Maldives đọc là gì

Maldives, một quốc đảo ở Ấn Độ Dương vốn được mệnh danh là “thiên đường nghỉ dưỡng” thường xuyên đón 1,7 triệu du khách mỗi năm. Trong năm 2020, do đại dịch Covid-19, quốc đảo này chỉ đón khoảng 500 nghìn du khách. Mặc dù đây là mức sụt giảm lượng khách đáng kể, song con số này vẫn khiến Maldives là một trong những câu chuyện thành công nhất của ngành du lịch thế giới trong bão đại dịch.

Trong khi nhiều điểm đến khác tuyên bố đóng cửa biên giới, từ tháng 7-2020, Maldives chọn cách mở cửa hoàn toàn với tất cả du khách đến từ bất cứ nơi nào trên thế giới, bất kể tình trạng dịch Covid-19 tại nơi đó ra sao.

Lợi thế sẵn có

Một phần của quyết định táo bạo này là vấn đề tài chính. Theo dữ liệu từ Đại học bang Michigan, du lịch đóng góp tới 28% tổng thu nhập quốc nội của Maldives. Đây cũng là nước có mức đóng góp của du lịch vào nền kinh tế cao nhất thế giới.

Địa lý của quốc đảo này cũng hợp với các quy định phòng, chống Covid-19. Nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng nằm trên những hòn đảo tư nhân. Có hơn một nghìn nơi như vậy để du khách lựa chọn, ngay cả trước khi các hòn đảo nhân tạo đi vào hoạt động. Lợi thế này khiến việc giãn cách xã hội trở nên dễ dàng một cách đặc biệt.

Maldives đọc là gì
 Những khu nghỉ dưỡng trên những hòn đảo biệt lập phù hợp với các quy định phòng chống Covid-19 (Ảnh: ESCAPE)

Sự phụ thuộc lớn vào các khu nghỉ dưỡng siêu cao cấp của Maldives cũng khiến cho quốc đảo này dễ dàng xét nghiệm và giãn cách xã hội. Thí dụ, một số khu nghỉ dưỡng cao cấp thực hiện xét nghiệm bổ sung Covid-19 ngay trong khu nghỉ dưỡng. Quy trình này được coi như lớp bảo vệ bổ sung nhằm chống lại sự lây lan của Covid-19.

Ông Thoyyib Mohamed, giám đốc điều hành Maldives Marketing & PR Corporation, cơ quan quản lý du lịch quốc gia của đất nước, cho biết Maldives đã đón tổng số 555.494 du khách trong năm 2020, cao hơn con số dự báo 500.000 người.

“Lợi thế lớn nhất của chúng tôi là địa lý độc đáo của Maldives”, ông Mohamed nói. “Chúng tôi quảng bá điểm đến này như một thiên đường an toàn với  du khách”.

Ông Mohamed cũng nói thêm rằng, việc thực hiện các quy định vệ sinh nghiêm ngặt kết hợp với việc nới lỏng khoảng cách của mọi người trên những hòn đảo khác nhau đã tạo ra sự kết hợp hoàn hảo cho những du khách muốn tránh xa tất cả.

Cơ sở hạ tầng cũng đóng một vai trò quan trọng. Nhiều khu nghỉ dưỡng ở Maldives dịch vụ đưa đón bằng thuyền hoặc máy bay riêng được tích hợp sẵn trong gói nghỉ dưỡng của họ. Do đó, du khách đến đất nước này có thể đến điểm đến cuối cùng mà không gặp phải khách du lịch khác.

Bắt kịp xu hướng

Các quốc gia chung quanh châu Á và Thái Bình Dương vẫn thận trọng hơn trong việc mở lại biên giới so với các nước châu Âu và Bắc Mỹ, điều này đồng nghĩa du khách tại khu vực châu Á và Thái Bình Dương có ít lựa chọn nghỉ dưỡng hơn.

Khi những hòn đảo nghỉ dưỡng nổi tiếng khác của châu Á - Thái Bình Dương như Tahiti, Bali và Phuket vẫn áp dụng các quy định hạn chế, Maldives dã tận dụng lợi thế mà họ có được. Nhiều điểm đến du lịch kể từ khi mở đón khách du lịch trở lại vẫn áp dụng các quy định phòng dịch bắt buộc như Thái Lan, Sri Lanka đều yêu cầu du khách cách ly bắt buộc tại khách sạn trong vòng hai tuần trước khi thực hiện chuyến đi.

Maldives đọc là gì
Các khu nghỉ dưỡng siêu cao cấp của Maldives cung cấp cả các tiện ích để du khách có thể ở lại cả năm và làm việc, học tập từ xa. (Ảnh: ESCAPE) 

Khi mới mở cửa trở lại vào tháng 7, Maldives đã không có bất cứ yêu cầu nào với du khách. Chỉ đến tháng 9, Maldives áp dụng quy định yêu cầu tất cả du khách chứng minh xét nghiệm âm tính với Covid-19 khi đặt chân đến quốc đảo này.

Một điểm đặc biệt trong chính sách du lịch của Maldives là cung cấp các gói nghỉ dưỡng dài ngày, thậm chí cả năm và cả dịch vụ nghỉ dưỡng làm việc từ xa cho du khách.

Jan Tibaldi, Tổng giám đốc của khu nghỉ dưỡng One & Only Reethi Rah, nói với CNN Travel rằng mặc dù họ không có nhiều du khách hơn trong năm 2020 so với năm 2019, nhưng đã có sự gia tăng đáng kể về thời gian lưu trú của lượng du khách này.

“Khách của chúng tôi ít đi du lịch hơn, nhưng lưu trú lâu hơn và có mục đích hơn,” cô Tibaldi cho hay.

Do du khách lưu trú lâu hơn, nên họ cần phải làm việc, học tập từ xa. Nắm bắt điều này, khu nghỉ dưỡng đã cung cấp các điều kiện kỹ thuật số và giá cả hợp lý cho những đối tượng du khách này. Nếu du khách lưu lại Maldives 28 ngày, sẽ có gói ưu đãi bao gồm các bữa ăn, Internet tốc độ cao, các hoạt động chăm sóc sức khỏe và sử dụng câu lạc bộ dành cho trẻ em và có giá từ 42.600 USD cho một gia đình bốn người.

Không dừng lại ở đó, có những khu nghỉ dưỡng như Anantara Veli còn cung cấp gói nghỉ dưỡng một năm nhiều ưu đãi hơn với chỉ phí 30.000 USD. Nhiều khu nghỉ dưỡng cao cấp khác như The Nautilus Maldives còn chào bán gói “kỳ nghỉ làm việc từ xa” có giá từ 23.250 USD trong bảy ngày.

Mặc dù vậy, không phải không có rủi ro với chính sách hút khách du lịch thế giới này của Maldives.

Rất nhiều công dân Maldives làm việc tại các khu lưu trú rơi vào cảnh “mắc kẹt ở thiên đường”, buộc phải ở lại các khu nghỉ dưỡng nơi họ đang làm việc để chăm sóc một số ít du khách.

Cũng có nhân viên khách sạn bị nhiễm Covid-19, phải cách ly trong khu nghỉ dưỡng bị phong tỏa hoàn toàn để ngăn chặn Covid-19 lan rộng.

Tính tới tháng 2-2021, đảo quốc Ấn Độ dương này ghi nhận 17.828 ca Covid-19 và 58 ca tử vong do Covid-19.

Tuy nhiên, những rủi ro này vẫn không ngăn được câu chuyện du lịch thành công của “thiên đường nghỉ dưỡng” Maldives.

Maldives (phát âm tiếng Anh:/ˈmɔlˌdaɪvz/ hay phát âm tiếng Anh:/ˈmɔlˌdivz/, tiếng Dhivehi: ދިވެހިރާއްޖެ Dhivehi Raa’jey, phiên âm tiếng Việt thường dùng là “Man-đi-vơ” theo âm của tiếng Pháp), tên chính thức là Cộng hòa Maldives, là một đảo quốc ở Nam Á gồm nhóm các đảo san hô tại Ấn Độ Dương. Maldives nằm ở phía nam quần đảo Lakshadweep thuộc Ấn Độ, và cách khoảng 700 kilomet (435 mi) phía tây nam Sri Lanka. Hai mươi sáu đảo san hô của Maldives bao vòng quanh một lãnh thổ gồm 1.192 đảo nhỏ, khoảng hai trăm đảo trong số này có các cộng đồng địa phương sinh sống.

Cái tên “Maldives” xuất phát từ Maale Dhivehi Raajje (“Vương quốc đảo [dưới sự cai trị của] Malé”)”.[7] Một số học giả tin rằng cái tên “Maldives” xuất phát từ từ maladvipa trong tiếng Phạn, có nghĩa “vòng đảo”, hay từ mahila dvipa, có nghĩa “đảo của phụ nữ”, những tên này không xuất hiện trong văn học Phạn cổ. Thay vào đó, các văn bản tiếng Phạn cổ có đề cập tới “Trăm nghìn hòn đảo” (Lakshadweep); một cái tên chung có thể không chỉ bao gồm Maldives, mà cả Laccadives và nhóm đảo Chagos. Một số lữ khách người Ả Rập thời Trung Cổ như Ibn Batuta đã gọi các đảo là “Mahal Dibiyat” từ từ Mahal (“cung điện”) trong tiếng Ả Rập”[8]. Đây là cái tên hiện được viết trong cuộn giấy biểu tượng quốc gia của Maldives.

Các công dân là Fan Hâm mộ Phật giáo, hoàn toàn có thể từ thời Ashoka, ở thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Đạo Hồi được đưa vào năm 1153. Maldives sau đó rơi vào vùng ảnh hưởng tác động của người Bồ Đào Nha ( 1558 ) và những đế chế trên biển của Hà Lan ( 1654 ). Và vào năm 1887 nó trở thành một vùng bảo lãnh của Anh. Năm 1965, Maldives giành được độc lập từ Anh Quốc ( bắt đầu với cái tên ” Quần đảo Maldives ” ), và vào năm 1968 chính thể Vương quốc Sultan được thay thế sửa chữa bằng một nền Cộng hòa. Tuy nhiên, trong ba mươi tám năm, Maldives chỉ có hai Tổng thống, dù những số lượng giới hạn chính trị đã được thả lỏng một chút ít gần đây .

Maldives là quốc gia ít dân nhất Châu Á. Đây cũng là quốc gia Hồi giáo đa số nhỏ nhất thế giới. Diện tích Quần đảo Maldives đang bị thu hẹp dần do biến đổi khí hậu.

Bạn đang đọc: Maldives – Wikipedia tiếng Việt

Những cuộc điều tra và nghiên cứu so sánh về khẩu ngữ truyền thống cuội nguồn Maldives cho thấy năng lực những người định cư tiên phong tại đây là người Dravidia đến từ những bờ biển gần nhất, có lẽ rằng là những ngư dân từ những vùng biển phía tây nam Tiểu lục địa Ấn Độ và những bờ biển phía tây Sri Lanka. ( Những người dân tiên phong của Maldives phải tới đây từ nhiều thiên niên kỷ trước, vì không hề có một thần thoại cổ xưa thực sự tương quan tới việc định cư trên những hòn hòn đảo. )

Maldives đọc là gì
Maldives được tạo thành từ dãy 1192 hòn đảo sinh vật biển nhỏ nằm gộp thành những cụm hòn đảo sinh vật biển vòngPhật giáo đã Open tại Maldives từ thời kỳ mở mang chủ quyền lãnh thổ của Hoàng đế Ashoka và trở thành tôn giáo chủ chốt của người dân Maldives cho tới tận thế kỷ thứ XII Công Nguyên .

Phương Tây quan tâm tới những tàn tích khảo cổ của những nền văn hóa thời kỳ sớm tại Maldives bắt đầu từ H.C.P. Bell, một vị uỷ viên hội đồng Anh thuộc Ceylon Civil Service. Bell bị đắm tàu dạt vào quần đảo năm 1879, và đã quay trở lại đây tìm hiểu các di tích Phật giáo cổ. Ông đã nghiên cứu những ụ đất cổ, được gọi là havitta hay ustubu (những tên này xuất phát từ từ chaitiya hay tháp) (tiếng Dhivehi: ހަވިއްތަ) trong tiếng Maldives, có mặt trên nhiều hòn đảo.

Dù Bell quả quyết rằng người Maldives cổ theo Phật giáo Nguyên Thủy, nhiều tàn tích khảo cổ học Phật giáo địa phương hiện còn ở Bảo tàng Malé thực tiễn lại là hình tượng Đại thừa và Vajrayana .Theo truyền thuyết thần thoại trong Văn học dân gian Maldives, một hoàng tử tên là Koimala từ Ấn Độ hay Sri Lanka đã tới Maldives từ miền Bắc ( Ihavandhu ) và trở thành vị vua tiên phong từ Nhà Theemuge. Trước đó Maldives đã có dân cư sinh sống là những người có nguồn gốc Dravidian từ những bờ biển gần đó, như nhóm người hiện được gọi là Giravaaru họ cho rằng có tổ tiên là những người Tamil cổ. Dường như người Giraavaru không phải là những người duy nhất từng định cư tại Maldives. Điều quan trọng từ sự xuất hiện của họ bởi họ đã được đề cập tới trong truyền thuyết thần thoại về sự xây dựng Thành Phố Hà Nội và đã từng xưng vương tại Malé. Người Giraavaru chỉ là một trong những hội đồng sống tại đây từ trước khi có sự Open của Phật giáo và sự Open của Vương triều Bắc cũng như sự xây dựng một chính thể tập trung chuyên sâu cùng những định chế hành chính .Các vị vua Maldives thời trước đã truyền bá Phật giáo và những văn bản cùng những thành tựu thẩm mỹ và nghệ thuật tiên phong của Maldives đã là những khu công trình kiến trúc và nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc tăng trưởng cao từ thời kỳ đó. Việc cải sang Đạo Hồi đã được đề cập tới trong những chỉ dụ cổ được viết trên những tấm đĩa đồng từ cuối thế kỷ XII Công Nguyên. Cũng có một lịch sử một thời nổi tiếng trên hòn hòn đảo về một vị thánh ngoại lai ( Ba Tư hay Marốc theo từng phiên bản khác nhau ) người đã chinh phục một con quỷ tên là Rannamaari .Qua nhiều thế kỷ, hòn hòn đảo này đã được nhiều người đặt chân tới và sự tăng trưởng của nó đã bị ảnh hưởng tác động từ những thuỷ thủ và những nhà buôn từ những nước thuộc vùng Biển Ả Rập và Vịnh Bengal. Cho tới những thời hạn gần đây, những tên cướp biển Mappila từ Bờ biển Malabar – bang Kerala lúc bấy giờ ở Ấn Độ – đã luôn cướp phá quần đảo .Dù được quản lý như một vương quốc Hồi giáo độc lập từ năm 1153 tới năm 1968, Maldives đã là vùng bảo lãnh của Anh từ năm 1887 cho tới ngày 25 tháng 7 năm 1965. Năm 1953, đã có một nỗ lực sớm chết yểu nhằm mục đích xây dựng một nền cộng hòa, nhưng sau cuối chính thể vương quốc được tái lập. Năm 1959, để phản đối chủ nghĩa tập trung chuyên sâu TW của Nasir, người dân trên ba hòn hòn đảo xa nhất phía nam đã nổi lên chống chính phủ nước nhà. Họ đã xây dựng nước Cộng hòa Suvadive Thống nhất và bầu Abdullah Afeef lên làm tổng thống, lựa chọn Hithadhoo là TP. hà Nội của nhà nước cộng hòa .

Sau khi giành được độc lập từ Anh năm 1965, chính thể vương quốc tiếp tục hoạt động trong ba năm tiếp theo dưới sự cai trị của Vua Muhammad Fareed. Ngày 11 tháng 11 năm 1968, vương triều bị xoá bỏ và thay thế bằng chính thể cộng hòa, dù đây là sự thay đổi địa phương không dẫn tới những thay đổi lớn khác trong các cơ cấu chính phủ. Tên chính thức của đất nước được đổi từ Quần đảo Maldive thành Maldives theo hướng cải cách. Du lịch bắt đầu phát triển trên quần đảo này trong khoảng năm năm sau đó, từ đầu thập niên 1970.

Tháng 11 năm 1988, một nhóm người Maldives do Mr. Lutfee lãnh đạo đã sử dụng một nhóm người Tamil vụ lợi từ Sri Lanka tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Gayyoom. Sau khi chính phủ Maldives lên tiếng yêu cầu được giúp đỡ, quân đội Ấn Độ đã can thiệp chống lại những kẻ hám lợi này nhằm tái lập quyền lực cho Gayyoom. Trong đêm ngày 3 tháng 11 năm 1988, Không quân Ấn Độ đã đưa một tiểu đoàn lính dù trực tiếp từ Agra vượt khoảng cách hơn 2.000 kilômét (1.240 dặm) tới Maldives. Lính dù Ấn Độ đổ bộ xuống Hulule và chiếm sân bay cũng như tái lập quyền lực chính phủ tại Malé trong vòng vài giờ. Chiến dịch ngắn, không đổ máu này được gọi là Chiến dịch Cactus, cũng có sự tham gia của Hải quân Ấn Độ.

Ngày 26 tháng 12 năm 2004, Maldives đã bị tàn phá bởi một trận sóng thần sau trận Động đất Ấn Độ Dương năm 2004. Chỉ chín hòn đảo thoát khỏi cơn sóng thần này[cần dẫn nguồn], trong khi năm mươi bảy hòn đảo phải chịu những thiệt hại nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, mười bốn hòn đảo phải sơ tán hoàn toàn, và sáu hòn đảo thiệt hại một phần mười nhân mạng. Hai mươi mốt hòn đảo du lịch khác bị buộc phải đóng cửa vì những thiệt hại vật chất. Tổng thiệt hại ước tính hơn 400 triệu dollar hay khoảng 62% GDP. Tổng cộng 108 người, gồm cả sáu người nước ngoài, được thông báo đã thiệt mạng trong cơn sóng thần. Hiệu ứng phá hoại của những cơn sóng với những hòn đảo thấp bởi người dân ở đây không có những khu đất cao để có thể lên lánh nạn trước những cơn sóng dữ. Những con sóng cao nhất lên tới 14 feet.

Maldives đọc là gì
Khu chợ đặc trưng MaldivesThời cổ Maldives nổi tiếng về tiền vỏ ốc, xơ dừa, cá ngừ khô ( Cá Maldive ), long diên hương ( Maavaharu ) và những loại sản phẩm coco de mer ( Tavakkaashi ). Những con tàu buôn trong nước và quốc tế thường chất hàng tại Maldives và đưa chúng tới những bến cảng ở Ấn Độ Dương .Ngày nay du lịch và đánh cá là hai yếu tố then chốt của nền kinh tế tài chính Maldives. Các nghành vận tải biển, ngân hàng nhà nước và chế tạng đang tăng trưởng ở vận tốc khá cao. Trong số những vương quốc Nam Á, Maldives có mức GDP trên đầu người đứng thứ hai ở mức 3.900 USD ( số liệu năm 2002 ). Các đối tác chiến lược thương mại chính gồm Ấn Độ, Sri Lanka, Thailand, Malaysia và Nước Singapore. [ 9 ]Maldives có điều kiện kèm theo địa lý độc đáo để tăng trưởng mạnh ngành công nghiệp du lịch ; tài nguyên biển ( sinh vật biển và tài nguyên, hydrocarbon đáy biển ). Mặt khác, nền kinh tế tài chính Maldives có nhiều hạn chế do nước này có nhiều hòn đảo nhỏ, ( chỉ một vài hòn đảo rộng hơn 1 km² và cao hơn mặt biển 1.5 – 2 m ) ; những hòn đảo nằm rải rác, rất ít tài nguyên vạn vật thiên nhiên đất ( hầu hết là núi đá vôi thấp, rừng ít, 1 số ít đồi núi hoàn toàn có thể trồng cao su đặc, chè, cafe ), không có sông, nước ngọt hiếm, đồng bằng chiếm 5 %, thích hợp trồng dừa, lúa, mía, rau .Từ 1978, Maldives thi hành kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính vững chắc, chú trọng Open kinh tế tài chính và góp vốn đầu tư vào những ngành có năng lực cạnh tranh đối đầu như đánh cá, du lịch, đóng tàu. Đồng Rufiyaa quy đổi tự do với những ngoại tệ. Nhờ đó, Maldives duy trì vận tốc tăng trưởng cao ở khu vực, lôi cuốn nhiều hỗ trợ vốn quốc tế để bù đắp cho thiếu vắng tài nguyên vạn vật thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế tài chính. Ngành kinh tế tài chính lớn nhất là du lịch, chiến 20 % GDP và hơn 60 % trao đổi ngoại hối của Maldives. Hơn 90 % thuế là những khoản thuế nhập khẩu và du lịch. Ngành lớn thứ hai là đánh cá. Nông nghiệp và sản xuất chiếm tỉ lệ nhỏ 5,6 %. Ngành công nghiệp hầu hết là sản xuất may mặc, đóng tàu thuyền, và thủ công bằng tay mỹ nghệ chiếm 16,9 % GDP .Tính đến năm năm nay, GDP trên đầu người của Maldives đạt 3.270 USD, đứng thứ 160 quốc tế, đứng thứ 42 châu Á và đứng thứ 7 Nam Á .

Đánh bắt món ăn hải sản[sửa|sửa mã nguồn]

Kinh tế Maldives nhờ vào trọn vẹn vào đánh cá và những mẫu sản phẩm biển và du lịch từ nhiều thế kỷ nay. Đánh cá vẫn là nghề chính của người nhân và cơ quan chính phủ khuyễn mãi thêm đặc biệt quan trọng cho sự tăng trưởng nghành này .Việc thương mại hóa con tàu đánh cá truyền thống lịch sử được gọi là ” Dhoni ” năm 1974 là một cột mốc chính lưu lại sự tăng trưởng của công nghiệp đánh cá và nền kinh tế tài chính quốc gia nói chung. Một nhà máy sản xuất cá đóng hộp đã được kiến thiết xây dựng trên hòn đảo Felivaru năm 1977, liên kết kinh doanh với một công ty của Nhật Bản. Năm 1979, một Ban Tư vấn Đánh cá được xây dựng với vai trò cố vấn cho chính phủ nước nhà về chủ trương cho sự tăng trưởng của nghành nghề dịch vụ đánh cá. Các chương trình tăng trưởng nguồn nhân lực đã được khởi đầu từ đầu thập niên 1980, và việc giáo dục đánh cá đã được tích hợp vào trong chương trình giảng dạy của nhà trường. Các thiết bị phối hợp và trợ giúp hoa tiêu đã được thiết lập ở nhiều khu vực kế hoạch. Hơn nữa, việc khai trương mở bán Vùng kinh tế tài chính đặc biệt quan trọng ( EEZ ) của Maldives dành cho ngành đánh cá càng làm tăng vận tốc tăng trưởng của khu vực này. Ngày nay, đánh cá chiếm mười lăm Xác Suất GDP và sử dụng khoảng chừng ba mươi Xác Suất nguồn nhân lực. Đây cũng là nghành nghề dịch vụ mang lại nguồn ngoại tệ quốc tế lớn thứ hai sau du lịch .

Công nghiệp bông[sửa|sửa mã nguồn]

Sự tăng trưởng nghành du lịch đã khiến những ngành công nghiệp truyền thống cuội nguồn của quốc gia như dệt thảm, đồ gỗ sơn, đồ mỹ nghệ, và tết sợi giảm tầm quan trọng. Các ngành công nghiệp mới Open gồm in, sản xuất ống PVC, gạch, sửa chữa thay thế động cơ thuỷ, nước đóng chai, và dệt may .

Maldives đọc là gì
Văn phòng Tổng thống tại Malé
Maldives đọc là gì
Muleeaage ( Phủ Tổng thống Cũ tại Malé )Chính trị Maldives hoạt động giải trí theo khuôn khổ một nền cộng hòa tổng thống, theo đó Tổng thống là người đứng đầu cơ quan chính phủ. Tổng thống chỉ huy nhánh hành pháp và chỉ định nội những. Tổng thống được Majlis ( nghị viện ) bỏ phiếu kín bầu ra với nhiệm kỳ năm năm, hành vi này sẽ được xác nhận bởi một cuộc trưng cầu dân ý vương quốc .Majlis lưỡng viện của Maldives gồm năm mươi thành viên với nhiệm kỳ năm năm. Hai thành viên từ mỗi hòn hòn đảo được bầu trực tiếp theo đại trà phổ thông đầu phiếu. Tám thành viên do tổng thống chỉ định, đây là con đường chính để phụ nữ hoàn toàn có thể tham gia nghị viện. Lần tiên phong trong lịch sử vẻ vang vương quốc này có những đảng chính trị vào tháng 7 năm 2005, sáu tháng sau cuộc bầu cử nghị viện gần đây nhất. Gần ba mươi sáu thành viên của nghị viện hiện tại đã gia nhập Đảng Dhivehi Raiyyathunge ( Đảng Nhân dân Maldives ) và bầu Tổng thống Gayoom làm lãnh tụ của đảng. Mười hai thành viên nghị viện trở thành phe Đối lập và gia nhập Đảng Dân chủ Maldives. Hai thành viên khác không tham gia đảng phái. Tháng 3 năm 2006, Tổng thống Gayoom đã đưa ra lộ trình chi tiết cụ thể cho một Chương trình Cải cách, hoạch định những mốc thời hạn cho một Hiến pháp mời, và hiện đại hóa cơ cấu tổ chức pháp lý. Theo lộ trình này, cơ quan chính phủ đã đệ trình lên Nghị viện một bản thảo những giải pháp cải cách. Phần quan trọng nhất trong hoạt động giải trí pháp lý là việc Sửa đổi Đạo luật Ủy ban Nhân quyền, khiến cơ quan này tương hợp trọn vẹn với Các Nguyên tắc Paris .Năm mươi thành viên nghị viện tham gia cùng một cơ quan gồm năm mươi người khác từ những thành viên lập pháp và Nội các để hình thành nên Hội đồng Hiến pháp, đây là một ý tưởng sáng tạo của Tổng thống nhằm mục đích đưa ra một hiến pháp dân chủ tự do văn minh cho Maldives. Hội đồng đã khởi đầu hoạt động giải trí từ tháng 7 năm 2004, và đã bị rất nhiều người chỉ trích vì hoạt động giải trí lờ đờ. nhà nước và phe Đối lập đã lên án lẫn nhau về những sự chậm trễ này, nhưng những nhà quan sát độc lập cho rằng sự chậm trễ là do những truyền thống lịch sử còn yếu kém của nghị viện, những thành viên nghị viện ít có tính kỷ luật ( không một đại biểu nào được bầu với tư cách đại diện thay mặt cho một đảng ), và những can thiệp liên miên vào quy trình này. Quá trình này đã bị chậm trễ vì sự cam kết của đảng chính trị trái chiều chính, Đảng Dân chủ Maldives, sẽ hạ bệ Tổng thống Gayoom bằng hành động trực tiếp trước khi lộ trình cải cách được vận dụng, dẫn tới thực trạng không ổn định dân sự vào tháng 7-8 năm 2004, tháng 8 năm 2005 và một cuộc cách mạng sớm chết yểu vào tháng 11 năm 2006. Đáng quan tâm, chỉ huy của Đảng Dân chủ Maldives, Ibrahim Ismail ( đại biểu đại diện thay mặt cho khu vực bầu cử lớn nhất nước – Malé ) đã từ bỏ chức vụ trong đảng vào tháng 4 năm 2005 sau khi thất bại sít sao trước Dr. Mohammed Waheed Hassan chỉ vài tháng trước đó. Cuối cùng ông rời Đảng Dân chủ Maldives vào tháng 11 năm 2006 để bày tỏ sự không khoan nhượng của ông so với Ủy ban Hành pháp Quốc gia. nhà nước đã nhu yếu sự xuất hiện của một Đặc phái viên Đặc biệt của Khối thịnh vượng chung là Tun Musa Hitam để thôi thúc sự đối thoại giữa tổng thể những đảng phái, và khi Đảng Dân chủ Maldives tẩy chay ông ta, nhu yếu sự tham gia của Cao uỷ Anh vào quy trình đối thoại. Quá trình sau đó của Westminster House đã mang lại một số ít tân tiến nhưng đã bị huỷ bỏ khi Đảng Dân chủ Maldives lôi kéo cuộc cách mạng tháng 11 .Lộ trình lao lý thời hạn sau cuối ngày 31 tháng 5 năm 2007 cho Hội đồng kết thúc việc làm của mình và dọn đường cho một cuộc bầu cử đa đảng phái tiên phong trong nước vào tháng 10 năm 2008 .Ngày 19 tháng 6 năm 2006, Hội đồng đã bỏ phiếu trải qua việc tổ chức triển khai một cuộc trưng cầu dân ý nhằm mục đích quyết định hành động hình thức của cơ quan chính phủ theo hiến pháp mới .

Cơ cấu chính trị của Maldives về thực tế đã không thay đổi trong hàng thế kỷ. Dù đã có sự chuyển dời từ chế độ Quân chủ sang Cộng hòa, cơ cấu chính trị hiện tại cho thấy sự tiếp nối rõ ràng giữa quá khứ quân chủ theo đó quyền lực được phân chia giữa một số ít các gia đình ở tầng lớp cao nhất của cơ cấu xã hội. Ở một số hòn đảo, các văn phòng luôn thuộc về một gia đình trong nhiều thế hệ. Làng xã được cai quản bởi một nhân viên hành chính được gọi là Katību, người này đóng vai trò thủ lĩnh hành pháp trên hòn đảo. Trên Katībus của tất cả các hòn đảo là Atholhu Veriyaa (Chúa đảo). Quyền lực của các vị lãnh chúa địa phương này rất giới hạn và họ cũng có ít trách nhiệm. Họ được huấn luyện để thông báo với chính phủ về tình hình trên các hòn đảo của mình và đơn giản chờ đợi các huấn lệnh từ cơ quan quyền lực trung ương rồi tuân thủ chúng.[10]

Chính thể Cộng hoà.

Các đảng chính trị

Các đảng phái mới được được cho phép ĐK hoạt động giải trí từ tháng 6 năm 2005, gồm có :

  • Đảng Nhân dân Maldives (Dhivehi Rayyithunge Party – DRP), đảng cầm quyền hiện nay.
  • Đảng Dân chủ Maldives (Maldivian Democratic Party – MDP): đảng đối lập lớn nhất hiện nay.
  • Đảng Công lý (Adhaalath Party – AP)
  • Đảng Dân chủ Hồi giáo (Islamic Democratic Party – IDP)

Maldives theo đuổi chính sách đối ngoại hoà bình, không liên kết, phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước.




Xem thêm: Bản đồ Hành chính tỉnh Kiên Giang & Thông tin quy hoạch 2022

Maldives là thành viên Liên Hiệp Quốc, Phong trào không link, WTO, Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, SAARC và nhiều tổ chức triển khai quốc tế và khu vực khác .Maldives duy trì quan hệ thân thiện với những nước trong khu vực Nam Á, tích cực thôi thúc hợp tác SAARC .Gần đây, Tổng thống Gayoom tích cực lan rộng ra hợp tác với bên ngoài để nâng cao vị thế quốc gia và lôi cuốn viện trợ và vốn, tăng cường quan hệ với 1 số ít nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, củng cố và tăng cường quan hệ với những nước Hồi giáo Ả Rập, tích cực tham gia những forum quốc tế như Liên Hiệp Quốc …
Al Ustaz Mohamed Rasheed Ibrahim từ Fuvahmulah là chỉ huy hiện tại của ngành tư pháp Maldives. Tất cả thẩm phán tại Maldives được tổng thống chỉ định. Luật Hồi giáo là cơ bản cho mọi quyết định hành động tư pháp .Maldives, với sự hợp tác của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ), đã thực thi soạn thảo bộ luật hình sự Hồi giáo tiên phong trên quốc tế. Dự án này sẽ tiêu chuẩn hóa quy trình xét xử hình sự tại tiểu quốc này trở thành một trong những bộ luật hình sự hiện đại toàn diện nhất trên quốc tế. Bộ luật đã được soạn thảo và đang chờ được nghị viện trải qua .

Maldives và Hội đồng Ấn Độ Dương[sửa|sửa mã nguồn]

Maldives đọc là gì
Hình vệ tinh về Maldives của NASA. Lưu ý Đảo sinh vật biển phía cực nam Maldives, Addu Atoll, không thấy được trên hình .Từ năm 1996, Maldives đã trở thành quan sát viên chính thức của Hội đồng Ấn Độ Dương. Từ năm 2002, Maldives đã bộc lộ mong ước được thao tác trong Hội đồng nhưng vẫn chưa đề xuất được cấp quy định thành viên. Sự chăm sóc của Maldives tương quan tới trong thực tiễn đây là một đảo quốc nhỏ, đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ với những yếu tố như tăng trưởng kinh tế tài chính và bảo vệ thiên nhiên và môi trường, và mong ước của họ có được mối quan hệ thân thương với Pháp, một yếu tố quan trọng trong vùng IOC. Maldives là thành viên sáng lập của Thương Hội Hợp tác cấp Vùng Nam Á, SAARC, và cựu thành viên bảo lãnh của Anh Quốc, đã gia nhập Khối thịnh vượng chung năm 1982, khoảng chừng 17 năm sau khi giành được độc lập từ Anh. Maldives có những mối quan hệ thân thiện với Seychelles và Mauritius, giống như Maldives đây cũng là những thành viên của Khối thịnh vượng chung. Maldives và Comoros đều là những thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo. Maldives đã phủ nhận tham gia vào bất kể cuộc đàm phán nào với Mauritius việc phân loại ranh giới trên biển giữa Maldives và Lãnh thổ Hải ngoại Ấn Độ Anh, cho rằng theo lao lý quốc tế, chủ quyền lãnh thổ của Quần đảo Chagos thuộc Anh Quốc, và họ đã khởi đầu đàm phán với vương quốc này từ năm 1991 .

Phân chia hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Maldives có hai mươi sáu hòn đảo sinh vật biển tự nhiên, được chia thành hai mươi mốt khu vực hành chính ( hai mươi hòn đảo sinh vật biển hành chính và thành phố Malé ). [ 1 ]Ngoài một cái tên, mỗi khu vực hành chính được xác lập bởi những con chữ mã của Maldives, như ” Haa Alif ” cho Thiladhunmati Uthuruburi ( Thiladhunmathi Bắc ) ; và bằng một chữ mã Latinh .Chữ tiên phong tương ứng với tên địa lý của Maldives cho hòn đảo sinh vật biển. Chữ thứ hai là một mã thích hợp. Nó được sử dụng nhằm mục đích làm cho việc liên lạc viễn thông giữa những hòn đảo sinh vật biển và cơ quan hành chính TW thuận tiện hơn. Bởi có một số ít hòn đảo ở những hòn đảo sinh vật biển có tên giống nhau, vì mục tiêu hành chính mã này sẽ được nhắc tới ở phía trước tên hòn đảo, ví dụ : Baa Funadhoo, Kaafu Funadhoo, Gaafu-Alifu Funadhoo. Bởi đa phần hòn đảo sinh vật biển đều có cái tên địa lý rất dài, nó cũng được dùng bất kỳ khi nào người ta muốn có một cái tên ngắn hơn, ví dụ trong những cái tên website của hòn đảo sinh vật biển. [ 11 ]Việc đặt tên mã khiến những người quốc tế gặp nhiều khó khăn vất vả, bởi họ không hiểu mục tiêu sử dụng của những cái tên đó và đã quên mất tên thực bằng tiếng Maldives trong những cuốn sách du lịch. [ 12 ] Người Maldives hoàn toàn có thể sử dụng tên chữ mã trong tiếp xúc hàng ngày, nhưng trong những văn bản địa lý, lịch sử vẻ vang hay văn hóa truyền thống quan trọng, cái tên thực luôn được nhắc tới tiên phong. Chữ tên mã tiếng Latinh thường thì được dùng trên những bảng tên tàu. Chữ đại diện thay mặt cho hòn đảo sinh vật biển và tên cho hòn hòn đảo .

Mỗi đảo san hô nằm dưới quyền quản lý của một Chúa đảo (Atholhu Veriyaa) do Tổng thống chỉ định. Bộ Quản lý Đảo san hô và các Văn phòng Miền bắc và Miền nam, Các Văn phòng Đảo san hô và Các Văn phòng Đảo chịu trách nhiệm trước Tổng thống về việc Quản lý Các Đảo San hô. Lãnh đạo hành chính của mỗi đảo là Đảo trưởng (Katheeb), do Tổng thống chỉ định. Đảo trưởng thuộc quyền quản lý của Chúa đảo.

Việc sử dụng những cái tên mã chữ đã là nguyên do gây ra nhiều sự hiểu nhầm và lẫn lộn, đặc biệt quan trọng với người quốc tế. Nhiều người đã cho rằng chữ tên mã hành chính của hòn đảo sinh vật biển là tên mới của nó và đã thay thế sửa chữa cho tên địa lý. Trong trường hợp như vậy rất khó để biết cái tên thực được sử dụng là tên nào. [ 11 ]

Maldives đọc là gì
Dãy đá ngầm MaldivesMaldives giữ kỷ lục là vương quốc phẳng nhất quốc tế, với độ cao trung bình tự nhiên của chủ quyền lãnh thổ chỉ là 2.3 m ( 7 ½ ft ), dù ở những nơi có những khu công trình dây dựng mức này cao hơn vài mét. Trong thế kỷ qua, mực nước biển đã tăng khoảng chừng hai mươi centimét ( 8 in ). Đại dương có vẻ như đang liên tục tăng cao và điều này đe doạ sự sống sót của Maldives .Các biểu đồ biển đúng chuẩn tiên phong của nhóm phức tạp những hòn đảo sinh vật biển trên Ấn Độ Dương là British Admiralty Charts. Năm 1834 – 36 Thuyền trưởng Robert Moresby, với sự tương hỗ của Trung uý Christopher và Young, đã triển khai việc lập bản đồ đầy khó khăn vất vả cho Quần đảo Maldives. Các biểu đồ có được đã được in thành ba bản đồ lớn riêng không liên quan gì đến nhau bởi Hydrographic Service của Hải quân Hoàng gia .Một trận sóng thần tại Ấn Độ Dương đã gây ra một trận Động đất Ấn Độ Dương năm 2004 khiến nhiều vùng của Maldives bị tràn ngập làm nhiều người mất nhà cửa. Sau thảm hoạ, những nhà bản đồ học đang có dự án Bất Động Sản vẽ lại những bản đồ quần đảo sau những sự đổi khác do cơn sóng thần .
Bản sắc dân tộc bản địa Maldives là sự trộn lẫn giữa những nền văn hóa truyền thống phản ánh sự xuất hiện của những dân tộc bản địa trên quần đảo này, được tăng cường thêm bởi tôn giáo và ngôn từ. Những người định cư sớm nhất hoàn toàn có thể tới từ miền nam Ấn Độ và Sri Lanka .Một số sự phân tầng xã hội sống sót trên quần đảo. Sự phân tầng này không khắc nghiệt bởi thứ bậc xã hội được dựa trên nhiều yếu tố, gồm cả nghề nghiệp, gia tài, đức hạnh Hồi giáo, những mối quan hệ mái ấm gia đình. Theo truyền thống lịch sử, thay vì một mạng lưới hệ thống quý phái phức tạp, như kiểu Vedic, chỉ có một sự phân biệt đơn thuần giữa quý tộc ( bēfulhu ) và người dân thường Maldives. Các thành viên của xã hội thượng lưu tập trung chuyên sâu tại Malé. Ngoài ngành công nghiệp dịch vụ, đây là nơi duy nhất người quốc tế và người địa phương có vẻ như có sự tương tác với nhau. Các khu du lịch không nằm trên những hòn hòn đảo có dân bản địa sinh sống, và những liên hệ không liên tục giữa hai nhóm không được khuyến khích .Một cuộc tìm hiểu dân số từ năm 1905, cho thấy dân số nước này vào khoảng chừng 100.000 trong vòng 70 năm tiên phong của thế kỷ trước. Sau khi giành được độc lập năm 1965, thực trạng sức khỏe thể chất của dân cư đã được cải tổ nhiều nên dân số đã tăng gấp đôi vào năm 1978, và tỷ suất tăng trưởng dân số lên tới cực điểm ở mức 3.4 % năm 1985. Ở thời gian năm 2005, dân số đã lên tới 300.000, dù cuộc tìm hiểu dân số năm 2000 cho thấy tỷ suất tăng trưởng dân số đã sụt xuống còn 1.9 %. Tuổi thọ trung bình ở mức 46 tuổi năm 1978, hiện đã tăng lên 72 tuổi. Tỷ lệ tử trận trẻ nhỏ đã sụt từ 127 trên 1000 năm 1977 còn 12 thời nay, và tỷ suất biết chữ ở người lớn đạt 99 %. Số người tới trường đạt ở mức cao trên 90 % .Maldives là một trong những nước có tỷ suất sinh cao nhất quốc tế. Kết quả nhiều hòn hòn đảo đã phải đương đầu với nạn dân đông và nhiều nơi toàn là nhà ở. Vì thế nước này đang ngày càng mất năng lực tự cung tự túc tự cấp. [ 10 ]Tới tháng 7 năm 2006, hơn 50.000 người quốc tế đang sống và thao tác tại đây. Họ hầu hết là những người tới từ những quốc gia Nam Á gần đó như Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh và Nepal .

Ngôn ngữ và văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Văn hóa Maldives nguồn gốc từ 1 số ít nguồn, quan trọng nhất là những nét tương đương của nó với những nền văn hóa truyền thống ven những bờ biển Sri Lanka và nam Ấn Độ. Vì thế, theo quan điểm quả đât học, dân cư hầu hết là sự lai tạp Indo-Aryan, Dravidian và Semitic .Ngôn ngữ chính thức và đại trà phổ thông là Dhivehi, một ngôn từ Indo-European có một số ít điểm tương đương với Elu, ngôn từ Sinhalese cổ. Ký tự viết lúc bấy giờ được gọi là Thaana và được viết từ phải sang trái. Tiếng Anh được sử dụng thoáng đãng trong thương mại và dần trở thành một ngôn từ trung gian trong giảng dạy tại những trường học của chính phủ nước nhà .Ngôn ngữ có nguồn gốc Ấn-Iran Sanskritic, cho thấy một tác động ảnh hưởng muộn từ phía bắc tiểu lục địa. Theo những thần thoại cổ xưa, triều đại vua quản lý vùng đất này trong quá khứ có nguồn gốc tại đó .Có lẽ những vị vua cổ đại đó đã đưa Phật giáo tới từ tiểu lục địa, nhưng những truyền thuyết thần thoại Maldives không lý giải rõ việc này. Tại Sri Lanka cũng có những thần thoại cổ xưa tương đương, tuy nhiên có lẽ rằng những vương triều Maldives cổ và Phật giáo đều có từ hòn hòn đảo đó bởi không một biên niên sử nào của Sri Lanka đề cập tới Maldives. Có lẽ những biên niên sử cổ của Sri Lanka đã phải đề cập tới Maldives nếu một nhánh vương triều của họ đã lan rộng ra tới Quần đảo Maldives. [ 13 ]Sau quy trình tiến độ lịch sử vẻ vang Phật giáo lâu dài hơn [ 2 ] Lưu trữ 2008 – 03-15 tại Wayback Machine, người dân Maldives đã cải theo phái Hồi giáo Sunni vào giữa thế kỷ XII. Hồi giáo là tôn giáo chính thức của hàng loạt dân cư, vì những công dân bị buộc phải gia nhập đạo này .Từ thế kỷ XII Công Nguyên cũng có những tác động ảnh hưởng tới từ Ả Rập trong cả ngôn từ và văn hóa truyền thống Maldives bởi sự cải đạo sang Đạo Hồi trong thế kỷ này, và vị trí thân mật của nó trên ngã tư đường miền trung Ấn Độ Dương .Trong văn hóa truyền thống của hòn hòn đảo có 1 số ít yếu tố có nguồn gốc Châu Phi cũng như từ những nô lệ được mái ấm gia đình hoàng gia và những quý tộc đưa về sau những chuyến hành hương tới Ả Rập trong quá khứ. Có những hòn hòn đảo như Feridhu và Maalhos tại Bắc Đảo sinh vật biển Ari, và Goidhu tại Nam Đảo sinh vật biển Maalhosmadulhu nơi nhiều dân cư có nguồn gốc từ những nô lệ châu Phi đã được giải phóng. [ 14 ]

Maldives đọc là gì
Thudufushi, trước đây là một trong những hòn đảo không có người ở thuộc quần đảo Maldives, được phát triển thành một khu nghỉ mát 4 sao từ năm 1990Sự tăng trưởng du lịch đã tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho sự tăng trưởng tổng thể và toàn diện nền kinh tế tài chính quốc gia. Ngành này đã giúp việc sử dụng trực tiếp và gián tiếp nguồn nhân lực cũng như tạo ra những thời cơ thu nhập trong những ngành công nghiệp tương quan khác. Ngày nay, du lịch là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho quốc gia, góp phần 20 % GDP. Với tám mươi bảy khu du lịch đang hoạt động giải trí, năm 2006 467.154 hành khách đã tới đây .

Tôn giáo tại Maldives (2010)[15]
Hồi giáo 98.4%
Khác

Xem thêm: Bản đồ các tỉnh miền Đông Nam Bộ Việt Nam khổ lớn 2022

1.6%

Trong một thời hạn dài của quy trình tiến độ lịch sử vẻ vang Maldives, Phật giáo được xem là quốc giáo. [ 16 ] Đến thế kỷ XII những thương nhân Hồi giáo đã mang đến nước này Hồi giáo Sunni. Maldives cải sang đạo Hồi giữa thế kỷ XII. Hiện nay Hồi giáo Sunni là tôn giáo chính thức của toàn dân, việc tuân thủ nó là điều bắt buộc với công dân .

  • Divehiraajjege Jōgrafīge Vanavaru. Muhammadu Ibrahim Lutfee. G.Sōsanī. Malé 1999.
  • H. C. P. Bell, The Maldive Islands, An account of the Physical Features, History, Inhabitants, Productions and Trade. Colombo 1883, ISBN 81-206-1222-1
  • H.C.P. Bell, The Maldive Islands; Monograph on the History, Archaeology and Epigraphy. Reprint Colombo 1940. Council for Linguistic and Historical Research. Male’ 1989
  • H.C.P. Bell, Excerpta Maldiviana. Reprint Colombo 1922/35 edn. Asian Educational Services. New Delhi 1999
  • Xavier Romero-Frias, The Maldive Islanders, A Study of the Popular Culture of an Ancient Ocean Kingdom. Barcelona 1999, ISBN 84-7254-801-5
  • Divehi Tārīkhah Au Alikameh. Divehi Bahāi Tārikhah Khidmaiykurā Qaumī Markazu. Reprint 1958 edn. Malé 1990.
  • Christopher, William 1836-38. Transactions of the Bombay Geographical Society, Vol. I. Bombay.
  • Lieut. I.A. Young & W. Christopher, Memoirs on the Inhabitants of the Maldive Islands.
  • Geiger, Wilhelm. Maldivian Linguistic Studies. Reprint 1919 edn. Asian Educational Services. Delhi 1999.
  • Hockly, T.W. The Two Thousand Isles. Reprint 1835 edn. Asian Educational Services. Delhi 2003.
  • Hideyuki Takahashi, Maldivian National Security –And the Threats of Mercenaries, The Round Table(London), No. 351, tháng 7 năm 1999, pp.433–444.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://nhaphodongnai.com
Category: Bản Đồ

Mời Bạn Đánh Giá