Một nghìn đồng là gì

Rất nhiều bạn đã giải thích hiện tượng 1.000 đồng bị coi rẻ đơn giản vì thời buổi lạm phát này nó không có giá trị thanh toán.

- 1.000 đồng không mua nổi một mớ hành.

- 1.000 đồng không đủ để bơm xe máy

- 1.000 đồng không thể mua được 1 cái bánh mỳ

Quảng cáo

- 1.000 đồng không mua nổi một gói tăm xỉa răng...

Vì vậy mà nhiều người vứt nó lăn lóc khắp nơi, vò nó nhàu nhĩ trong túi quần, hoặc không thèm nhận lại 1.000 đồng tiền thối...

Tôi thì nghĩ thế này, tiền do mồ hôi nước mắt mình làm ra nên dù 500 hay 200 đồng vẫn nên trân trọng. Thu nhập mỗi tháng của riêng tôi đủ trang trải cho gia đình 5 người, nhưng tôi vẫn tiết kiệm từng 1.000 đồng. Mua một chiếc áo với giá 299.000 đồng [bây giờ có nhiều nơi niêm yết hàng hóa kiểu 99.000, 199.000 lắm], tôi vẫn lấy lại tiền thối 1.000 đồng. Đi ăn cơm trưa ở văn phòng hết 29.000, tôi vẫn lấy lại tiền thối 1.000 đồng. Gửi xe hết 3.000 đồng, tôi đưa 2 tờ 2.000 đồng và vẫn lấy lại tiền thối 1.000 đồng. Mỗi 1.000 đồng tiền thừa tôi để trong một ngăn phụ của bóp và nó sẽ dùng để tiêu lặt vặt khi đi chợ. Mua một mớ hành, cái bánh mỳ, gói tăm, bơm xe máy hay gửi xe, tôi lại dùng những tờ 1.000 đồng để chi trả.

Quảng cáo

Và đặc biệt tôi dùng những đồng 1.000 đồng tiền lẻ để đối ứng với các cô thu cước điện, điện thoại, Internet. Nhiều bạn đọc phàn nàn một số nhân viên thu ngân những dịch vụ này tìm cách thoái thác trả tiền lẻ 1.000 đồng. Tôi cũng gặp một vài lần như thế. Và cách để "ứng xử" với họ là: giả sử với hóa đơn tiền điện 514.000, thay vì đưa cho cô thu ngân 515.000 đồng để chờ cô ấy trả lại 1.000 đồng, tôi sẽ đưa cho cô ấy 510.000 và 4 tờ 1.000 đồng.

Có nhiều ý kiến bạn đọc nói những loại tiền mệnh giá nhỏ như 200 hay 500 đồng không biết tiêu ở đâu. Đúng là hiện nay có hiện tượng nhiều người từ chối nhận đồng lẻ này. Giải pháp của tôi là tiêu nó ở các hệ thống siêu thị. Có lúc nhân viên thu ngân cũng tỏ ra khó chịu, nhưng điều đó không làm tôi bận tâm vì tôi đang tiêu những đồng tiền chân chính của mình mà.

Tôi đã từng sống ở châu Âu, cũng đã tham gia nhiều chương trình từ thiện ở Việt Nam, nhưng trong cuộc sống hàng ngày tôi luôn nâng niu những đồng bạc lẻ, ở nhà thì xếp gọn chúng trong một chiếc rổ mây nhỏ, đi làm thì nhét nó trong ngăn phụ của bóp và sử dụng chúng hữu ích trong cuộc sống hàng ngày.

Tôi nghĩ nếu các đồng tiền lẻ được mọi người dân gom góp, giữ gìn và được nâng niu dùng chúng mỗi ngày, nhà nước mỗi năm sẽ không phải tốn chi phí phát hành thêm một lượng tiền lẻ mới nữa ra thị trường. Đây cũng là cách mà người dân một phần hỗ trợ nhà nước ngăn chặn lạm phát rồi.

Đôi dòng suy nghĩ mong được bạn đọc góp ý thêm.

Trân trọng!

Thùy Dương

Xin xem các mục từ khác có cùng tên ở Đồng [định hướng].

Đồng [Mã giao dịch quốc tế: VND, ký hiệu: hoặc đ] là đơn vị tiền tệ của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Đồng
Đồng Việt Nam

Tờ bạc 100 đồng Đông Dương

Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc". Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc México nặng 27 gam 073 [độ tinh khiết 902 phần nghìn], sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam [độ tinh khiết là 900 phần nghìn]. Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Đệ nhất Thế chiến xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp [Đông Dương] có giá trị là 655 miligam vàng [độ tinh khiết 900 phần nghìn], từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng.

Thời kỳ sau Cách mạng tháng TámSửa đổi

Bài chi tiết: Đồng [tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]

Tiền giấy 10 đồng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1951

Tiền 50 đồng Việt Nam Cộng hòa năm 1975

Từ 1945 – 1954Sửa đổi

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình chủ tịch Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công - Binh. Các loại giấy bạc đều có chữ số Ả rập, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Khmer chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính [Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến] và Giám đốc Ngân khố trung ương. Do đó ngoài tên gọi là "giấy bạc Cụ Hồ", nhân dân còn gọi là "giấy bạc tài chính". Ngày 5 tháng 6 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc tài chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" [chữ Hán và chữ quốc ngữ] và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình công - nông - binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.

Về sau, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân hàng chỉ khác là trên giấy bạc có chữ ký của Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ [Phạm Văn Bạch], đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ. Một số tỉnh được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế.... hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh.

Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc kiểm soát của Pháp lưu hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dù Chính phủ phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương tiện giao thông còn khó khăn nên loại tiền này không thể được vận chuyển thường xuyên đến Nam Bộ. Chính vì thế, sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền kim loại do Pháp phát ra.

Từ 1954 – 1975Sửa đổi

Bài chi tiết: Đồng [tiền Việt Nam Cộng hòa]

Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng.

Ở miền Nam, từ năm 1953 đã cho lưu hành tiền đồng riêng biệt.

Sau 1975Sửa đổi

Khi mới thống nhất, tiền miền Nam đổi thành tiền giải phóng, với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng.

Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, lại có một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng thống nhất bằng 1 đồng cũ, trong khi tại miền Nam 1 đồng thống nhất bằng 8 hào tiền giải phóng.

Lần đổi tiền thứ ba diễn ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới.

Chính sách tỷ giá hối đoáiSửa đổi

Hối suất chính thức USD - Đồng Năm Hối suất
1986 1:22,74[8]
1990 1:6.482,80[9]
1995 1:11.038,25[10]
2000 1:14.167,75[11]
2005 1:15.858,92[12]
2010 1:18.612,92[13]
2015 1:21.697,57[14]

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực hiện chính sách quản lý tỷ giá hối đoái theo hướng thả nổi có kiểm soát. Trong vòng vài ba năm trở lại đây [giai đoạn 2003 - 2005], đồng Việt Nam có tỷ giá khá ổn định so với đồng đô la Mỹ do chính sách của Ngân hàng Nhà nước chỉ cho đồng giảm giá khoảng 1% một năm. Sau khi đồng đô la Zimbabwe đổi giá vào đầu tháng 8 năm 2006, đơn vị đồng của Việt Nam trở thành đơn vị tiền thấp giá nhất trên thế giới trong một thời gian dài trước khi bị Rial Iran vượt qua. Hiện Việt Nam đồng là đồng tiền có giá trị thấp thứ 3 thế giới, sau Rial Iran và Bolívar Venezuela].

Việt Nam đồng hiện vẫn là tiền tệ có khả năng tự do chuyển đổi thấp, chưa trở thành đồng tiền dùng trong thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực hiện cố gắng nâng cao khả năng tự do chuyển đổi của đồng Việt Nam bằng cách trước mắt nâng cao tỷ trọng thanh toán xuất khẩu bằng đồng, tiến tới sử dụng đồng Việt Nam trong thanh toán nhập khẩu song song với việc tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai.

Phá giáSửa đổi

Tháng 11 năm 2009, Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam, đồng thời tăng lãi suất lên 8%. Việc này được xem như là hành động làm căng thẳng thị trường tài chính châu Á, vì các nền kinh tế trong vùng đang tranh nhau tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ.[15]

Ngày 11 tháng 2 năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam định lại mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Việt Nam đồng và Đô la Mỹ, theo đó, một Đô la Mỹ bằng 18.544 đồng. Trước đó, mức tỷ giá là 17.941 đồng. Như vậy, đồng tiền Việt Nam bị phá giá 3,25% so với Đô la Mỹ.[16] Đến ngày 28 tháng 2 năm 2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng.

Ngày 17/08/2010, Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD, tăng 388 đồng.[16]

Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND [tăng 9,3%], cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương mại từ ±3% xuống còn ±1%.[17] Tuy nhiên đến ngày 19/02/2011 tỷ giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng.

Việc đồng tiền mất giá ở Việt Nam đã thể hiện qua vài trường hợp cụ thể như một gia đình gửi ngân hàng tiết kiệm tháng 9 năm 1983 số tiền 90 đồng, giá trị một chỉ vàng. Đến tháng 3 năm 2015, rút ra thì được hơn 20.000, chỉ mua được một ổ bánh mỳ kẹp thịt.[18]

Các mệnh giá đang lưu hànhSửa đổi

Tiền giấySửa đổi

Xem thêm: Tiền polymer tại Việt Nam

Mệnh giá Hình ảnh Kích thước Màu chủ đạo Ngày phát hành Mặt trước Mặt sau Loại giấy
100₫
120 × 59mm Nâu đen Quốc huy Chùa Phổ Minh Cotton 2/5/1992
200₫
130 × 65mm Nâu đỏ Hồ Chí Minh Sản xuất nông nghiệp Cotton 30/09/1987
500₫
130 × 65mm Đỏ cánh sen Hồ Chí Minh Cảng Hải Phòng Cotton 15/08/1989
1000₫
134 × 65mm Xanh nhạt, vàng Hồ Chí Minh Tây Nguyên Cotton 20/10/1989
2000₫
134 × 65mm Nâu sẫm Hồ Chí Minh Nhà máy dệt Nam Định Cotton 20/10/1989
5000₫
134 × 65mm Xanh lơ sẫm Hồ Chí Minh Nhà máy thủy điện Trị An Cotton 15/01/1993
10000₫ 140 × 68mm Đỏ tía Hồ Chí Minh Vịnh Hạ Long Cotton 15/10/1994
  • 10.000 đồng mặt sau.jpg

132 × 60mm Nâu đậm trên nền vàng Hồ Chí Minh Mỏ dầu Bạch Hổ Polymer 30/08/2006
20000₫ 140 × 68mm Xanh lơ sẫm Hồ Chí Minh Xưởng sản xuất đồ hộp Cotton 02/03/1993
  • 20.000 mặt sau.jpg

136 × 65mm Xanh lơ đậm Hồ Chí Minh Chùa Cầu Polymer 17/05/2006
50000₫ 140 × 68mm Xanh lá cây sẫm Hồ Chí Minh Bến Nhà Rồng Cotton 15/10/1994
  • 50.000 mặt sau.jpg

140 × 65mm Nâu tím đỏ Hồ Chí Minh Nghênh Lương Đình - Phu Văn Lâu Polymer 17/12/2003
100000₫ 145 × 71mm Nâu sẫm Hồ Chí Minh Nhà sàn Bác Hồ Cotton 01/09/2000
144 × 65mm Xanh lá cây đậm Hồ Chí Minh Quốc Tử Giám Polymer 01/09/2004
200000₫
  • 200.000 mặt sau.jpg

148 × 65mm Đỏ nâu Hồ Chí Minh Vịnh Hạ Long Polymer 30/08/2006
500000₫
152 × 65mm Xanh lơ tím sẫm Hồ Chí Minh Ngôi nhà tranh 5 gian tại Làng Sen, Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An Polymer 17/12/2003
100₫ 163 x 82mm Đỏ và vàng Hồ Chí Minh Tòa nhà trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cotton [tiền lưu niệm nhân dịp 65 năm thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [6/5/1951 – 6/5/2016].

Tiền kim loạiSửa đổi

Bài chi tiết: Tiền kim loại tại Việt Nam

Mệnh giá Thông số kỹ thuật Miêu tả Ngày phát hành Hình

ảnh

Đường kính Độ dày mép Khối lượng Vật liệu Vành Mặt trước Mặt sau
200₫
20,00mm 1,45mm 3,2 g Thép mạ nikel Trơn "NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC Việt Nam", mệnh giá, hoa văn dân tộc Quốc huy 17/12/2003
500₫
22,00mm 1,75mm 4,50 g Thép mạ nikel Khía răng cưa ngắt quãng 6 đoạn "NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC Việt Nam", mệnh giá, hoa văn dân tộc Quốc huy 01/04/2004
1000₫
19,00mm 1,95mm 3,80 g Thép mạ đồng thau Khía răng cưa liên tục "NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC Việt Nam", mệnh giá, hình Thủy Đình, Đền Đô Quốc huy 17/12/2003
2000₫
23,50mm 1,80mm 5,10 g Thép mạ đồng thau Khía răng cưa ngắt quãng 12 đoạn "NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC Việt Nam", mệnh giá, hình nhà rông Quốc huy 01/04/2004
5000₫
25,50mm 2,20mm 7,70 g Hợp kim CuAl6Ni2 Khía vỏ sò "NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC Việt Nam", mệnh giá, hình Chùa Một Cột Quốc huy 17/12/2003

Cũng như các quốc gia khác, ý tưởng ban đầu của việc phát hành tiền kim loại [tiền xu] là để dùng vào việc thanh toán tại các máy bán hàng tự động. Tuy nhiên, thời điểm phát hành tiền xu, thị trường thanh toán tự động và hệ thống máy móc lại chưa phổ biến tại Việt Nam cho nên dân chúng vẫn dùng tiền xu song song với tiền giấy, đó là thói quen sai về mặt ứng dụng.

Tiền xu lại bất tiện hơn, nếu quy đổi thành cùng một mệnh giá tương đương, khối lượng tiền xu nặng hơn rất nhiều so với tiền giấy, gây khó khăn cho việc mang đựng, kiểm đếm. Kích cỡ bé, tròn nhưng nặng khiến cho tiền xu sẽ lăn rất xa nếu rơi và dễ vào chỗ hẹp như khe nhà, khe cống. Đã xảy ra những tai nạn về việc trẻ em nuốt tiền xu. Những bất tiện này cộng với việc máy bán hàng tự động hiện nay đã tương tác được với tiền giấy, khiến cho tiền xu không còn là cách thanh toán tự động duy nhất. Tiền xu không còn được sử dụng trong đời sống hằng ngày tại Việt Nam trên thực tế,[19] dù rằng giá trị thanh toán của nó vẫn còn.

Xem thêmSửa đổi

  • Tiền Việt Nam
Bảng Unicode Biểu tượng tiền tệ
Official Unicode Consortium code chart: Currency Symbols Version 13.0
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 A B C D E F
U+20Ax
U+20Bx
U+20Cx

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ “Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010”. 16 tháng 6 năm 2020.
  2. ^ “Siêu thị lại trả kẹo thay vì trả tiền lẻ thừa cho khách”. vov.vn. 5 tháng 6 năm 2009.
  3. ^ "Tiền Cụ Hồ" - đồng tiền tiếp nối truyền thống từ thời lập quốc”.
  4. ^ Nên thu hồi tiền xu khi giá trị thanh toán không còn, Người Đưa Tin, 27.12.2012
  5. ^ “NHNN - TIền đang lưu hành”. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
  6. ^ “Tài xế đòi BOT Cai Lậy 100 đồng tiền thừa: Mệnh giá 100 đồng được phép lưu hành”. Vietnamnet. 1 tháng 12 năm 2017.
  7. ^ “NHNN - Tiền đã đình chỉ lưu hành”. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
  8. ^ World Bank 1985
  9. ^ World Bank 1990
  10. ^ World Bank 1995
  11. ^ World Bank 2000
  12. ^ World Bank 2005
  13. ^ World Bank 2010
  14. ^ World Bank 2015
  15. ^ “BBC Vietnamese - VN phá giá tiền gây căng thẳng ở châu Á”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2009.
  16. ^ a b Tỷ giá 2010: Những "điệu nhảy" chóng mặt!
  17. ^ BBC Vietnamese - Tiền đồng mất giá thêm 8,5%
  18. ^ "Gửi tiết kiệm 1 chỉ vàng nhận lại 1 ổ bánh mì thịt"
  19. ^ Tại sao tiền xu không được ưa chuộng?, Vietstock, 05/12/2013

Tham khảoSửa đổi

  • Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2002.

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tiền Việt Nam.
  • Collection Banknotes of Vietnam and the World Lưu trữ 2010-09-21 tại Wayback Machine
  • Bộ sưu tầm tiền cổ Việt Nam của Viettouch
  • Báo Quê Hương về các vụ đổi tiền Lưu trữ 2007-03-15 tại Wayback Machine
  • Kỹ thuật đặc trưng của đồng tiền Việt Nam Lưu trữ 2006-07-22 tại Wayback Machine, từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
  • Đồng tiền cụ Hồ Lưu trữ 2007-09-28 tại Wayback Machine
  • Nhân kỷ niệm 60 năm Toàn quốc kháng chiến: Vài tư liệu về Giấy bạc cụ Hồ
  • Tiền giấy Việt Nam thời Pháp thuộc
  • Báo Sài Gòn giải phóng, "Tờ bạc Cụ Hồ" và nhà tư sản yêu nước

Video liên quan

Chủ Đề