nghiệm sống rất tốt và trẻ đã áp dụng ngay trong quá trình chơi, kỹ năng giao tiếp
và ứng xử văn minh được thể hiện.
Ở chủ đề “Giao thông” có góc chơi “ba chở con đi học bằng xe máy”, yêu cầu trẻ
phải đội mũ bảo hiểm, cô dạy trẻ cách đội, cách gài dây, thao tác lặp đi lặp lại 2- 3 lần,
từ đó hình thành kỹ năng an toàn và rèn luyện một cách tự nhiên.
Đối với chủ đề “Gia đình” dạy trẻ kỹ năng chia sẻ, thể hiện sự quan tâm lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình, ví dụ như: gọi điện thoại hỏi thăm, chăm sóc ông bà,
gia đình cùng nhau đi du lịch, thăm hỏi lẫn nhau lúc ốm đau...
11


Thông qua hoạt động vui chơi tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ tuổi
này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, trẻ sẳn sàng chia sẽ với bạn, và tình bạn
trở nên cần thiết đối với trẻ
Ví dụ: Với góc chơi xây dựng trong chủ đề giao thông, trong khi xây thì tất cả các
thành viên trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau, và
cùng làm công việc được giao. Cuối cùng trẻ hoàn thành công trình đã xây dựng. Đó là
cách hợp tác cùng làm việc
Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài, có rất nhiều tình huống
xảy ra, giáo viên cần bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh hành vi, giúp trẻ có
thói quen tốt, biết được cái nào nên làm, cái nào không nên làm. Lâu dần những thói
quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích lũy và trở thành kỹ năng sống đối với trẻ.
. Kỹ năng sống khi ăn, khi ngủ, khi vệ sinh
Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh tôi luôn dành thời gian cho trẻ tự thực hiện các kỹ
năng tự phục vụ, luôn chờ đợi trẻ không nóng vội không làm hộ trẻ. Chẳng hạn trẻ biết
trước khi ăn là phải rửa tay, tự lấy ghế vào bàn ăn, ăn xong phải đánh răng, tự thay quần
áo, xếp quần áo gọn gàng, tự lấy gối ngủ dậy tự cất đồ dùng.
Trong giờ ăn tôi lồng ghép các bài thơ “ Giờ ăn” “ Bé ơi nhớ nhé” để dạy lồng
ghép kỹ năng vệ sinh cho trẻ. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, trẻ tự thực hiện mà

không cần giáo viên phải nhắc nhở. Dạy trẻ trước khi ăn phải biết mời cô, mời bạn, lịch
sự trong ăn uống từ tốn, không khua thìa bát, ăn sạch sẽ , nói năng lễ phép… Kỹ năng
sống ấy không những được trẻ thực hiện ở trường mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ
đâu khi trẻ đi đến.
*Giải pháp 3: Sử dụng các tình huống có vấn đề để hình thành một số kỹ năng
sống cần thiết.
Một trong những kỹ năng cần hình thành, thì kỹ năng an toàn, tự bảo vệ là một trong
những số đó, giúp trẻ có khả năng biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy không
an toàn. Tôi tự đặt ra một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, và những tình huống
khác, có liên quan cũng được áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc trẻ. Ví dụ: Tôi kể
cho trẻ nghe câu chuyện: Bạn An được mẹ hứa rướt về sớm, nhưng mẹ bận họp đột xuất,
12


chờ mãi mà không thấy mẹ. An đi ra cổng để đón mẹ, bỗng có một người phụ nữ cho
bạn An kẹo và nói “Hôm nay mẹ bận không đón con được, mẹ nhờ cô chở con về, con
ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Tôi dừng lại và hỏi trẻ : bạn An có về với
người phụ nữ đó không ? Nếu con là bạn An con sẽ xử trí như thế nào ? Cho trẻ thảo
luận và đưa ra câu trả lời. Sau đó cô kể tiếp: Bạn An không chịu lên xe, nói là đợi mẹ
đón về, bạn An đi trở vào lớp, người phụ nữ nắm lấy áo bạn An, bạn An đã kêu lên thật
to “cứu con với, có người định bắt con”, chú bảo vệ chạy tới...Qua câu chuyện tôi rèn
cho trẻ biết “không đi theo người lạ dù người lạ có cho bất cứ gì”. tôi có thể cho trẻ
đóng vai các nhân vật trong câu chuyện cô vừa kể để khắc sâu hơn kỹ năng.
Ngoài ra tôi có thể đặt ra nhiều tình huống khác và tổ chức lồng ghép mọi lúc mọi nơi
để trẻ có cơ hội giải quyết và xử lý tình huống như: khi ở nhà một mình (không được mở
cửa cho người lạ vào), đi lạc đường (đứng ở nơi trống và kêu thật to), khi bị côn trùng
cắn (nói liền với người lớn),...
Rèn luyện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Kỹ năng sống của trẻ được
tiếp nhận và rèn luyện mọi lúc mọi nơi trong môi trường gia đình và nhà trường. Ở
trường tôi tận dụng bất cứ khi nào có thể để hình thành, rèn luyện kỹ năng cho trẻ.

* Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin đưa vào các chủ đề để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
Để dạy tốt kỹ năng sống cho trẻ tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Tôi tìm tòi các đoạn phim, video
phù hợp để đưa vào các chủ đề nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ một cách tốt nhất.
Ở chủ đề: “Trường mầm non” Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi,
tạm biệt, cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng
nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, hòa thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn
hoàn thành công việc…
Ở chủ đề “ Bản thân” để trẻ biết được cách chăm sóc bản thân và các kỹ năng tự
phục vụ thì tôi đã cho trẻ xem một đoạn video từ đó trẻ sẽ hiểu rỏ hơn về bản thân, cách
vệ sinh, cách mặc quần áo và các khả năng tự phục vụ khác.

13


Ở chủ đề gia đình tôi cho trẻ xem một đoạn phim nói về tình cảm của các thành
viên trong gia đình, trẻ biết được cách ứng xử đối với các thành viên trong gia đình. Biết
lế phép với người lớn, biết yêu thương quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Từ đó các kỹ năng
tốt sẽ được hình thành ở trẻ.
Ở chủ đề nghề nghiệp tôi lồng ghép hình ảnh chú bộ đội vào các hoạt động để giúp
trẻ biết công lao to lớn của các chú bộ đội, từ đó trẻ biết yêu thương các chú bộ đội và
luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho các chú….
Ngoài ra tôi đã tìm tòi và đã đưa các chương trình trên tivi như “quà tặng cuộc sống”,
vào cho trẻ xem để hình thành ở trẻ những kỹ năng sống cần thiết
Trẻ hứng thú hơn khi được xem trực tiếp các đoạn video, phim, bởi các hình ảnh đẹp,
sống động, kích thích sự tò mò, khám phá của trẻ, trẻ cùng nhau chia sẻ, tìm tòi lĩnh hội
được nhiều kinh nghiệm quý báu hơn từ đó các kỹ năng sống tốt sẽ được khắc sâu hơn
cho trẻ.
*Giải pháp 5: Tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ

năng sống cho trẻ.
Hiểu rỏ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ vào việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm, khi tổ chức họp phụ huynh tôi
đã đưa ra sáng kiến và ý tưởng giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và
thống nhất với các phụ huynh biện pháp giáo dục ở nhà. Đặc biệt đối với phụ huynh ít
quan tâm đến con, tôi tìm gặp và trao đổi về tình hình học tập của cháu ở lớp và hỏi nề
nếp, sinh hoạt sở thích của cháu khi ở nhà. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển
kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo mối lên kết giữ cô và gia đình và bạn bè.
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả tốt thì mỗi một giáo viên phải biết
kết hợp hài hòa các biện pháp trên. Và không thể thiếu một trong những biện pháp đó.
bên cạnh đó không thể thiếu là tình yêu thương, ý thức, trách nhiệm và tình yêu thương
của cô giáo đối với trẻ.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:

Sau một thời gian thực hiện các giải pháp nêu trên, lớp tôi đã đạt được những
kết quả như sau:
14


* Về phía học sinh
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình
tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 5 tuổi được rèn
luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường tiểu học sau này.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng
nhận thức.
Trẻ đi học đều đạt tỷ lệ 98% trở lên, trẻ chăm ngoan đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó
khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp
khay để khăn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa ….trong các giờ ăn, tự xếp chăn và gối
trước và sau khi ngủ ...
Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng gia tiếp chung

Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc của mình đến
cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày
100% trẻ khỏe mạnh, sạch sẽ, mạnh dạn, hồn nhiên.
Trẻ có ý thức học tập tốt, biết lao động tự phục vụ bản thân, có thói quen vệ sinh ở
mọi lúc, mọi nơi.
Với việc áp dụng các giải pháp vào tình hình thực tế ở lớp kết quả đạt được khá mĩ
mãn, cụ thể như sau:
* Bảng kết quả so sánh có đối chứng:
Nội dung và mức độ khảo sát
Kỹ năng giao tiếp chào hỏi
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
Kỹ năng hợp tác hoạt động cùng nhóm
Trẻ mạnh dạn, tự tin
Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng vận động
Kỹ năng thích nghi
Kỹ năng vệ sinh

Đầu năm
Đạt
SL
%
20
51%
19
49%
13
33%
10
26%

10
26%
15
38%
13
33%
14
36%

* Về phía giáo viên
15

Cuối năm
Đạt
SL
%
39
100%
39
100%
39
100%
39
100%
39
100%
39
100%
39
100%

39
100%


Bản thân tôi nắm rất chắc nội dung, phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tự tin sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo được uy tín, tiềm năng đối với phụ huynh.
Qua các đợt thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất của ngành, lớp được xếp loại Tốt.
* Về phía phụ huynh :
Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, luôn
quan tâm đến sự phát triển sau này của con em mình.
Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống, trao đổi với giáo viên thông qua nhiều hình thức
Giao tiếp giữa bố mẹ và con gần gũi hơn, ít la mắng hơn, hướng dẫn trẻ để trẻ tự đi
lây đồ dùng phục vụ bản thân.
C. PHẦN KÕt luËn

.

I.Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP

Việc áp dụng các biện pháp trong quá trình nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm
như: Nâng cao nhận thức tìm tòi để tự bồi dưỡng cho bản thân. Hình thành kỹ năng sống
thông qua một số hoạt động trong ngày, sử dụng tình huống có vấn đề, phối hợp với phụ
huynh nhằm mục đích giúp trẻ có thái độ, hành vi đúng đắn, tích cực đối với môi trường
tự nhiên, môi trường xã hội, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được điều nên làm và
không nên làm để thích ứng với cuộc sống hiện tại và trong tương lai
Với những kết quả đạt được như hôm nay, tôi rất phấn khởi và tự tin hơn khi tổ
chức thực hiện các họat động giáo dục kỹ năng sống trên lớp . Từ đó tôi rút ra những
bài học kinh nghiệm.

Để làm tốt nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, giáo viên phải có lòng yêu
nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt giáo viên phải biết
tự bồi dưỡng để có vốn kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử
dụng linh hoạt những phương pháp, biện pháp, thủ thuật đề ra trong tiết học.
Giáo viên dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Chú
trọng dạy trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, luôn hướng trẻ vào hoạt động một cách
tích cực nhất. Cô chỉ là người gợi mở, và hướng dẫn thêm cho trẻ khi cần thiết.
16


Thông qua ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng đoạn vi deo, Clip… trình
chiếu trẻ xem để trẻ học tập những hành động tốt bắt chước.
Phối kết hợp với phụ huynh để hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở nhà.
Người lớn phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, tắm mình
trong thế giới đó để rồi từ đó trẻ có những hiểu biết nhất định về thế giới bên ngoài từ
đó hình thành ở trẻ tính tự lâp, kiên trì từ đó phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:

Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay thông qua
việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được một số kết quả như đã nêu. Bản
thân xin có một số đề xuất sau :
1. Đối với phòng giáo dục và đào tạo:
Tạo điều kiện bổ sung những tài liệu tham khảo, trang thiết bị và đồ dùng phục vụ
trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cần tăng cường hơn nữa các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có nhiều cơ hội
học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân.
Cung cấp các tiến bộ khoa học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi hình...
để cung cấp thêm tư liệu cho giáo viên.
2. Đối với nhà trường:
Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên dự giờ, tổ chức thao giảng, hội thảo... về

chuyên đề giáo dục kỹ năng sống để các giáo viên có thể trao đổi , học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau.
Tạo điều kiện cho chị em giáo viên được dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy.
Ban giám hiệu cần có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức chăm sóc giáo dục
trẻ trong qua trình giáo dục kỹ năng sống và có những biện pháp hữu hiệu để giáo viên
thực hiện được tốt hơn.
Cần tạo môi trường thuận lợi về các yếu tố cho trẻ học tập như: yếu tố về thiên nhiên,
yếu tố vệ sinh để trẻ có một sân chơi bổ ích.
17


Trên đây là “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi”. Rất mong được sự góp ý của hôị đồng khoa học để bản sáng kiến được hoàn
thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn

18


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………….............................................................

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………..........................................................................
..............................................................................................................................................
....................................................................................................................


19


20



Skkn một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi

  • doc
  • 28 trang
PHÒNG GD&ĐT THANH OAI
TRƯỜNG MẦM NON KIM THƯ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độclập - Tựdo - Hạnhphúc

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Nămhọc 2015 - 2016

SƠ YẾU LÝ LỊCH
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy
- Ngày, tháng, năm sinh: 28/11/1979
- Năm vào nghành: 2002
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thư
- Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm
- Hệ đào tạo: Tại chức
- Khenthưởng: Chiến sĩ thi đua nhiều năm liền 2004 đến 2009.

2

Mục Lục
Nội dung
Sơ yếu lý lịch
Mục lục
Phần I: Đặt vấn đề
1.Tên đề tài.
2.Lý do chọn đề tài
3.Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Phạm vi và thời gian thực hiện
Phần II. Giải quyết vấn đề
1.Cơ sở lý luận
2.Thực trạng của vấn đề
*Thuận lợi và khó khăn
*Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài
3.Những biện pháp thực hiện.
3.1. Biện pháp 1: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng
nghiệp.
3.2. Biện pháp 2: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
3.3. Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ thông qua các hoạt động hàng ngày
3.4. Biện pháp 4: Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động
khác trong ngày.
3.5. Biện pháp 5. Dạy kỹ năng đơn giản cho trẻ tự kỷ
3.6. Biện pháp 6. Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
đưa vào các chủ đề.
3.7. Biện pháp 7:Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
4. Kết quả đạt được
Phần III. Kết luận và khuyến nghị
1.Kết luận
2. Khuyến nghị

Trang
2
3
4
4
4
5
5
5
5
5
6
6
6
7
7
10
13
18
21
22
24
25
27
27
27

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tên đề tài: “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi.”
2.Lý do chọn đề tài:

3

Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ
nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam “ Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục
trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Nhưng
trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều
các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái, chính vì vậy trẻ
hay thu mình và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện
của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Vì vậy việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn
mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng
những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ,
giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực : Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh
thần, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung
quanh. Ở mỗi lứa tuổi thì trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng
sống của trẻ. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp
trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần, là nền tảng giúp cho quá
trình học tập lâu dài của trẻ sau này.
Là Tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi
nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi việc
giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải
pháp khác nhau mà quyết định phải xuất phát từ trẻ, vì thế học phải hết sức gần
gũi với cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của
trẻ, trẻ cần có điều kiện để cọ sát, các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm,
tập tành, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp,
phải được động não, sắm vai, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biết
thích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một
cách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng
sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế tại trường tôi thì việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ chưa được chú trọng nên trẻ lớp tôi hoàn toàn chưa có những kỹ năng cơ
bản ấy. Là một tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi
luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ
những kỹ năng sống tốt nhất? và dạy dưới hình thức nào?
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai
trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên việc
giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn học với một giáo trình chuẩn,
được áp dụng trong nhà trường. Với trái tim người mẹ thứ hai trong năm học
4

2015- 2016 đã thôi thúc tôi lựa chọn thực hiện đề tài “ Một số biện pháp dạy
kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non Kim Thư”.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tôi nghiên cứu “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 56 tuổi” nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động , sáng tạo, mạnh dạn,
tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ” nhằm củng cố, rèn luyện
cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động học, chơi, hoạt
động ăn , ngủ của trẻ nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà
trường nói riêng và nâng cao chất lượng đổi mới giáo dục nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu.
27 trẻ lớp 5TA1 trường mầm non Kim Thư.
5. Phạm vi thời gian thực hiện.
- Đề tài được thực hiện trong năm học 2015 – 2016 từ tháng 8/ 2015 đến tháng
5/ 2016.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng
lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng trước mọi
khó khăn thử thách.
Kỹ năng sống chính là chiếc chiều khóa vàng cho sự sống còn, sự phát
triển và sự thành công của mỗi con người.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó
góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học
tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này.
Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng,
từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ
trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống
hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục
trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải
nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các
bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau
trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh
nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được
tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội
để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự
phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ.
5

2. Thực trạng của vấn đề
a. Thuận lợi.
- Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục đào tạo Thanh Oai cùng với sự quan
tâm của Ban giám hiệu nhà Trường đã thường xuyên quan tâm bồi dưỡng và
nâng cao, chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
- Trẻ đi học chuyên cần, trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các
hoạt động của lớp.
- Bản thân là một giáo viên Mầm non tôi nắm vững chuyên môn, luôn nhiệt
tình, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề ham học hỏi nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ. Giáo viên ở lớp phối kết hợp thống nhất phương pháp, biện pháp dạy
trẻ. Có 4 giáo viên / nhóm lớp có 2/4 giáo viên đạt trên chuẩn.
- Là giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy, nắm được tâm sinh lý của
trẻ và những thói quen của trẻ hàng ngày.
b. Khó khăn
- Năm học 2015 -2016, tôi được phân công là TTCM và phụ trách lớp 5 tuổi
A1 Trường mầm non Kim Thư với tổng số là 27 cháu, trong đó có 15 cháu nam
nhưng 1 cháu bị tự kỉ và 12 cháu nữ
- Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ.
- Trong lớp có một số trẻ chưa qua lớp 3,4 tuổi, 1 cháu bị tự kỷ hay khóc tự do
không tự phục vụ được bản thân nên chưa có nề nếp. các cháu còn bỡ ngỡ và
nhút nhát, khả năng tiếp thu bài chậm.
- Không gian lớp còn chật hẹp chưa đảm bảo cho các hoạt động.
- Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện
tử...
- Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có
tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.
* Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài.
Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ trong lớp tôi, tôi nhận thấy
kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài như sau:

6

+ Về phía trẻ.
Đạt
Số
Lượng

Mức độ nội dung khảo sát

Chưa đạt
Tỷ lệ
%

Số
Lượng

Tỷ lệ
%

1.Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
10
37%
17
63%
2.Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
8
29,6% 19
70,4%
3.Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng
10
37%
17
63%
nhóm
4.Trẻ mạnh dạn tự tin
5
18,5% 22
81,5%
5.Kỹ năng nhận thức
5
18,5
22
81,5%
6.Kỹ năng vận động
10
37%
17
63%
7.Kỹ năng thích nghi
8
29,6% 19
70,4%
8. Kỹ năng vệ sinh
9
33%
18
66,7%
+ Về phía giáo viên.
- Giáo viên còn chưa chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Không mạnh dạn tự tin, chưa nhiệt tình trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ .
- Chưa phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
+ Về phía phụ huynh.
- Đa số phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
- Phụ huynh còn nuông chiều trẻ thường làm thay cho trẻ những công việc mà
trẻ yêu cầu.
- Nhiều phụ huynh chưa có hành vi đúng đắn và lời nói mẫu mực.
Từ những tình hình và số liệu trên cho thấy kỹ năng sống và việc thực hiện
kỹ năng sống của trẻ là rất thấp. Vì vậy mà tôi đã mạnh dạn tìm cách trang bị,
các kiến thức về kỹ năng sống và bền bỉ tận tâm rèn luyện những kỹ năng sống
cơ bản nhất cho trẻ lớp tôi thông qua đề tài “ Một số biện pháp dạy kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi” . Sau khi đã chọn đề tài tôi tổng hợp lại từng tiêu chí,
cháu nào chưa đạt thì lập một danh sách riêng và có kế hoạch rèn trẻ thông qua
các hoạt động vui chơi, hoạt động học tập, giờ đón trả trẻ...
3. Những biện pháp thực hiện.
3.1. Biện pháp 1: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp.
Để có thể thực hiện tốt “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6
tuổi” trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích
yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc được các phương
pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng,
7

không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào
thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 5 – 6 tuổi lớp tôi có được những kỹ
năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải
không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm
non 5- 6 tuổi
- Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề do phòng tổ chức.
- Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí
mầm non.
+ Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm
non theo bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi.
+ Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non{ nhà xuất bản
đại học quốc gia}.
+ Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu
giáo.
+ Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo.
Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…
+ Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống
quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần…
Trên thực tế hiện nay ở trường mầm non Kim Thư chúng tôi, đội ngũ giáo
viên còn chưa được đồng đều. Nhiều giáo viên đã có tuổi tuy nắm vững phương
pháp nhưng việc đổi mới thì còn hạn chế còn các cô giáo trẻ thì lại chưa có
nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Qua kiểm tra, đánh giá
đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng
giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ…Hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ ở
trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng chưa thực hiện tốt, chưa lồng ghép
tích hợp vào các hoạt động, giáo viên hầu như không mấy để ý và đi sâu vào
hoạt động này. Tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì nó quyết định đến
nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy qua việc tự bồi dưỡng bản thân, học
hỏi qua truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông tin
hiện đại, tôi đã nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ
bản nhất. Nhận thấy đây là việc quan trọng và cần thiết đối với trẻ nên trong các
buổi họp sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về các biện
pháp “ Dạy kỹ năng sống cho trẻ”. Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì
việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người.
Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “ Dùng nhân
cách để giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống
càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách
8

giải quyết vấn đề…Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô giáo cũng
luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và tôi đưa ra
những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ đó là:
- Không nói dài và nói nhiều.
- Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi
- Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ
tranh luận và kết luận.
Ví dụ: Khi cô nhìn thấy bé này đẩy bé khác cô hãy nói với bé bị đẩy, nói một
cách cương quyết, nhưng phải ôn tồn với bạn mình như: “ Mình không thích bạn
xô đẩy mình như vậy, cánh tay là để ôm nhau, không phải là để đẩy nhau”.
- Không mớm ý cho trẻ phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi.
- Không nên bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng
chống cho trẻ suy nghĩ.
- Thỉnh thoảng cô giáo có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư giãn, thoải
mái, gợi mở.
Ví dụ: “ Các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không phụ thuộc vào
người khác, các con là những em bé rất giỏi các con rất sứng đáng nhận được
một tràng pháo tay”. Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy
nghĩ, giám dua ra ý kiến của mình.
- Quả thật việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh hoạt tôi
thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
- Có kinh nghiệm sống và biết soi xét
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ.
- Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá
- Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn
- Biết chủ động phương pháp giáo dục. Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc
- Biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi.
Ví dụ: Các con ơi cô con mình vừa hoạt động ngoài trời về, bây giờ sẽ đến hoạt
động gì các con? Nào chúng ta cùng chuẩn bị bắt đầu.
- Biết nắm phản hồi của nhóm khi hoạt động kết thúc…

9

Hình ảnh : Buổi sinh hoạt tổ 5 tuổi chia sẻ những biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ

3.2. Biện pháp 2: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn rất
quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng
nền tảng để giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống. Vì thế
cần quan tâm và giúp trẻ một cách tự nhiên từng bước một trong suốt chiều dài
phát triển nhân cách của trẻ.
3.2.1. Kỹ năng trẻ giao tiếp với bạn bè.
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi
đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo
viên có thể dạy cho trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở
thích, những mối quan tâm chung của nhau.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường cho
trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra “tiêu
chí” không tranh giành đồ chơi với bạn. trong tiêu chí này tôi lên kế hoạch rèn
cả lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho
cả lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó
sẽ không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài
ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi
giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều
gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát
triển toàn diện hơn.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục.
Giúp trẻ thấy các nhân vật trong câu truyện , bài thơ khi giao tiếp với nhau như
thế nào? Bài thơ: “ Biết cảm ơn xin lỗi”
Cảm ơn xin lỗi

Dù với ai cũng phải
10

Ai giúp cho cái gì
Xin lỗi cho đàng hoàng
Nhớ cảm ơn ngay đi
Muốn trở thành bé ngoan
Lỡ làm điều sai trái
Phải biết làm như vậy.
- Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát, hiếu động nhưng cũng có
những trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy… Vì thế giáo viên cần phải
biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người bạn
thích hợp với cá tính nhằm tránh sảy ra những va chạm về tính cách. Vì vậy
trước khi chơi tôi thường cho trẻ đọc bài thơ: “Giờ chơi của bé”
Giờ chơi đến rồi
Chờ bạn cùng chơi
Bạn lấy đồ chơi
Cô thấy cô mừng
Tôi ra trước nhé
Cô khen ngoan thế.
Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “ Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân
thiện, tự nhiên. Dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở
nên thật thoải mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi ở lớp.

Hình ảnh: Các bé lớp A1 giao tiếp với nhau trong khi chơi
3.2.2. Kỹ năng trẻ chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi.
Như ở phần đặt vấn đề tôi đã nêu các cháu hầu hết chưa có các kỹ năng,
giao tiếp, kỹ năng chào hỏi… lí do phụ huynh đều là thuần nông và điều quan
trọng họ chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với
suy nghĩ đơn giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó chút cũng không sao. Nhưng
điều đó sẽ tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ
biến thành thói quen khó thay đổi.
Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự
nhiên, không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và xuồng
xã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng
sử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác.
11

Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói năng thô
lỗ và không có hành vi lịch sự tối thiểu. Trong xã hội hiện nay với công nghệ
tiên tiến, phát triển không ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp, chào
hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ năng chào hỏi
và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ:
Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô
cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “ cô chào bạn Gia Bảo” Thì lúc đó trẻ
sẽ biết đáp lại câu “ Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào lớp
với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “ các con
chào bác, bà… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố mẹ
và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp
nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều
hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn
hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác.

Hình ảnh: Trẻ đã có thói quen chào hỏi khi đến lớp
Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ , câu truyện, bài hát có nội dung
giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như:
Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi
cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó.
Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu truyện “
Bà ốm, yêu bà, Thương ông, bó hoa tặng cô, bé mai đến trường…Tôi cũng tự
sáng tác được một số bài thơ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như bài thơ. “ Bé
ngoan”
Bé thật là ngoan
Chào các bạn yêu
Mỗi khi đến lớp
Đến lớp thật vui
Bé khoanh tay chào
Học bao nhiêu điều
12

Chào cô chào mẹ
Thích ơi là thích.
Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ
năng chào hỏi và giao tiếp.
Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với
người lớn cho phù hợp.
3.3.Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông
qua các hoạt động hàng ngày.
3.3.1. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động học.
- Thông qua hoạt động làm quen văn học: Với tiết kể chuyện “ Hai anh
em”, tiết “ đóng kịch cây tre trăm đốt”

Hình ảnh: Trong giờ đóng kịch cây tre trăm đốt.
- Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời, Cho trẻ nhập vào
vai các nhân vật trong câu truyện. giáo dục trẻ làm việc theo nhóm, không tham
lam ích kỷ, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè,
với những người xung quanh.
- Thông qua hoạt động nghệ thuật: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranh…Tôi
sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng tượng
và sáng tạo của mình.
Ví dụ: Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “Cô giáo miền xuôi ”
+ Trẻ nói: Cô ơi con không biết múa.
+ Cô: Thế con có yêu quý các cô giáo của mình không nào? À con yêu quý cô
giáo của mình, vậy cô con mình cùng nhau múa nhé. Từ những lời động viên
khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động để từ
đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác…
13

Hình ảnh: Cô và trẻ múa vận động minh họa bài. Cô giáo miền xuôi.
- Thông qua hoạt động khám phá xã hội: Qua bài tìm hiểu động vật sống
trong rừng “ Hổ, báo, cừu, khỉ, voi…” Trẻ biết đặc điểm riêng của từng con vật
từ những câu hỏi cô đưa ra như: Các con có biết con voi có mấy chân và con voi
sống ở đâu? Con voi thích ăn gì các con nhỉ?... Trẻ trả lời “thưa cô con voi thích
ăn cỏ ạ” cứ như vậy trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào
cũng được tham gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn.
- Thông qua hoạt động thể dục : Tôi cùng các giáo viên khác tổ chức cho
trẻ các vận động như : Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục , chuyền
bóng, bật qua vật cản, Nhảy từ độ cao 45cm, ném trúng đích thẳng đứng, Bò zíc
zắc qua 7 điểm, Đi nối gót, …qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh
dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động. biết bảo vệ sức khỏe.

14

Hình ảnh: Các bé lớp 5 tuổi A1 trong giờ học thể dục.
- Thông qua hoạt động “ làm quen với toán” đề tài “ Sắp xếp theo quy tắc”
tôi sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn
đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau,
hợp tác mới hoàn thành bài tập. và trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ
dùng sáng tạo.
Thông qua chủ đề gia đình tôi cho trẻ chia sẻ những thông tin về gia đình,
cho trẻ kể về những thành viên trong gia đình mình, những việc mà trẻ thường
làm ở nhà, qua đó giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, lắng nghe người khác nói, nói
rõ ràng để bạn hiểu.
3.3.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi.
- Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo,
thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì vậy tôi
luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò chơi ở
góc phân vai.
Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu
được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ
phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm
người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác ơi bác mua thứ gì
nào? Trẻ nói mua rau – trả tiền nè. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con
phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết
thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét
trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích.
- Hay thông qua góc chơi “trọng tâm là” tạo hình: Tôi thường xuyên sưu tầm
những đồ dùng, những phế liệu, những lá cây khô, dây trang kim, nhũ màu, màu
nước… Để trẻ tự tạo nên những bức tranh, những con vật. Từ đó trẻ có những
kỹ năng cầm kéo và cắt khóe léo, kỹ năng tô màu, kỹ năng vẽ, kỹ năng phân
công công việc cho bạn trong nhóm mình.
Ví dụ: Bạn tô màu này, tôi cắt hoặc xé cái kia…

15

Hình ảnh: Các con chơi hoạt động góc ở góc tạo hình
- Thông qua hoạt động vui chơi: Tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ
tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu
nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan trọng với trẻ.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm
việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng
hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ năng này
tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ:
Ví dụ: Ở trò chơi đóng vai. Với góc chơi xây dựng trong chủ đề “Giao thông”
trong khi xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân
công công việc cho nhau và cùng làm công việc được giao cuối cùng trẻ hoàn
thành công trình đã xây dựng. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc

Hình ảnh: Các con xây dựng “Ngã tư đường phố”
Ví dụ: Trong góc chơi học tập.
- Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: bạn nào đồ chữ, bạn
nào xếp chữ bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số, thẻ chữ….Từ đó trẻ sẽ học và làm
việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh của nhóm trưởng.

16

Hình ảnh: Trẻ làm việc theo nhóm thông qua góc chơi học tập
- Với hoạt động này tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như:
Cô giáo, bác sỹ, xây dựng doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố…Các trò
chơi đóng kịch, Cây tre trăm đốt, hai anh em, quả bầu tiên…Thông qua đó để
giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bởi trong các trò chơi xã hội này trẻ sẽ
được hình thành và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo.
3.3.3. Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ.
Ngoài ra tôi còn xây dựng góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ chơi thường
xuyên như: Cách đóng mở cửa, lấy và uống nước, cách gắp bằng các loại kẹp,
quét rác trên sàn, cách rót nước bằng bình lọ miệng tròn to, cách sâu dây qua các
đối tượng có khuyết nhỏ, cách đan nong mốt{ 5 nan}, cách tự tết tóc cho mình,
cho bạn.

Hình ảnh : Trẻ tết tóc cho bạn và chơi góc thực hành kỹ năng sống
- Đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy tôi đã
thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi mang tính lành mạnh để trẻ được
tham gia học tập và vui chơi.
3.4. Biện Pháp 4: Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác
trong ngày.
- Ngoài hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ kỹ
năng sống thông qua các hoạt động khác như:
- Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo
dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định ngoài
ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo
khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
17

Hình ảnh: Các con lớp 5TA1đã có kỹ năng cất ba lô, giầy dép
- Trong giờ thể dục sáng: Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống
cầu thang cho trẻ đi đúng theo bước chân, chân nào trước, chân nào sau, đi theo
hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn…

Hình ảnh: Kỹ năng đi cầu thang khi lên xuống sân trường thể dục sáng.
- Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa
tay bằng xà phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy
định…

18

Hình ảnh: Trẻ tự gấp quần áo, trẻ rửa tay trong giờ vệ sinh
- Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi thức
văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn
tính tự lập như Biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần
lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói
chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất,
không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy
định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến
người khác…. Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài
thơ “Giờ ăn, và bài thơ “Bé ơi nhớ nhé” do tôi tự sáng tác: Dạy lồng ghép kỹ
năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ.
Bé ơi nhớ nhé
Có hạt cơm rơi
Hễ đến giờ ăn
Bé nhặt vào đĩa
Rửa tay cho sạch
Rồi lau vào khăn
Nếu mà tay bẩn
Bạn nào ăn nhanh
Không vệ sinh đâu
Được cô khen đấy
Bé nhớ ăn rau
Khi mà đứng dậy
Cho người khỏe mạnh
Kê ghế sát tường
Ăn thịt, ăn cá
Là một bé ngoan
Bé lớn nhanh hơn
Bé ơi nhớ nhé
Khi ngồi xúc cơm
Cầm thìa tay phải

19

Hình ảnh: Các con tự phục vụ trong giờ ăn
-Trong giờ hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một trong
những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự
trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng
như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn
cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Kéo co” ở trò chơi này cháu thực
hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi cách
động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên.

Hình ảnh: Trẻ chơi kéo co trong giờ hoạt động ngoài trời lớp 5TA1.

3.5. Biện pháp 5: Dạy kỹ năng đơn giản cho trẻ tự kỉ.
- Đầu năm 2015 – 2016 khi nhà trường giao lớp với sĩ số là 27 trẻ trong đó
có 1 cháu bị tự kỷ nặng đó là cháu “ Bùi Quý Khoa” khi nhận cháu vào lớp cháu
hoàn toàn không biết gì về nhận thức, giao tiếp, ngôn ngữ….Đó quả là một khó
khăn của lớp và qua sự quan tâm chăm sóc cháu một thời gian, đầu năm học, tôi
và các đồng chí giáo viên trong lớp đã dần hiểu được những thói quen,ăn, ngủ,
vệ sinh …Từ đó tôi đã quyết định đưa ra rèn một số kỹ năng và thói quen đơn
giản cho cháu
- Thứ nhất: Tôi làm một cử chỉ, một tình huống nhiều lần ví dụ hướng dẫn
trẻ đi lấy ghế tôi chỉ đây là ghế con bê ghế vào bàn và ngồi ăn cơm đồng thời
đưa tay trẻ đặt vào ghế để trẻ bê và dẫn trẻ vào bàn ăn, bằng hình thức đó tôi
20

thường xuyên hướng dẫn trẻ cách bê ghế được lặp đi lặp lại nhiều lần trong mọi
hoạt động khác nhau, dần trẻ đã hiểu được mệnh lệnh khi tôi sai trẻ đi kê ghế
ngồi vào bàn và cất nghế.
- Thứ hai: Khi ở nhà trẻ không tự xúc cơm ăn và đến lớp cũng vậy. Tôi dạy
trẻ kỹ năng cầm thìa, đầu tiên trẻ không biết cách cầm thìa và không thể cầm
thìa và xúc được tôi cầm mấy đầu ngón tay của trẻ nắm vào thìa, lúc đầu tôi cứ
buông tay ra là trẻ lại rơi thìa nhưng với tình yêu và lòng kiên trì của tôi và
những giáo viên cùng lớp dần dần trẻ đã biết cách cầm thìa và đã biết tự xúc
cơm ăn.

Hình ảnh: Cháu Bùi Quý Khoa đã biết tự xúc ăn
- Thứ ba: Tôi dạy trẻ bằng các cử chỉ vào các công việc hàng ngày.
Ví dụ : Gật đầu khi bạn nói lại đây dần dần sử dụng các cử chỉ này vào các
thời điểm khác nhau, vị trí khác nhau và từng lần một theo cách trên.
- Thứ 4: Tôi và các giáo viên khác thường chơi với trẻ và trò chơi tôi thấy
hiệu quả nhất đó là trò chơi tung bóng cho cháu tung lại. lúc đầu khi tung bóng
cho cháu mắt cháu nhíu lại sợ và tránh bóng và tôi đã cầm tay cháu rồi tung lại
cho cô giáo cứ như vậy chơi đi chơi lại nhiều lần trẻ đã biết tự tung lại cho cô và
từ đó tôi lại đổi vị trí cho bạn khác tung lúc đầu cháu không tung lại cho bạn
nhưng dưới sự chỉ dẫn nhẹ nhàng của cô giáo “ Khoa ơi con phải cùng chơi với
các bạn mới ngoan con nhé” cứ như vậy trẻ đã có phản hồi lại cho bạn của mình

21

Tải về bản full

TÊN ĐỀ TÀI: “Những biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non”

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Câu thành ngữ: “ Tiên học lễ, hậu học văn” củaông cha ta từ ngàn xưa đã để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trườnghọc. Lễ phép là nét đẹp văn hoá được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một conngười.

Trong thời đại hiện nay,sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu càng cao đối vớihệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người “ pháttriển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng vềđạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của quá trình giáodục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ.

Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nóichung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năngsống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi các nhânđể sống tích cực, sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻnhằm giúp trẻ phát triển hài hoà, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻkiến thức cần thiết về kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ýnghĩa. Giúp các em hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thànhhành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác,với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọingười, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tíchcực. Có thể nói việc trang bị kỹ năng sống cho trẻ em là một phương pháp giáo dụccần thiết để trẻ bớt thụ động trong việc học và giao tiếp xã hội.

Song trên thực tế việc dạy kỹ năng sống chotrẻ trong các trường mầm non còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõđược tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạtcho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ.

Là giáo viên mầm non phụ trách lớp mẫu giáo lớn,nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôiđã luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi.Giáo dục kỹ năng sống không phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào làsai như ta thường làm. Các phương pháp cổ điển như bài giảng đi theo những chuẩnmực, cô hỏi trẻ thụ động trả lời sẽ hoàn toàn thất bại vì chúng chỉ cung cấp thôngtin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rấtlớn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn nhữnggiải pháp khác nhau. Giải quyết phải xuất phát từ trẻ.

Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu một vài biệnpháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi đạt hiệu quả. Qua thời gian thựchiện tôi đã tích luỹ được một vài kinh nghiệm, đó chính là lí do tôi chọn đề tài:“Nhữngbiện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non”.

II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Cơsở lý luận:

Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tươnglai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhànước, của xã hội và của mỗi gia đình. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ làvô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển toàndiện nhân cách cho trẻ sau này. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con ngườilà mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thếhệ trẻ.

Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác độngđan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phảilựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áplực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêucực, bạo lực và lối sống ích kỉ, thực dụng dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.

Như chúng ta biết về sự phát triển của nãotrẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát,thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biếtgiải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọngđối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì thế, ngày nay trên thế giới rấtnhiều trường mầm non áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tậpthông qua các giao tiếp tích cực với những người khác. Trong vòng vài năm gần đây, các nhà giáo dục trẻ mầm nonvà các nhà nghiên cứu tâm lý đã tìm ra các trở ngại phát triển của trẻ mà làmchậm khả năng cũng như hạn chế tình trạng tâm lý tích cực ở trẻ. Một trongnhững trở ngại chính đó là khả năng về kỹ năng sống.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát độngphong trào “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”,với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của trẻ trong các hoạtđộng giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ độngvà ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹnăng sống cho trẻ mầm non.

Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quantâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũngmuốn con mình được học đọc và học viết ngay trong những năm tháng học ở mẫugiáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có con chuẩn bị vào lớp một.

Nghiên cứu gần đây về sựphát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năngbiết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp vớicác yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề một cách cơ bản, một cách tự lập cónhững ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách và kết quả học tập củatrẻ. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những hànhvi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực giúp trẻ có đượcnhững nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ và kỹ năng thích hợp.

2. Thựctrạng của vấn đề

Năm học2019 - 2020 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi điểm trường Ma Ly Sán với tổng số trẻ là 13cháu. Qua tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, từđó tôi chọn lọc biện pháp giáo dục cho phù hợp. Tuy nhiên trong quá trình thựchiện tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

* Thuận lợi :

- Được sự quan tâmcủa các cấp lãnh đạo về cơ sở vật chất.

- Ban giám hiệu luônquan tâm tới chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thưc tổ chức hoạt độnggiáo dục mầm non, tạo mội điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dụcmầm non mới.

- Tôi có trình độ trênchuẩn, có sự nhiệt tình trong công việc và luôn quan tâm tới trẻ, thường xuyêndành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc giáo dục trẻ.

- Là một giáo viên yêunghề, mến trẻ, tận tình với công việc. Tôi thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tàiliệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc giáo dụctrẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục kỹnăng sống cho trẻ.

* Khó khăn:

- Chưa có nhiều tàiliệu sách báo về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên nghiên cứu,tham khảo.

- Giáo viên có nhiềuhạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

-Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ nên trẻchưa có những kỹ năng sống cần thiết phù hợp theo độ tuổi.

* Trước khi khảo sát đề tài tôi tiến hành khảosát các kỹ năng sống trên trẻ, với số lượng là 13 trẻ:

Stt

Kỹ năng sống

Đạt

Chưa đạt

Số trẻ

Tỉ lệ %

Số trẻ

Tỉ lệ %

1

Tính tự tin

6

46, 3%

7

53,8%

2

Kỹ năng hợp tác

7

53,8%

6

46,3%

3

Kỹ năng giao tiếp

4

30,8%

9

69,2%

4

Kỹ năng xử lí tình huống

6

46, 3%

7

53,8%

5

Sự tò mò và khả năng sáng tạo.

5

38,4%

8

61,6%

6

Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.

7

53,8%

6

46,3%

3. Tổ chức thực hiện các giải pháp

Xuấtphát từ đặc điểm chung của trường, của lớp và tầm quan trọng của việc giáo dụckỹ năng sống cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ, tôi đã nghiên cứu vàđưa ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống như sau:

3.1. Giải pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên mônnghiệp vụ về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Việcdạy kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non là rất cần thiết nhưng nhiều giáoviên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạyđể có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cầnthiết cho trẻ.

Đểcó thể nắm vững được các nội dung cần truyền đạt và các phương pháp dạy kĩ năngsống cho trẻ, tôi tích cực nghiên cứu các giáo trình, các tài liệu hướng dẫncách rèn kỹ năng sống và cách lồng ghép kĩ năng sống vào các tiết học khác

Trongcác buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn, tôi thường xuyên trao đổi, thảo luậnvới đồng nghiệp về các biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ để chia sẻ,tích lũy kinh nghiệm, học hỏi đồng nghiệp, nâng cao năng lực chuyên môn tronggiảng dạy và trong giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.

Ngoàira, tôi còn tham khảo thêm trong các sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng,qua mạng internet để nâng cao trình độ chuyện môn.

* Kết quả: Sau khi áp dụng biện pháp, này tôi thấy mình hiểu hơn và nắm vững hơnphương pháp cũng như cách truyền đạt kỹ năng sống tới trẻ.

3. 2. Giải pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống thông quatiết học:

Giáodục kỹ năng sống là phải giáo dục trẻ mọi lúc, mọi nơi và cả trên tiết học. Lồngnội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thóiquen, hành vi có văn hoá là rất cần thiết. Trên tiết học trẻ vừa được cung cấpkiến thức vừa được giáo dục kỹ năng cần thiết.

Vídụ:

* Giờ học thể dục:

Côdạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khoẻ mạnh,trẻ biết trong khi tập phải xếp hàng theo thứ tự không chen lấn xô đẩu nhau. Trẻbiết tự lấy đồ dùng, dụng cụ thể dục của mình. Biết hợp tác với bạn để chơi tròchơi.

* Giờ học khám phá xã hội:

Trẻ được lĩnh hội những kiến thức về thế giới xungquanh, từ đó hình thành cho trẻ những kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năngbảo vệ an toàn cho bản thân…

Tôidạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình

Trẻbiết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, nhữngviệc mà trẻ thường làm ở nhà.

Kỹnăng sống trẻ học được là: Giao tiếp cởi mở với mọi người, lắng nghe người khácnói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để người khác hiểu và chơi cùngbạn.

Vớichủ đề “ Bản thân” tôi cho trẻ trải nghiệm với các giác quan của mình, nhữngtrải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của trẻ.

* Giờ học tạo hình:

Đềtài “ Vẽ ngôi nhà của bé”. Tôi giáo dục trẻ biết yêu quý ngôi nhà của mình ở,biết quét dọn ngôi nhà của mình sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắpgọn gàng….

* Giờ học văn học:

Quacâu chuyện: “ Người bạn tốt”

Côđàm thoại cùng trẻ:

-Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?

-Khi Linh gặp nạn thì Trang sẽ làm gì?

-Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?

Tôigiáo dục trẻ tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm ơnchân tình khi được người khác giúp đỡ mình.

* Giờ làm quen chữ cái:

Tôi dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếpđồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.

* Giờ học âm nhạc:

Thôngqua bài hát : “ Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạchsẽ.

Ngoàira lớp tôi còn tổ chức giờ học biểu diễn văn nghệ tại lớp để giúp trẻ tự tinhơn khi đứng trước đám đông.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\âm nhạc.jpg

Ảnhgiờ học âm nhạc

Thôngqua giáo dục trực quan, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyếttrình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, từ có vần điệu, những bài đồng dao,ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trìnhhọc tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huykhả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tintrong cuộc sống.

Dạykỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kếthợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.

*Kết quả: Sau khi áp dụng biện pháp, này tôi thấy trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn,thực hiện tốt hơn các kĩ năng sống do được học hàng ngày qua lồng ghép vào cáctiết học.

3.3. Giải pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có tính giáo dụcvà tính tương tác cao.

Phươngpháp giáo dục trẻ mầm non phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm tìm tòi,khám phá thế giới xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu hứngthú của trẻ trong phương châm chơi mà học, học bằng chơi. Chú trọng đổi mới môitrường giáo dục nhằm kích thích tạo cơ hội cho trẻ khám phá, thử nghiệm và sángtạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ.

Ngoài ra, ở trường mầmnon giáo viên cần dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng laođộng tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uốngmột cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gâytiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khiăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp,ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\rửa tay 2.jpgDescription: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\giờ ăn.jpgẢnhtrẻ thực hiện kĩ năng rửa tay Ảnh giờ ăn trưa củatrẻ.

Trongnăm học này tôi đã tổ chức cho trẻ đi tham quan một số khu vực ở gần điểm trườngphù hợp với thời điểm và với chủ đề đang học.

Vídụ:

Chủ đề “ Giađình” tôi tổ chức cho trẻ đi tham quan nhà của bạn Lù Minh Nhất (ở gần điểmtrường), cho trẻ giao tiếp với các thành viên trong gia đình bạn Nhất và cùnggiúp bạn dọn dẹp nhà, sắp xếp đồ dùng trong gia đình gọn gàng, ngăn nắp.

Chủ đề “ Thế giớithực vật”, tôi cho trẻ đi dạo tham quan vườn rau, cây hoa xung quanh khuôn viêntrường; cho trẻ thực hành chăm sóc rau, hoa: tưới cây, lau lá, nhổ cỏ, bắtsâu...

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\ảnh quan sát rau.jpgDescription: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\chăm sóc rau.jpg

Ảnh trẻquan sát, chăm sóc vườn rau

Ngày tết Hàn thực tôi tổ chức cho trẻ trảinghiệm nặn bánh trôi tại lớp. Tôi đã cho trẻ nặn bánh trôi màu trắng, màu đỏ vàmàu xanh. Trước khi nặn tôi đã khơi gợi trí tò mò của trẻ bằng cách cho trẻđoán xem làm cách nào để vỏ bánh có màu đỏ và màu xanh. Tôi hỏi trẻ làm thế nàođể cho nhân vào bánh và làm sao để bánh có dạng hình tròn. Khi đó trẻ sẽ tò mòvà đoán. Sau đó tôi cho trẻ tự làm bánh và cho trẻ thưởng thức luôn những viênbánh do mình làm ra. Được thưởng thức sản phẩm do chính tay mình tạo ra trẻ rấtthích thú.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\banh trôi.jpg

Ảnh trẻ cùng phụ huynh làm bánhtrôi tại lớp.

Trước ngày đi tham quan tôi kích thích sự tòmò, hứng thú tìm hiểu, khám phá của trẻ bằng cách hỏi trẻ:

+ Con đoán xem với địađiểm đi tham quan ngày mai con biết được những gì?

+ Theo con đi từ trường mình đến địa điểm đómất bao lâu?

+ Các con cần chuẩn bị những gì cho buổi thamquan đó? (mũ, dép, trang phục phù hợp….)

+ Trên đường đi các con cần làm gì? (đi theohàng, đi sát lề đường bên phải, chào hỏi mọi người,…). Vì sao phải làm như vậy?

+ Tới địa điểm tham quan con định làm gì và nóinhững gì ở đó?

Với việc chuẩn bị tâm lí và việc chuẩn bị kiếnthức cho trẻ như vậy tôi đã khiến trẻ lớp tôi rất tò mò và háo hức về địa điểmtham quan ngày mai. Tối về trẻ háo hức kể cho bố mẹ nghe về kế hoạch của lớp vàchia sẻ những điều mà trẻ muốn biết với bố mẹ. Qua đó bố mẹ có cơ hôi cung cấpthêm kiến thức cho con và tạo được một sợi dây gắn kết giữa nhà trường và gia đình,giữa bố mẹ và con cái.

Tại địa điểm tham quan tôi luôn tận dụng tối đacác điều kiện giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống cần thiết.

Ví dụ : Chủ đề “ Nghề nghiệp” tôi cho trẻtham quan cửa hàng cắt tóc ở gần điểm trường. Trẻ vừa được quan sát trò chuyện,đàm thoại về công việc, về các đồ dùng dụng cụ của nghề cắt tóc, vừa được chianhóm thực hành một số thao tác như chải tóc, mô phỏng công việc gội đầu, cắt tócvà buộc tóc cho bạn.

Qua các buổi tham quan như vậy trẻ rất phấnkhởi vì được giao lưu với bên ngoài phạm vi trường mầm non. Trên đường đi trẻbiết đi theo hàng lối và đi sát lề đường bên phải để bảo vệ an toàn cho bản thân,biết chào hỏi mọi người trẻ gặp. Được đi nhiều lần trẻ trở nên mạnh dạn, tự tinhơn. Trẻ được luyện kỹ năng giao tiếp xã hội, chào hỏi lễ phép, được rèn khả năngquan sát nhận biết các sự vật hiện tượng ở trên đường đi và ở nơi mà trẻ đếntham quan. Qua đó kiến thức mà trẻ thu được về chủ đề sẽ được mở rộng và khắc sâuhơn.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\ảnh thăm quan.jpg

Ảnh trẻ đi tham quan, đi sát lề đường bênphải.

Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức hoạt động chotrẻ giao lưu giữa các tổ trong lớp hoặc giữa các lớp trong điểm trường. Trongbuổi giao lưu, trẻ được làm quen với nhau, được thể hiện bản thân mình, đượctrò chuyện, cùng nhau tìm hiểu, khám phá về một chủ đề đang học giúp kiến thứccủa trẻ được mở rộng và củng cố thêm. Trẻ biết mở rộng mối quan hệ ra ngoài lớphọc từ đó mà trẻ mạnh dạn, tự tin hơn. Trẻ biết hợp tác cùng nhau bàn bạc, thảoluận để cùng giới thiệu về đội mình, tổ mình, lớp mình cho các bạn đội khác, tổkhác, lớp khác.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\rồng rắn 3.jpg

Ảnh trẻ giao lưu với các lớp ở điểm trườngmầm non

Khi tổ chức cho trẻ hoạtđộng lao động, tôi để trẻ chủ động nhận công việc của mình, tự thỏa thuận, phâncông công việc trong nhóm, tự bàn bạc tìm cách giải quyết công việc của nhómmình. Qua đó, tôi có thể giúp trẻ hình thành sự tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹnăng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống khi xảy ra vấn đề cần giải quyết

Khi cho trẻ chơi tự dotrong hoạt động ngoài trời, tôi vừa quan sát trẻ chơi, vừa hướng dẫn trẻ cáchchơi an toàn như: Cách nắm thành ghế để ngồi đu quay cho an toàn, cách cầmdây thừng khi chơi kéo co, khi có bạn đang đi cà kheo thì không được đứng gầnbạn vì sẽ gây nguy hiểm cho bạn, hướng dẫn trẻ cách kiên trì chờ đến lượt mìnhchơi, tuyệt đối không xô đẩy, tranh giành đồ chơi, chỗ chơi với bạn.

Ngoài ra tôi còn tổ chứccác hoạt động nghệ thuật cho trẻ tham gia. Ngày tết tôi cho trẻ làm thiệp chúngmừng năm mới, ngày mùng 8 – 3 tôi cho trẻ làm thiệp, làm quà chúc mừng bà, mẹ,cô và các bạn gái. Trẻ còn được giao lưu văn nghệ ở thôn, xã, giao lưu văn nghệở lớp với các bạn. Trẻ được tham gia các hoạt động tôi thấy trẻ khéo léo và tìnhcảm hơn, biết quan tâm đến mọi người xung quanh mình hơn.

* Kết quả: Sau khi áp dụng biện pháp này, trẻ trẻ hứngthú, tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động nghệ thuật, giao lưuvăn nghệ hơn. Trẻ trưởng thành và tự tin khi đứng trước đám đông hơn rất nhiều.Thực sự biện pháp này rất cần thiết để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

3.4. Giải pháp 4: Sử dụng các tình huống cho trẻ giải quyết.

Trong cuộc sống có vô vàn các tình huống xảyra đòi hỏi con người phải giải quyết, ứng phó. Khả năng vận dụng các kỹ năngsống một cách linh hoạt sẽ cho phép trẻ xử lý tốt các tình huống xảy ra với trẻtrong cuộc sống hàng ngày.

Một trong những kỹ năng cần hình thành chotrẻ, đó là giúp trẻ có khả năng xử lý tình huống có vấn đề. Con đường cho trẻđi tham quan là một“con đườngmàu mỡ”về các tình huống thực tế xảy ra trong cuộc sống cầncon người giải quyết. Đó là nơi trẻ được cọ xát với rất nhiều tình huống thựctế giúp trẻ bồi dưỡng kỹ năng xử lý tình huống rất hiệu quả.

Ví dụ:Trên đường đi trẻ gặp một chú vứt rác rađường. Trẻ nhắc chú đó nhặt rác khiến chú nhận thấy hành vi không đẹp của mình.

Ngoài ra, tôi còn thiết kế một số tình huốngđể tập cho trẻ tự giải quyết vấn đề. Những tình huống này được sử dụng xuyênsuốt trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.

Ví dụ 1:Trong chủ đề “Thế giới động vật”, khi cho trẻquan sát con kiến xong tôi tạo tình huống cô Nga bị ong đốt. Tôi cuống quýt hỏitrẻ cần xử lý tình huống này như thế nào? Tôi cho các trẻ nêu ý kiến và cùngthảo luận để đưa ra giải pháp tốt nhất. Cuối cùng trẻ cũng đi đến một quyếtđịnh đó là gọi cô y tế để giúp cô Nga. Điều đó chứng tỏ trẻ đã biết cách mạnhdạn đưa ra ý kiến, cùng hợp tác với nhau để lựa chọn ra hướng giải quyết tốtnhất, biết tìm đúng người cho đúng đối tượng cần giúp đỡ.

Ví dụ 2:Trong một giờ hoạt động của lớp tôi có 13trẻ. Với buổi hoạt động lao động gồm các nội dung lau lá cây, tưới cây, nhặt lárụng tôi dự kiến sẽ chia nhóm trẻ hoạt động. Tôi chuẩn bị cho trẻ 4 khăn lau, 5bình tưới, 4 cái giỏ. Tôi cho trẻ tự nhận công việc của mình. Điều đó có thểdẫn đến tình huống có nhóm nhiều hơn số trẻ đã định và không đủ dụng cụ để laođộng. Khi xảy ra tình huống đó tôi thấy các nhóm trẻ đã bàn bạc, thỏa thuận vàđưa ra các cách giải quyết khác nhau:

+ Cách 1: Vận động nhau chuyển nhóm cho đủ sốdụng cụ lao động

+ Cách 2: Tìm cô giáo và bày tỏ mong muốnđược cô giúp đỡ bằng cách cung cấp thêm dụng cụ lao động.

+ Cách 3: Với nhóm nhặt rác, 2 bạn dùng chungmột giỏ. Với nhóm tưới cây, 2 bạn dùng chung 1 bình, một bạn lấy nước, một bạntưới.

Vídụ 3: Trên đường đi thamquan tôi sắp xếp 1 tình huống cho trẻ giải quyết. Các bạn đang đứng cùng nhau có1 người lạ đến hỏi chuyện trẻ rồi rủ trẻ đi chơi. Khi xảy ra tình huống đó tôithấy trẻ lớp tôi nhất quyết không đi cùng người lạ và các bạn biết gọi cô để côgiúp.

* Kết quả: Sau khi áp dụng biệnpháp này, tôi thấy trẻ lớp tôiđã “trưởng thành” hơn hẳn. Trẻ độc lập, chủ động giải quyết các tình huống cóvấn đề và hơn hết là biết giải quyết cùng nhau, biết bàn luận, mạnh dạn đưa raý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của bạn và lựa chọn giải pháp phù hợp. Biết bảovệ an toàn cho bản thân mình.

3.5. Giải pháp 5: Giáodục kỹ năng sống thông qua các trò chơi vận động.

Biệnpháp này giúp tôi tập hợp các trò chơi vận động, tạo nguồn tư liệu phong phúcho giáo viên để sử dụng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Tôiđã sưu tầm các trò chơi vận động, phân loại các trò chơi theo tác dụng củachúng đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Sau đó tôi lưu lại để sau nàysử dụng.

Ví dụ:

Nội dung “Kỹ năng hợp tác”

Đâylà một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này. Có những việc chúng takhông thể tự làm được, nếu được người khác giúp đỡ thì ta sẽ hoàn thành đượcviệc ta muốn làm. Khi chúng ta kết hợp năng lực làm việc của mình với ngườikhác theo cùng một mục đích chung, đó chính là sự hợp tác. Sự hợp tác giúp tahoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự mình làm lấy. Khảnăng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cùng làm, cùng chơi với bạn bè, biết cảm thông vàchia sẻ với bạn.

– Trò chơi:“Bắt cá trong chum”.

+Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội một tay quàng qua vai bạn củađội mình, tay kia khoắng trong chum phối hợp với nhau để cùng bắt đượccá. Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào bắt được nhiều cánhất đội đó giành chiến thắng.

- Trò chơi: “ Khiêu vũ cùngbóng”

+ Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ.Trẻ trong đội phải dùng chán giữ bóng và 2 tay đan vào nhau khi có tiếng nhạcthì hai bạn phải khiêu vũ theo tiếng nhạc, nhạc nhanh thì khiêu vũ nhanh, nhạcchậm thì khiêu vũ chậm, nhạc dừng thì phải dừng. Khi nhạc dừng đội nào vẫn giữđược bóng thì đội đó thắng cuộc.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\khiêu vũ bóng 2.jpg

Ảnh trẻ chơi khiêu vũ cùng bóng.

Nội dung “Sự tự tin”

Mộttrong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tintrong trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về trong cá nhân vàtrong mối quan hệ với người khác. Không ai sinh ra đã có ngay sự tự tin. Đó làmột đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Sự tự tinlớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có giátrị. Một trẻ tự tin sẽ “duy trì được khả năng học hỏi, khám phá trong học tậpvà luôn sẵn sàng đón nhận những thách thức mới, mong muốn được yêu quý và đónnhận chính là khởi đầu tuyệt vời để trẻ gần gũi hơn với mọi người.

– Trò chơi:“Gánh hoa qua cầu”

+Cách chơi: Cho trẻ đứng thành hai hàng ngang. Lần lượt từng trẻ gánhquang gánh có đựng hoa đi qua ghế thể dục. Ai ngã khỏi cầu, làm rơi hoa phải rangoài một lần chơi.

Trẻđứng ở 2 hàng cổ vũ cho bạn và đọc đồng dao do cô sáng tác:

Gánhhoa qua cầu Như trên mặt đất

Bạntrước tôi sau Lon ton, lật đật

Gánhhoa cho mau Run rẩy ngã liền

Manghoa về nhà Tự tin, tự tin

Tựtin vững bước Việc gì cũng dễ

Quahết cây cầu Nhanh nhanh bạn nhé

Chânbước khéo sao Gánh về, gánh về.

- Tròchơi: “ Bắt bóng nói tên” ( Trò chơi này sử dụng đầu năm học và cácbuổi giao lưu với các bạn lớp khác).

+ Mụcđích: Tạo cho trẻ nhớ tên nhau 1 cách tự nhiên, phát triển mạnh dạn tựtin của trẻ đến các hoạt động tập thể.

+Cách chơi: Cô và trẻ ngồi thành vòng tròn. Trước tiên cô nói tên mìnhsau đó ném bóng cho 1 trẻ bất kì. Trẻ nhận được bóng từ cô sẽ nói tên của mình.Cứ như vậy cho đến khi tất cả trẻ nhớ tên nhau. Trẻ mạnh dạn đứng lên nói têncủa mình.

* Kết quả: Sau khi áp dụng biệnpháp này, tôi thấytrẻ học được rất nhiều kỹ năng như sự tự tin, cách hợp tác với bạn để hoànthành công việc, cách xử lí tình huống và tôi thấy trẻ lớp tôi tự tin, khéo léohơn rất nhiều.

3.6. Giải pháp 6: Sáng tác vè, đồng dao đưa vàotrò chơi vận động, kích thích trẻ cải tiến – sáng tạo trong trò chơi nhằm gây hứngthú và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Giải pháp này giúp trẻ hứng thú hơn với tròchơi đồng thời tiếp thu các kỹ năng sống được cô giáo lồng ghép trong lời đồngdao một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc.

Ví dụ:

– Trò chơi“Nghe lời chỉ dẫn”:

Kim kỉm kìmkimTìm Nam tìm Bắc

Tôi giấu cáighimNghe lời tôi nhắc

Tôi giấu cáiláBạn đang đến gần

Tôi giấu hònđá( Bạn đi xa rồi)

Đố bạn đitìmTìm mau tìm mau

Tìm Đông tìmTâyKẻo mà không thấy

-> Trẻ học kỹnăng hợp tác

– Tròchơi:“Cẩn thận cáo gian”

Sáng banmai Thỏ áo hường

Trời trongmát Cầm điện thoại

Vang tiếnghát Bấm số nào?

Khắp rừngsâu Biết làm sao?

Bầy ThỏNâu Ôi chẳng nhớ

Đến nhàbạn Đành gõ cửa

Nhưng cácchú Đủ các nhà

Chẳng nhớnhà Có biết đâu

Thỏ bànnhau Gõ nhà Cáo

Hay gọiđiện Thỏ mếu máo

Hỏi lạibạn Chạy vội vàng

Cho rõđường Ôi Cáo gian

Nguy hiểm quá

-> Trẻ họckỹ năng giữ an toàn cá nhân. Trẻ biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm, biết đềnghị sự giúp đỡ của người khác khi cần thiết, nhận biết và không tự ý sử dụngnhững đồ vật gây nguy hiểm, không đi theo và nhận quà của người lạ khi chưađược người thân cho phép, biết ý nghĩa và có ý thức thực hiện theo quy định củamột số biển báo giao thông, biển báo nơi nguy hiểm.

– Tròchơi:“Động đất”:

„Có cái gì rất lạ Vẫn đủ khí thở dùng

Rung chuyển dưới chân tôi Nếu không có gầm bàn

Mọi thứ đều nghiêng ngả Tìm cửa, góc phòng đứng

Chòng chành như muốn trôi Tránh cửa kính đừng đứng

Ôi đúng rồi động đất Kẻo kính vỡ khó lường

Nguy hiểm quá đi thôi Nếu bạn ở ngoài đường

Phải làm gì trước nhỉ Tránh xa tòa nhà nhé

A! Tớ nhớ ra rồi Cả đường dây điện nữa

Chui xuống gầm bàn lớn Chỗ trống mới an toàn

Hoặc gầm giường là xong Nhớ những điều cơ bản

Như thế khi nhà sập Ứng phó sẽ ổn thôi’

-> Trẻ học kỹ năng xử ký tình huống.

Với các trò chơi đã tổ chức cho trẻ chơi nhiều lần,tôi gợi ý, khuyến khích trẻ thay đổi tên trò chơi, thay đổi đồ dùng đồ chơi chophù hợp với chủ đề đang học, hay cùng sáng tác vè, đồng dao với cô. Tôi phâncông nhiệm vụ cho từng nhóm trẻ cải tiến và sáng tạo trò chơi. Kết quả là trẻđã cải tiến được nhiều dạng trò chơi. Tuy chủ yếu trẻ mới dừng lại ở thay tên,thay đồ dùng đồ chơi nhưng quan trọng là khi chơi trẻ có cảm giác vui sướng vàtự hào vì đó là trò chơi do mình nghĩ ra.

* Kết quả: Sau khi áp dụng biệnpháp này, trẻ hứng thú hơn vớitrò chơi, tiếp thu các kỹ năng sống một cách nhẹ nhàng, không gò bó; trẻ biết sángtạo hơn trong trò chơi, đồng thời phát triển trí tưởng tượng, khả năng sángtạo, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác.

3.7.Giải pháp 7: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh:

Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các hoạtđộng. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ giúpgiáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnhsống của trẻ từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợpvới phụ huynh trong việc rèn luyện trẻ đúng phương pháp.

Description: D:\1920 CÁC LOẠI\TRANH BÀI DẠY TẢI VỀ\ảnh tuyên truyền ph.jpg

Ảnh: Giáo viên tuyên truyềnvới phụ huynh cách dạy trẻ kĩ năng sống tại nhà

Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này,tôi thường trao đổi, tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nênđối với trẻ để giúp trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân,tự tin trong cuộc sống. Trẻ luôn bắt chước người lớn và cha mẹ trẻ là nhữngngười lớn gần gũi trẻ nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ quanhững cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quentốt để rồi sau đó lại bắt trẻ mất thời gian học lại những điều này ở một nơikhác với những người xa lạ. Cha mẹ trẻ hãy chú ý giúp trẻ hình thành những kỹnăng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thânmình và người khác.

Ví dụ:Cha hãy mẹ cho phép trẻ vui chơi bày biện đồchơi theo theo ý thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quantrọng là hãy để trẻ tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùngcon thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay trẻ.

Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyếnkhích trẻ tham gia dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánhchưng, trang trí cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹhãy lựa chọn những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với bé để cảnhà cùng xem, khi xem khuyến khích các bé nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình vềnhững điều mà bé vừa được xem.

Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ trongđiều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin và tựnhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia dã ngoại haytham gia các nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi với đồchơi không? Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?… để từđó có biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.

* Kết quả: Nhờ có sự phốikết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy các kĩ năng sống củatrẻ tốt hơn rất nhiều, đặc biệt là các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếpbằng tiếng phổ thông và hầu hết trẻ có kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi.

4. Hiệu quả của đề tài

Qua một thời gian thực hiện và theo dõi, tôi nhậnthấy những biện pháp trên rất có hiệu quả, học sinh lớp tôi có chuyển biến rấtrõ rệt. Kết quả đạt được như sau:

* Về phía trẻ:

– Sau khi tiến hành những biện pháp trên tôi thấytrẻ đã có kỹ năng sống cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tham gia vào các hoạtđộng một cách tự tin mạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục củacô giáo đạt kết quả tốt.

– Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét về việc hìnhthành các kỹ năng sống: giao tiếp, hợp tác làm việc theo nhóm, thể hiện tinhthần đồng đội, biết chia sẻ, cư xử với nhau một cách thân thiện, biết giảiquyết vấn đề, giải quyết xung đột,…Và phát triển những phẩm chất tốt đẹp như:tính kiên trì, tính trung thực, biết nhường nhịn, biết cư xử đẹp khi thắngthua. Trẻ tự tin tham gia vào các hoạt động của trường lớp. Điều này chứng minhrằng việc vui chơi bằng các trò chơi, các hoạt động cho trẻ thực hành trảinghiệm cùng với các phương thức sử dụng đa dạng, linh hoạt đã giúp trẻ tiếpnhận kỹ năng sống một cách hiệu quả. Trẻ đã biết chuyển hóa từ hoạt động thànhý thức, từ ý thức thành kỹ năng. Và những kỹ năng sống đó sẽ phát triển bềnvững và theo trẻ đến suốt cuộc đời.

* Về phía giáo viên:

- Tôi nắm vững các nội dung giáo dục kĩ năngsống cho trẻ, tôi có kĩ năng sư phạm, biết cách truyền đạt kỹ năng sống tới trẻmột cách linh hoạt, sáng tạo

* Về phía phụ huynh:

– Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và cùng phối kết hợp với giáoviên để cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhậnthấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.

– Một số phụ huynh trước đây chưa quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sốngcho trẻ ở trường cũng như ở nhà, nay đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệttình phối hợp với giáo viên và nhà trường trong việc chăm sóc - giáo dục trẻnói chung và giáo dục kĩ năng sống nói riêng.

Với những kết quả khả quan như vậy tôi thấy mình cần phải phát huy hơn nữa,nghiên cứu tài liệu và tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục giáo dục và rèn kỹnăng sống cho trẻ để làm tốt nhiệm vụ trồng người của mình.

* Kết quả so sánh đối chứng:

STT

Nội dung

Trước khi áp dụng

Sau khi áp dụng

Tỷ lệ trẻ tăng

Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

Số trẻ

Tỉ lệ%

Số trẻ

Tỉ lệ%

Số trẻ

Tỉ lệ %

Số trẻ

Tỉ lệ%

Số trẻ

Tỉ lệ%

1

Tính tự tin

6

46,3%

7

53,8%

10

76,9%

3

23,1%

4

30,7%

2

Kỹ năng hợp tác

7

53,8%

6

46,3%

13

100%

0

0%

6

46,1 %

3

Kỹ năng giao tiếp

4

30,8%

9

69,2%

10

76,9%

3

23,1%

6

46,1 %

4

Kỹ năng xử lí tình huống

6

46,3%

7

53,8%

11

84,6%

2

15,4%

5

38,4 %

5

Sự tò mò và khả năng sáng tạo.

5

38,4%

8

61,6%

11

84,6%

2

15,4%

6

46,1 %

6

Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.

7

53,8%

6

46,3%

12

92,3%

1

7,7%

5

38,4%