Hậu Lê từ năm bao nhiêu?

BP - Nhà Lê thời Lê trung hưng xảy ra không ít chuyện ly kỳ và đã được sử sách lưu truyền đến ngày nay. Một trong số chuyện thuộc loại này là Lê Trang Tông [1514-1548], vua đầu tiên của nhà Lê trung hưng, từ một kẻ ăn mày trở thành vua. Thời ấy, vị vua này được nhân dân “ưu ái” gọi là “chúa Chổm” - cái tên gợi lên sự nghèo hèn, nợ nần, túng thiếu.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lê Trang Tông tên thật là Lê Duy Ninh. Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, vua cha và nhiều tôn thất bị giết hại, Lê Duy Ninh may mắn thoát nạn nhờ được đại thần Lê Quán đưa đi trốn sang đất Ai Lao [Lào ngày nay]. Đến năm 1532, Lê Duy Ninh được cựu thần Nguyễn Kim đưa lên làm vua, khôi phục nhà hậu Lê.

Ngày còn lưu lạc trong dân gian, Lê Duy Ninh còn có tên khác là Chổm, rất nghèo, phải đi vay nợ để sống qua ngày. Sau này, khi lên làm vua, chúa Chổm trở lại kinh thành Thăng Long, được kiệu qua làng cũ, nơi mẹ con ông từng lánh nạn.Nhiều người vây quanh đòi nợ, vua không thể nhớ hết nên truyền miễn thuế một năm cho  cả làng. Triều đình ra lệnh cấm người đòi nợ chỉ tay xúc phạm vua. Do đó, con đường nhỏ vua từng đi qua có tên Cấm Chỉ, tồn tại ở Hà Nội đến ngày nay.

Chuyện ly kỳ thứ hai là việc bất đắc dĩ phải làm vua. Đó là trường hợp của Lê Thần Tông [1607-1662], tên húy Lê Duy Kỳ, vị vua thứ 6 của thời Lê trung hưng. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, vua là người thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi, đáng khen, là bậc vua giỏi, tính trầm tĩnh, khoan dung phúc hậu, có đức của bậc đế vương. Năm 1619, Duy Kỳ được Trịnh Tùng lập làm vua khi 12 tuổi.

Sau 24 năm làm vua, đến tháng 10 năm Quý Mùi [năm 1643], ông nhường ngôi cho con trai Lê Duy Hựu [Lê Chân Tông], lên làm thái thượng hoàng. Tưởng chừng cuộc đời làm vua của Lê Thần Tông sẽ khép lại êm đềm như thế, nhưng Lê Chân Tông ở ngôi chỉ được 7 năm thì đột ngột qua đời. Lúc đó không có người nối dõi, Trịnh Tráng lại đưa thái thượng hoàng Lê Duy Kỳ trở lại làm vua vào tháng 8-1649.

Lần này, ông làm vua đến tháng 9-1662 thì qua đời, hưởng thọ 56 tuổi, trị vì 37 năm. Như vậy, Lê Thần Tông là người đầu tiên và duy nhất trong sử Việt từ thái thượng hoàng trở lại làm vua. Ngoài ra, Lê Thần Tông cũng là vua đầu tiên lấy vợ Tây [con gái Phó toàn quyền Hà Lan tại Đài Loan, Trung Quốc]. Đây cũng chính là bà hoàng người châu Âu duy nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Chuyện thứ ba là từ tù nhân thành hoàng đế. Đó là vua Lê Hiển Tông [1717-1786], vua áp chót của nhà hậu Lê, có tên húy Lê Duy Diêu, con trưởng vua Lê Thần Tông. Khi đang là tù nhân, tưởng như bị giam cầm đến cuối đời thì ông trở thành thiên tử “danh chính ngôn thuận” chỉ sau một đêm. Kỳ lạ hơn, việc lên ngôi bất ngờ của Lê Hiển Tông được cho là nhờ vào giấc mộng của người khác.

Theo sách “Hoàng Lê nhất thống chí”, năm 1738, con thứ 4 của vua Lê Dụ Tông là Lê Duy Mật làm chính biến để lật đổ họ Trịnh nhưng bất thành, bị truy sát phải bỏ trốn. Lê Duy Diêu bị Trịnh Giang bắt giam. Trịnh Giang nhường ngôi cho Trịnh Doanh vào năm 1740. Khác với anh trai, Trịnh Doanh có chính sách ôn hòa. Ông chủ trương đối xử tốt với vua Lê để thu phục lòng người.

Lên nắm quyền, Trịnh Doanh chuyển hoàng tử Lê Duy Diêu đến giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận. Kỳ lạ là đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình”. Sáng hôm sau, thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc, cho là ứng vào giấc mộng của mình, bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng. Lê Hiển Tông trị vì suốt 46 năm, lâu nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Lời bàn:

Nhà hậu Lê từ năm 1428-1789, chia làm 2 thời kỳ là Lê sơ [1428-1527] và Lê trung hưng [1533-1789]. Với 27 triều vua, tồn tại trong suốt 361 năm, đây là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thời Lê trung hưng kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà hậu Lê và kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại nhà Thanh dưới thời Thanh Cao Tông. Do tồn tại trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, quyền lực rơi vào tay các bề tôi, nên đây cũng là triều đại nắm giữ nhiều “kỷ lục” ly kỳ, buồn thảm và nhất là về số vua bị giết hại...

Cứ theo nội dung của giai thoại này thì nhờ vào giấc mơ của Vũ Tất Thận mà hoàng tử Lê Duy Diêu ngẫu nhiên trở thành vua của nhà hậu Lê. Nói đúng hơn là Lê Duy Diêu đang từ tù nhân trở thành vua. Và có lẽ vì những tấm gương bị phế truất, bị sát hại của các vua trước khiến Lê Hiển Tông thu mình, không còn ý định phản kháng đối với các chúa Trịnh. Bởi thế các nhà sử học đời sau đánh giá Lê Hiển Tông là vị vua nhu nhược, nhưng may mắn. Không những thế, ông còn là vị vua Lê điển hình thời trung hưng, nhẫn nhục chịu đựng, “khoanh tay rủ áo” để được yên vị. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lê thời trung hưng, bởi khi ấy lòng người đã chán ghét triều đại vua chẳng ra vua, chúa chẳng ra chúa.

nhà Hậu Lê bắt đầu từ năm bao nhiêu?

Nhà Hậu Lê hoặc Hậu Lê triều [Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝; nhà Hậu Lê ・ Hậu Lê triều, 1428–1527, 1533–1789] là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ [tức Lê Lợi] lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh.

Triều đại nhà Hậu Lê tồn tại bao nhiêu năm?

Triều Hậu Lê được chia làm hai giai đoạn: Lê sơ và Lê trung hưng. Nhà Lê sơ kéo dài 99 năm, từ 1428 đến 1527. Nhà Lê trung hưng kéo dài 256 năm, từ năm 1533 đến năm 1789.

Ai là người sáng lập ra thời Hậu Lê?

Nhà Hậu Lê [1427-1789] do Thái Tổ lập ra, được phân biệt với nhà Tiền [980-1009] do Đại Hành lập ra cuối thế kỷ 10.

Lê Trung Tông trị vì bao nhiêu năm?

Lê Trung Tông [chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556] là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1548 đến năm 1556, tổng cộng được 8 năm.

Chủ Đề