Phong cách chức năng ngôn ngữ nghệ thuật là gì

KẾT QUẢ CẦN ĐẠT Nắm được khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật với các dặc trưng cơ bản của nó. Có kĩ năng phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

I - NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

1. Nói đến ngôn ngữ nghệ thuật [ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học] trước hết là nói đến ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm được dùng trong văn bản nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật còn được sử dụng trong lời nói hằng ngày và cả trong văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, trong văn bản chính luận, để cho lí lẽ và lập luận có sức thuyết phục, lay động lòng người, người viết vẫn có lúc dùng những từ ngữ và viết những câu văn có tính hình tượng cụ thể và giàu sức biểu cảm. Ví dụ: Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

[Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập]

Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật được phân chia thành ba loại: - Ngôn ngữ tự sự trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, kí sự, phóng sự,... - Ngôn ngữ thơ trong ca dao, vè, thơ [nhiều thể loại khác nhau],... - Ngôn ngữ sân khấu trong kịch, chèo, tuồng,... Mỗi loại trên đây lại có thể chia thành nhiều thể. Trong các thể loại này, các phương tiện diễn đạt có tình nghệ thuật đan xen lẫn nhau để người đọc thẩm bình, thưởng thức, giao cảm: hoặc là cái hay của âm điệu, hoặc vẻ đẹp chân thực sinh động của hình ảnh, hoặc những cảm xúc chân thành gợi ra những nỗi niềm vui, buồn, yêu, thương trong cuộc sống. Như thế, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ thực hiện chức năng thông tin, mà điều quan trọng là nó thực hiện chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp và khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ ở người nghe, người đọc. Ví dụ: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. [Ca dao] Ngôn ngữ trong bài ca dao này không chỉ để thông tin về nơi sinh sống, cấu tạo, hương vị và sự trong sạch của cây sen, mà quan trọng là khẳng định và nuôi dưỡng một tư tưởng, một cảm xúc thẩm mĩ: cái đẹp có thể hiện hữu và bảo tồn ngay trong những môi trường có nhiều cái xấu. Ngôn ngữ nghệ thuật tuy lấy ngôn ngữ tự nhiên, hằng ngày làm chất liệu nhưng khác với ngôn ngữ hằng ngày ở chức năng thẩm mĩ. Phẩm chất thẩm mĩ mà nó có được là do sự lựa chọn, xếp đặt, trau chuốt, tinh luyện của người sử dụng theo các mục đích thẩm mĩ khác nhau.

GHI NHỚ

Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thảm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ.

II - PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

Tuy ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng đa dạng về thể loại, phong phú về màu sắc, biến hoá về tính sáng tạo nhưng đều thống nhất ở ba đặc trưng cơ bản: tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá. Các đặc trưng này làm nên phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. 1. Tính hình tượng Tính hình tượng là đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật. Ví dụ: trong bài ca dao về cây sen ở trên, nội dung tư tưởng, tình cảm, cảm xúc về cái đẹp không phải được biểu hiện trực tiếp qua từ ngữ và câu văn thông thường mà qua các hình tượng cụ thể [lá xanh, bông trăng, nhị vàng], và qua cả các lớp lang trong ngoài để gợi tả,... Hơn nữa, bao trùm lên tất cả là hình tượng sen như là một tín hiệu thẩm mĩ về phẩm chất thanh cao, đẹp đẽ trong tự nhiên và cả trong xã hội loài người. Để tạo ra hình tượng ngôn ngữ, người viết thường dùng rất nhiều phép tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nói quá, nói giảm nói tránh,... Những phép tu từ này được dùng sáng tạo, hoặc đơn lẻ hoặc phối hợp với nhau. Sau đây là một số ví dụ:

- So sánh:

Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp, Rắn như thép, vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, dài như sông Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!

[Tố Hữu, Ta đi tới]

- Ẩn dụ: Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng.

[Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu]

- Hoán dụ: Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa Chúng nó chẳng còn mong được nữa Chặn bàn chân một dận tộc anh hùng. Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn Đã bước dưới mặt trời cách mạng.

[Tố Hữu, Ta đi tới]

Như một kết quả tất yếu của tính hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật có tính đa nghĩa. Từ ngữ, câu văn, hình ảnh hoặc toàn bộ văn bản nghệ thuật có khả năng gợi ra nhiều nghĩa, nhiều tầng nghĩa khác nhau. Một từ sáng đặt đúng chỗ trong câu thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” [Khương Hữu Dụng] vừa có khả năng tạo nên một hình ảnh cụ thể, rõ nét, vừa gợi nhiều liên tưởng, từ đó hàm chứa những ý nghĩa sâu xa. Hình tượng “bánh trôi nước” trong bài thơ cùng tên của nữ sĩ Hồ Xuân Hương không chỉ miêu tả về một món ăn dân tộc, mà còn ngụ ý nói đến thân phận của người phụ nữ trong xã hội lúc đó, đồng thời khẳng định vẻ đẹp bên ngoài và phẩm chất bên trong của họ. Tính đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật cũng quan hệ mật thiết với tính hàm súc: lời ít mà ý sâu xa, rộng lớn. Người viết chỉ dùng một vài câu [thậm chí thay đổi một vài từ] mà có thể gợi ra những hình tượng khác nhau: hình tượng bánh trôi nước, hình tượng người phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp trong cảnh “bảy nổi ba chìm”. 2. Tính truyền cảm Trong lời nói đã chứa đựng những yếu tố tình cảm, thể hiện ở sự lựa chọn các yếu tố ngôn ngữ: từ ngữ, câu, cách nói, giọng điệu,... Tính truyền cảm trong ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở chỗ làm cho người nghe [đọc] cùng vui, buồn, yêu thích,... như chính người nói [viết]. Sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật là tạo ra sự hoà đồng, giao cảm, cuốn hút, gợi cảm xúc cho người đọc.

Năng lực gợi cảm xúc của ngôn ngữ nghệ thuật có được là nhờ sự lựa chọn ngôn ngữ để miêu tả, bình giá đối tượng khách quan [truyện và kịch] và tâm trạng chủ quan [thơ trũ tình]. Ngôn ngữ thơ thường giàu hình ảnh, nhưng có khi không có hình ảnh mà vẫn có sức hấp dẫn lạ thường, do sự cảm thông sâu sắc với số phận, hoàn cảnh của con người. Ví dụ:

Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

[Nguyễn Du, Truyện Kiều]

Văn xuôi nghệ thuật cũng rất dồi dào cảm xúc. Đó là nhờ sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ tự sự, miêu tả với biểu cảm. Đoạn văn đã dẫn [mục II.1] của Nguyễn Trung Thành trong Rừng xà nu miêu tả rất cụ thể, với hình ảnh rõ nét, đồng thời bộc lộ rõ cảm xúc của người viết và khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc.

3. Tính cá thể hoá Ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt chung của cộng đồng nhưng khi được các nhà văn nhà thơ sử dụng thì ở mỗi người lại có khả năng thể hiện một giọng riêng, một phong cách riêng, không dễ bắt chước, pha trộn. Chẳng hạn, giọng thơ Tố Hữu không giống với giọng thơ Chế Lan Viên, giọng thơ Xuân Diệu không giống giọng thơ Huy Cận, câu văn Nam Cao khác câu văn Nguyễn Công Hoan. Sự khác nhau về ngôn ngữ là ở cách dùng từ, đặt câu và ở cách sử dụng hình ảnh, bắt nguồn từ cá tính sáng tạo của người viết. Chính những biện pháp xử lí ngôn ngữ đã tạo ra giọng điệu riêng, phong cách nghệ thuật riêng của từng nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật. Tính cá thể hoá còn được thể hiện ở vẻ riêng trong lời nói của từng nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật [ví dụ: lời nói của Chí Phèo khác lời nói của Bá Kiến,...]; ở nét riêng trong cách diễn đạt từng sự việc, từng hình ảnh, từng tình huống trong tác phẩm [ví dụ: cùng là trăng nhưng trong những tình huống khác nhau của Truyện Kiều lại được miêu tả cụ thể gợi những vẻ đẹp không giống nhau, không lặp lại nhau]. Tính cá thể hoá tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật những sáng tạo mới lạ, không trùng lặp.

GHI NHỚ

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuạt có ba đặc trưng cơ bản: tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá.

III - LUYỆN TẬP

1. Hãy chỉ ra những phép tu từ thường được sử dụng để tạo ra tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật. 2. Trong ba đặc trưng [tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá], đặc trưng nào là cơ bản của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật? Vì sao? 3. Hãy lựa chọn từ thích hợp cho trong ngoặc đơn để đưa vào chỗ trống trong các câu văn, câu thơ sau và giải thích lí do lựa chọn từ đó. a] “Nhật kí trong tù” /.../ một tấm lòng nhớ nước. [Theo Hoài Thanh] [biểu hiện, phản ánh, thấm đượm, canh cánh, bộc lộ,...] b] Ta tha thiết tự do dân tộc Không chỉ vì một dải đất riêng Kẻ đã /.../ trên mình ra thuốc độc /.../ màu xanh cả Trái Đất thiêng. [Theo Tố Hữu] - Dòng 3 [gieo, vãi, phun, rắc] - Dòng 4 [huỷ, diệt, tiêu, triệt, giết] 4. Có nhiều bài thơ của các tác giả khác nhau viết về mùa thu, nhưng mỗi bài thơ mang những nét riêng về từ ngữ, nhịp điệu và hình tượng thơ, thể hiện tính cá thể hoá trong ngôn ngữ. Hãy so sánh để thấy những nét riêng đó trong ba đoạn thơ sau: a] Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như từng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào.

[Nguyễn Khuyến, Thu vịnh]

b] Em không nghe mùa thu Lá thu rơi xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô.

[Lưu Trọng Lư, Tiếng thu]

c] Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

[Nguyễn Đình Thi, Đất nước]

I – KHÁI NIỆM VỀ PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ

Phong cách chức năng ngôn ngữ chỉ những dấu hiệu hành vi và hoạt động ngôn ngữ thể hiện ở cách lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ có màu sắc riêng [biến thể ngôn ngữ] được lặp đi lặp lại nhiều lần ở một cá nhân, một môi trường giao tiếp và một cộng đồng ngôn ngữ, có khả năng phân biệt ngôn ngữ của cá nhân này với ngôn ngữ của cá nhân khác, môi trường này với môi trường khác và ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác.

II – CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ

1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt

a] Ngôn ngữ sinh hoạt

Khái niệm: Ngôn ngữ sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hằng ngày.

Tác dụng: Trao đổi thông tin, ý nghĩ, tình cảm … đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống.

b] Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt

Khái niệm: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt mang những dấu hiệu đặc trưng của ngôn ngữ dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày.

Các đặc trưng cơ bản:

– Tính cụ thể:

+ Tránh cách nói trừu tượng, chung chung.

+ Trong đối thoại việc tiếp nhận và phản hồi thông tin nhanh gọn.

– Tính cảm xúc:

+ Gắn liền với ngữ điệu, vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ thể hiện thái độ, cảm xúc, tư tưởng tình cảm.

+ Người tiếp nhận nhờ những yếu tố cảm xúc mà hiểu nhanh hơn hơn, cụ thể hơn.

– Tính cá thể:

+ Những nét riêng trong cách phát âm, giọng nói, cách dùng từ, chọn câu …

+ Tính cá thể đặc trưng cho ngôn ngữ của từng người, để lại những dấu ấn về người đó.

Các đặc điểm ngôn ngữ:

– Ngữ âm: không hướng đến sự chuẩn mực về mặt ngữ âm tuyệt đối trong lời nói.

– Từ ngữ:

+ Mang tính cụ thể, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm.

+ Có một lớp từ chỉ được dùng trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.

+ Sử dụng nhiều từ láy, từ tượng hình, tượng thanh.

– Cú pháp:

+ Phần lớn dùng câu đơn.

+ Sử dụng phép tỉnh lược, các biện pháp tu từ ẩn dụ, hoán dụ, so sánh.

+ Cách nói ví von, chuyển nghĩa của từ.

+ Xuất hiện một số hiện tượng lập từ.

– Diễn đạt: mang tính tự do, phụ thuộc vào tâm lí, cảm hứng.

Các dạng biểu hiện:

– Dạng nói bao gồm đối thoại và độc thoại.

– Dạng viết bao gồm thư từ, nhật kí, hồi ức cá nhân.

– Dạng tái hiện trong tác phẩm nghệ thuật [được biến cải, tổ chức lại]:

+ Thơ: phụ thuộc vào nhịp điệu, vần điệu và hài thanh.

+ Trường ca: lặp lại dư thừa theo nhịp điệu.

+ Một số truyện cổ tích: lời nói có vần, có nhịp, dễ nhớ.

+ Tiểu thuyết: lời nói của nhân vật bộc lộ tích cách, là phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật và tình huống truyện phát triển cốt truyện.

2. Phong cách ngôn ngữ khoa học

a] Khái niệm

Phong cách ngôn ngữ khoa học được dùng trong nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học, là đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên sâu.

Tồn tại trong môi trường làm việc, nghiên cứu khoa học.

Các dạng cơ bản:

– Khoa học chuyên sâu.

– Khoa học giáo khoa.

– Khoa học phổ cập.

b] Các đặc trưng cơ bản

Tính khái quát, trừu tượng:

– Sử dụng các thuật ngữ khoa học.

– Kết cấu luận điểm chặc chẽ.

Tính lí trí, logic:

– Từ ngữ thông thường, đơn nghĩa.

– Chuẩn xác về mặt cú pháp, những phán đoán mang tính logic cao.

Tính khách quan, phi cá thể:

– Ít biểu đạt cảm xúc.

– Hạn chế lối biểu đạt mang tính cá nhân.

3. Phong cách ngôn ngữ báo chí

a] Khái niệm

Phong cách ngôn ngữ báo chí được sử dụng trong các văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông đại chúng như báo, tạp chí …

b] Thể loại

Tin tức, phóng sự, quảng cáo, tiểu phẩm, phỏng vấn, bình luận, trao đổi ý kiến.

c] Các đặc trưng cơ bản

Tính thông tin thời sự:

– Cập nhật đầy đủ, chính xác và cụ thể [địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện …].

– Khách quan, mang tính hướng dẫn dư luận.

– Ngôn ngữ diễn đạt là ngôn ngữ sự kiện.

Tính ngắn gọn: Diễn đạt ngắn gọn nhưng lượng thông tin cao.

Tính sinh động, hấp dẫn:

– Liên quan đến tin tức và vận mệnh con người.

– Lối diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn kích thích được sự tò mò.

d] Đặc điểm ngôn ngữ:

Sử dụng ngôn từ chuẩn xác.

Từ ngữ mang tính toàn dân, mang màu sắc đa phong cách.

Cú pháp:

– Câu cú rõ ràng, chính xác, cụ thể.

– Cách dẫn trực tiếp hoặc dẫn gián tiếp.

Biện pháp tu từ: tạo nên sức hấp dẫn.

4. Phong cách ngôn ngữ chính luận

a] Khái niệm

Phong cách ngôn ngữ chính luận được dùng trong lĩnh vực chính trị, xã hội.

Mục đích: bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự.

b] Các thể loại

Nghị luận trung đại: Hịch, chiếu, cáo, biểu, tấu …

Văn bản hiện đại: Cương lĩnh, tuyên ngôn, tuyên bố, lời kêu gọi, hiệu triệu, xã luận, bình luận, tham luận …

c] Các đặc trưng cơ bản

Tính công khai về quan điểm chính trị:

– Ngôn từ chính luận thể hiện quan điểm, thái độ chính trị một cách công khai, không che giấu, úp mở.

– Từ ngữ thể hiện quan điểm chính trị rõ ràng.

– Tránh tình trạng đa nghĩa dễ làm lẫn lộn quan điểm, lập trường, chính kiến.

Tính chất chặc chẽ trong diễn đạt và suy luận: Lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc dựa trên các luận điểm và luận cứ khoa học.

Tính truyền cảm, thuyết phục:

– Chứa đựng hàm ý sâu sắc, có sức thuyết phục.

– Giọng văn hùng hồn, tha thiết.

– Ngữ điệu, giọng nói là phương tiện hỗ trợ cho lí lẽ ngôn từ.

5. Phong cách ngôn ngữ hành chính, công vụ

a] Khái niệm

Phong cách ngôn ngữ hành chính dùng trong giao tiếp trong lĩnh vực hành chính.

b] Chức năng

Thông báo [văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ, hóa đơn, hợp đồng …], sai khiến [thông tư, văn bản quy phạm].

c] Đặc trưng cơ bản

Tính khuôn mẫu:

– Phần đầu có Quốc hiệu và tiêu ngữ, cơ quan phát hành văn bản, thời gian và địa điểm.

– Phần chính: Nội dung.

– Phần cuối: Chức vụ, chữ kí, con dấu, nơi nhận.

Tính minh xác:

– Ngôn từ, câu cú đơn nghĩa, không sử dụng các biện pháp tu từ, văn phong không mang hàm ý.

– Chính xác đến tuyệt đối.

– Nội dung rõ ràng theo điều khoản, chương, mục.

Tính công vụ:

– Công việc chung của tập thể.

– Hạn chế biểu đạt tình cảm cá nhân.

– Từ ngữ ướt lệ, khuôn mẫu.

6. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

a] Khái niệm

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật được dùng trong sáng tác văn chương.

Không giới hạn về đối tượng, không gian và thời gian giao tiếp.

b] Phân loại

Ngôn ngữ thơ [thơ, ca dao, hò, vè]: giàu hình ảnh và nhạc điệu.

Ngôn ngữ tự sự [truyện, kí, tiểu thuyết]: miêu tả và trần thuật.

Ngôn ngữ sân khấu [kịch, tuồng, chèo]: tính cá thể cao thể hiện tâm trạng và cá tính.

c] Chức năng

Chức năng thẩm mĩ: khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ.

Chức năng thông tin: thể hiện rõ ràng đặc điểm, tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng.

d] Đặc trưng cơ bản

Tính hình tượng: Tái hiện hiện thực để người đọc liên tưởng và rút ra những ý nghĩa cũng như suy ngẫm nhất định.

Tính truyền cảm: Làm phát sinh những sự đồng cảm giữa người đọc với người viết.

Tính cá thể hóa: Thể hiện thông qua phong cách, khả năng, sở trường riêng của người viết.

III – BÀI TẬP THỰC HÀNH

Phương pháp làm bài tập nhận biết: Là bài tập yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức cũng như các đặc trưng, đặc điểm cơ bản của từng phong cách.

Luyện tập: Hãy cho biết trong các ngữ liệu sau đã sử dụng phong cách ngôn ngữ gì.

a] Tôi mỉm cười, rồi ngồi vào bàn, tuy trong người mệt mỏi và không thấy đói mà cũng phải cố ăn để vui lòng bà chủ. Ông Ba thì vui vẻ lắm, như rất thích được có người đến chơi, nhất người ấy lại là tôi. Ông uống từng chén rượu lớn, cười nói vang lên. Bà Ba ngồi yên lặng bên cạnh, luôn luôn gắp thức ăn vào bát, ép tôi ăn. Bà cũng hình như vui vẻ lắm vì thấy chồng vui vẻ.

Tôi đưa mắt nhìn vào trong nhà rồi hỏi:

– Thưa bác, các em đâu, bác không bảo ra ăn cơm một thể.

Bà Ba đáp:

– Cậu cứ ăn đi. Các em nó đã ăn cơm cả rồi.

Ngừng một lát, bà mỉm cười nói thêm:

– Chúng nó thẹn không dám ra.

Ông Ba cười to, đáp:

– Ồ, cậu Bình đấy, chứ ai đâu mà thẹn. Chúng nó không nhớ lúc bé vẫn bám theo cậu ấy xin quà à?

Tôi cố nhớ lại buổi cuối cùng lên chơi đây, đã lâu lắm. Hình như độ ấy có hai cô gái bé con để chỏm và mới cắp sách đi học.

Tôi không thể ngờ được lại là hai cô thiếu nữ mà tôi mới thoáng trông thấy ở trong vườn.

[Thạch Lam, Nắng trong vườn]

b] Gã ngồi đây, ở trên mặt giại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôi chân sau gập lại, y lối ngồi xổm. Đôi mắt nhìn xa xôi… Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên để gãi mép cũng như người ta sờ tay lên vuốt ria cho nó oai vậy.

Trời đã xê chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng lại trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng thơi, người kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt xạt đụng vào thành giếng đá.

Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước đi từ tôn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định ra sao, hắn leo tót lên ngay, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau ráp trắng, rồi lại tụt xuống, lại đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ rất đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoái một điều gì mà hắn vừa nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét mặt tư lự.

[Tô Hoài, O chuột]

c] Phàm vật hễ mất cân bằng thì kêu, cho nên làm cho người ta phải chịu oan khốc là bởi thiện ác không rõ ràng, thực dối không phân biệt. Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều đình, chăn nuôi dân chúng, ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết lòng thương yêu. Nay tôi mang tội vô cô, ngậm tình oan khổ, đã không được lượng trên thương xét, lại còn đem quân đến đánh, khiến nhân dân một phương không được ở yên, đó tuy là tội của tôi, nhưng cũng do quan trên vỗ yêu không phải đạo vậy. Vả lại ghét chết thích sống, tránh nhọc tìm nhàn là thường tình người ta. Nay tôi lìa quê hương mà trốn tránh, bỏ vườn ruộng mà không nhìn, kể nông nỗi ấy, thực đáng xót thương! Thế mà Triều đình to lớn, thú mục hiền hành, sao nỡ để tôi phải đến thế? Nay tôi chỉ trời xin thề, cùng chúng định ước, đem lòng thành tín mà quy hàng, xin đấng quân phụ cho tái tạo. May ra nỗi oan được rõ, lỗi trước được tha, cho tôi được hết lòng trung mà phụ sự Triều đình, đó thực là điều tôi sở nguyện vậy. Ngày xưa Kê Khang vô tội mà sau hết trung với Tấn, Quan Vũ khỏi chết mà sau trả nghĩa cho Tào; tôi dẫu kém cỏi, dám đâu quên nghĩa ấy, xin hoặc cho đi đánh Bắc để lập công, hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội, dù chết cũng không từ. Cuối xin soi xét tấc thành, khoan tha tội lỗi, thực may cho tôi lắm.

[Nguyễn Trãi, Thư cho tổng binh cùng quan phủ vệ Thanh Hóa]

d] Cơ quan miễn dịch trung ương là nơi tế bào miễn dịch trưởng thành, gồm có tuyến ức, tủy sống và fabricius [gia cầm].

Tuyến ức được cấu thành từ các tế bào mô đệm tuyến ức [TSC] và tế bào tuyến ức, là nơi tế bào T trưởng thành. Tuyến giáp trạng nằm gần vùng cortex, thymocytes phân bố dày đặc, vùng gần trung tâm có rất ít tế bào. Tuyến ức cung cấp môi trường vi sinh cho sự trưởng thành của tế bào. Tuyến ức sinh ra tế bào hoạt tính miễn dịch mà CD3CD4 và CD3CD8 cần, các tế bào T này sẽ lựa chọn kiểu hình phản ứng miễn dịch cần.

Tủy sống và fabricius [gia cầm] là cơ quan tạo máu, Tế bào gốc tạo máu Pluripotent [HSC] gia tăng trong tủy sống. HSC trong tủy sống phân hóa thành tế bào gốc lympho [LSC], từ đó phân hóa thành tế bào nguyên lympo, một phần di chuyển đến tuyến ức, phát triển thành tế bào lympo T chức năng; một phần phân hóa thành tế bào B chức năng; tủy sống là cơ quan duy nhất tế bào B phát triển thành; ngoài ra, tủy sống còn là nơi xảy ra đáp ứng miễn dịch dịch thể.

Cơ quan miễn dịch trung ương truyền tế bào lympo T và tế bào lympo B đến các cơ quan miễn dịch ngoại biên, quyết định sự phát dục của cơ quan miễn dịch ngoại biên.

[Nguồn: Trang Di truyền học, Hệ thống miễn dịch: Những kiến thức cơ bản]

Blog: Ôn thi Tiếng Anh + Ngữ văn

Video liên quan

Chủ Đề