Nhu cầu khẩn cấp là gì

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp toà án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không the khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

So với các biện pháp khác được toà án quyết định áp dụng trong quá trình tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự thì biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) có những nhiều điểm khác biệt, vừa mang tính khẩn cấp vừa mang tính tạm thời. Tính khẩn cấp của biện pháp này được thể hiện ở chỗ, toà án phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này được thực hiện ngay sau khi được toà án quyết định áp dụng, nếu không sẽ mất hết ý nghĩạ, tác dụng.

Tính tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Đây chỉ là biện pháp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, chưa phải là quyết định về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu lí do của việc áp dụng không còn nữa thì toà án có thể huỷ bỏ quyết định này. Tuy vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của người bị áp dụng và người khác. Do vậy, toà án phải xem xét thận trọng trước khi quyết định áp dụng biện pháp này và phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật để tránh việc gây thiệt hại cho đương sự và các chủ thể khác.

Để bảo đảm việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được đúng đắn, từ trước tới nay, pháp luật tố tụng dân sự quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục và điều kiện quyết định áp dụng. Trước đây, việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động được thực hiện theo các quy định tại các điều: từ Điều 99 đến Điều 126 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán - Toà án nhân dân tối cao số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 hướng dẫn thi hành một sổ quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự. Hiện nay, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết các vụ việc này được thực hiện theo các quy định tại các điều: từ Điều 111 đến Điều 142 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 

2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án nên việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của toà án mà cả đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí, nhiều người đã có hành vi tẩu tán tài sản, huỷ hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, mua chuộc người làm chứng ... Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trường hợp này một mặt chống lại được các hành vi đó, bảo vệ được chửng cứ, giữ nguyên được giá trị chứng minh của chứng cứ, tránh cho hồ sơ vụ việc dân sự bị sai lệch, bảo đảm việc giải quyết đúng được vụ việc dân sự. Mặt khác, qua đó còn bảo toàn được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành bản án, quyết định của toà án sau này.

Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của họ và những người sống phụ thuộc vào họ. Trên cơ sở đó, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự, tố tụng dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như các vấn đề khác liên quan. Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến. Trân trọng./.

Tính chất của các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự? Ý nghĩa của các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự?

Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tố tụng dân sự. Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời là công cụ pháp lý quan trọng để các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hợp pháp. Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trinh giải quyết vụ việc dân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã sâu sắc.

PHEIC được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa như một "sự kiện bất thường", "tạo thành mối nguy hại đến sức khỏe cho các quốc gia thông qua sự lây lan của bệnh tật quốc tế", yêu cầu các "phản ứng phối hợp" từ nhiều quốc gia. 

Trên lý thuyết, PHEIC không mang tính pháp lý, WHO vẫn có quyền đưa ra khuyến cáo đối với các hoạt động có thể làm lây lan bệnh dịch nhanh chóng như hạn chế du lịch, giao thương. 

Nhu cầu khẩn cấp là gì

Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus trong cuộc họp khẩn ngày 30/1, tuyên bố dịch viêm phổi do nCoV là Tình trạng Khẩn cấp Y tế Công cộng Quốc tế. Ảnh: WHO.

Theo Giáo sư Rebecca Katz, Giám đốc Trung tâm Khoa học và An toàn Sức khỏe Toàn cầu, Đại học Georgetown, tình trạng khẩn cấp tạo ra áp lực đáng kể đối với các quốc gia thành viên bị ràng buộc. Bên cạnh đó, WHO có thể huy động sự hợp tác quốc tế, từ nguồn nhân lực cho tới tài chính. 

Bằng việc nhấn mạnh mức độ nguy hại của bệnh dịch, tình trạng khẩn cấp giúp thuyết phục công dân các nước tuân thủ khuyến cáo về sức khỏe và vệ sinh. Trong đợt dịch viêm phổi lần này, WHO đã đưa ra các biện pháp ngăn ngừa nhiễm bệnh bao gồm rửa tay bằng xà phòng và nước diệt khuẩn; tránh tiếp xúc với người có triệu chứng cúm; ăn chín uống sôi và không lại gần động vật hoang dã.

Ủy ban Khẩn cấp của WHO cũng có quyền đề xuất tư vấn du lịch cho các thành phố, khu vực và quốc gia. Quyền này từng được áp dụng trong đợt dịch SARS năm 2003.

PHEIC cũng có ý nghĩa đối với các hãng hàng không, những đơn vị vận chuyển hành khách ra vào lãnh thổ Trung Quốc. Trong một số trường hợp, chỉ đến khi tuyên bố của WHO được phát đi, các hãng hàng không mới miễn cưỡng hủy bỏ chuyển bay bởi chúng góp phần lớn vào lợi nhuận của toàn công ty.

WHO có thể xem xét các biện pháp y tế công cộng được các nước áp dụng đối với du khách của mình. Nếu một quốc gia đặt lệnh hạn chế đi lại hoặc thông thương vượt quá khuyến nghị (chẳng hạn từ chối nhập cảnh), WHO có quyền yêu cầu chính phủ đưa ra bằng chứng khoa học liên quan.

Từ trước tới nay, WHO đã 4 lần ban bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu

PHEIC lần đầu được ban bố vào đợt dịch Cúm lợn H1N1 vào năm 2009. Hiện, đại dịch vẫn trong giai đoạn ba. 

Năm 2014, Tổ chức Y tế Thế giới công nhận dịch Ebola ở châu Phi và sự trỗi dậy của bệnh bại liệt là tình trạng khẩn cấp. 

Tháng 2/2016, WHO tuyên bố PHEIC đối với bệnh Zika ở Mỹ. 

Bệnh viêm phổi lạ từ virus corona chủng nCoV trở thành tình trạng khẩn cấp thứ 5 trong lịch sử y tế thế giới. Ngày 30/1, trong cuộc họp tại thành phố Geneva, Thụy Sĩ, WHO tuyên bố dịch viêm phổi từ virus corona chủng nCoV là tình trạng khẩn cấp về sức khỏe công cộng, hay còn gọi là Tình trạng Khẩn cấp Y tế Công cộng Quốc tế (PHEIC).

Số ca người chết do bệnh viêm phổi liên quan đến virus corna chủng nCoV đã đạt mức cao kỷ lục, lên tới 213 ca vào ngày 31/1.

Trong số 42 trường hợp tử vong mới được báo cáo, 30 người sinh sống tại ổ dịch Vũ Hán. Cho đến nay, không có trường hợp tử vong bên ngoài Trung Quốc. Nước này cũng ghi nhận 9.356 ca bệnh mới tại tất cả 31 tỉnh thành, nâng tổng số bệnh nhân dương tính với nCoV trên toàn cầu lên mức 9.480, vượt xa đợt đại dịch SARS năm 2002-2003.