Giải thích một số hiện tượng hóa học thường gặp trong cuộc sống Hóa 9

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

GIẢI THÍCH MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG HOÁ HỌC THƯỜNG GẶP TRONG CUỘC SỐNG * Vì sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ? Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được đánh răng. Tại sao vậy ? Chất chua [tức axit hữu cơ] trong trái cây sẽ kết hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn thương cho lợi. Bởi vậy người ta phải đợi đến khí nước bọt trung hoà lượng axit trong trái cây nhất là táo, cam, nho, chanh. * Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen ? Do bạc tác dụng với khí CO2 và khí H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua có màu đen. 4Ag + O2 + 2H2S 2Ag2S + 2H2O * Vì sao dùng đồ dùng bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ? Khi bạc gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion. Ion bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ cần 1/5 tỷ gam bạc trong 1 lít nước cũng đủ diệt các vi khuẩn. Không có vi khuẩn phát triển nên thức ăn không bị ôi thiu. * Vì sao dùng dao bằng thép cắt lê, táo thì bề mặt chỗ cắt sẽ bị đen ? Trong lê, táo và nhiều loại trái cây có chứa tanin. Tanin còn gọi là axit tanic, có tác dụng với sắt tạo thành sắt [III] tanat có màu đen. Tanin có vị chát, quả hồng có vị chát do rất nhiều tanin. Tanin tinh khiết là chất bột màu vàng, dễ tan trong nước. Có khi không dùng dao bằng sắt để cắt lê, táo, hồng mà sau một lúc, chỗ cắt vẫn bị thâm đen là do kết quả của nhiều biến đổi hoá học. Trong phân tử tanin có chứa nhiều gốc phenol. Các gốc này rất mẫn cảm với ánh sáng và rất dễ bị oxit có màu đen. Vì vậy tanin thường được bảo quản trong các bình thuỷ sẫm màu. Trong công nghiệp tanin dùng để thuộc da và chế mực màu đen. * Vì sao hơ con dao ướt lên ngọn lửa, con dao sẽ có màu xanh ? Đó là do ở nhiệt độ cao sắt tác dụng với nước tạo nên oxit sắt từ Fe3O4 lấp lánh màu lam. Lớp áo màu lam này là tấm màng bảo vệ sắt, làm cho sắt không bị gỉ và không bị ăn mòn. Ở các nhà máy người ta đem các chế phẩm bằng thép cho vào dung dịch natri nitrat hoặc hỗn hợp natri nitrat và natri hydroxit ở nhiệt độ từ 140 đến 1500. Sau một thời gian nhất định trên bề mặt sẽ sinh ra một lớp mỏng màu lam, sau đó lấy ra và nhanh chóng cho vào nước lạnh, rồi lại đem xử lý bằng nước xà phòng, dầu nóng mấy phút. Người ta gọi biện pháp này là “tôi muối”. Các chế phẩm qua tôi muối sẽ có tuổi thọ dài hơn. * Vì sao thuỷ tinh thường có màu xanh ? Do có chứa hợp chất của sắt. Nếu chứa hợp chất sắt [II] thì có màu xanh còn chứa hợp chất sắt [III] thì có màu vàng nâu. Nói chung thuỷ tinh chứa từ 1 đến 2% sắt thì có màu xanh hoặc vàng nâu. Thuỷ tinh quang học không màu chỉ chứa không quá 3 phần vạn sắt. * Vì sao thuỷ tinh lại có thể tự thay đổi màu ? Việc chế tạo thuỷ tinh đổi màu cũng tương tự như chế tạo thuỷ tinh thường, chỉ khác là người ta thêm vào nguyên liệu chế tạo thuỷ tinh một ít chất cảm quang như bạc clorua hay bạc bromua… và một ít chất tăng độ nhạy như đồng clorua. Chất nhạy cảm làm cho thuỷ tinh biến đổi nhaỵ hơn. Sự đổi màu có thể giải thích như sau: Khi bị chiếu sáng, bạc clorua tách thành bạc và clo. Bạc sẽ làm cho thuỷ tinh sẵn màu. Khi không chiếu sáng nữa, bạc và clo gặp nhau, tạo thành bạc clorua không màu, làm cho thuỷ tinh sẩm màu. Khi không chiếu sáng nữa, bạc và clo gặp nhau, tạo thành bạc clorua không màu, làm cho thuỷ tinh lại trong suốt. *Vì sao thêm muối quá sớm thì đậu không nhừ ? Các bà nội trợ thường nhắc nhở: Khi nấu đậu chớ cho muối quá sớm. Điều này có thể giải thích một cách khoa học như sau: Trong đậu nành khô, nước rất ít. Do đó có thể coi nó như một dung dịch đặc và lớp vỏ là một màng bán thấm. Khi nấu, nước bên ngoài sẽ thẩm thấu vào trong đậu làm cho đậu nành nở to ra, sau một thời gian các tế bào trong hạt đậu bị phá vở làm cho đậu mềm. Nếu khi nấu đậu ta cho muối quá sớm thì nước ở bên ngoài có thể không đi vào trong đậu, thậm chí nước trong đậu sẽ thẩm thấu ra ngoài do nồng độ muối trong nước muối bên ngoài lớn hơn nhiều so với nồng độ muối trong đậu nếu cho muối quá nhiều. Thông thường khi nấu cháo đậu xanh, cháo đậu đỏ không nên thêm đường quá sớm hoặc nấu thịt bò, thịt lợn không nên cho muối quá sớm vì cũng sẽ khó nấu nhừ. * Vì sao ăn đ ường glucozơ lại cảm thấy đấu lưỡi mát lạnh ? Nếu bạn cho một thìa đường gluczơ vào lưỡi trong cảm giác ngọt ngào cảm nhận còn có cảm giác mát lạnh. Vì sao vậy ? Glucozơ tạo ra một dung dịch đường trên lưỡi, sự phân bố các phân tử đường trong quá trình hoà tan là quá trình thu nhiệt, do đó ta cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh. * Vì sao thức ăn nấu khê cháy dễ gây ung thư ? Theo các chuyên gia của tổ chức Y tế thế giới, nấu thức ăn quá cháy dễ gây ung thư. Chất asparagin trong thực phẩm dưới nhiệt độ cao sẽ kết hợp với đường tự nhiên trong rau quả, hay các thực phẩm giàu chất cacbohyđrat tạo thành chất acylamind, tác nhân chính gây ra bệnh ung thư. Ăn nhiều thịt hun khói và các chất bảo quản thực phẩm chứa nitrosamin có trong rau ngâm, thịt hun khói làm gia tăng ung thư miệng, thực quản, thanh quản, dạ dày. Ăn nhiều chất béo có liên quan đến ung thư vú, đại tràng, thực tràng, niêm mạc tử cung. Thuốc trừ sâu nitrofen là chất gây ung thư và dị tật bào thai. Hoá chất độc đáo hại ethinnylestradiol và bisphe – nol A có trong túi nilon và hộp nhựa tái sinh dùng đựng thức ăn gây hại cho bào thai. * Vì sao gạo nếp lại dẻo ? Tinh bột có 2 loại amilozơ và amilopection nhưng không tách rời nhau, trong mỗi hạt tinh bột, amilopectin là vỏ bọc nhân amilozơ. Amilozơ tan được trong nước, amilopectin hầu như không ta, trong nước nóng amilopectin trương lên tạo thành hồ. Tính chất này quyết định đến tính dẻo của hạt có tinh bột. Trong mỗi hạt tinh bột, lượng amilopectin chiếm 80% amilozơ chiếm khoảng 20% nên cơm gạo tẻ, ngô tẻ, bánh mì, thường có độ dẻo bình thường. Tinh bột trong gạo nếp, ngô nếp chứa lượng amilopectin rất cao, khoảng 98% làm cho cơm nếp, xôi nếp, ngô nếp luộc…. rất dẻo, dẻo tới mức dính. * Vì sao nước mắt lại mặn ? Nước mắt mặn là vì trong một lít nước mắt có dưới 6g muối. Nước mắt sinh ra từ tuyến lệ nằm ở phía trên mi ngoài của nhãn cầu. Nước mắt thu nhận được muối từ màu [trong một lít máu có 9g muối]. Nước mắt có tác dụng bôi trơn nhãn cầu, làm cho nhãn cầu không bị khô, bị xước và vì có muối nên còn có tác dụng hạn chế bớt sự phát triển của vi khuẩn trong mắt. * Vì sao phía trên cùng của ngọn lửa lại có màu xanh ? Vì ở chỗ đó nhiệt độ của ngọn lửa cao nhất. Bình thường khí nhiệt độ vượt quá 1.000oC thì ngọn lửa sẽ có màu xanh hoặc màu trắng, dưới 1.0000C có màu đỏ. * Vì sao axit nitric đặc lại làm thủng quần áo ? Axit nitric đặc là một dung môi của xenlulozơ. Nếu bỏ một nhúm bông vào axit nitric đặc lắc nhẹ một lúc, nhúm bông sẽ tan hết. Khi axit nitric đặc dính vào quần áo nó sẽ hoà tan xenlulozơ ngay nên sẽ xuất hiện lỗ chỗ các lỗ thủng. Khi bị axit nitric loãng dây và quần áo, tuy quần áo không bị thủng ngày, nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit tăng và trở thành đặc sẽ làm thủng ngay, nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit tăng và trở thành đặc sẽ làm thủng quần áo. Nếu quần áo bị dây axit nitric cần giặt ngay bằng một lượng lớn nước.

1. MỞ ĐẦU1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀIHóa Học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Hóa Học được vận dụngrất nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. NóCó liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội- môi trường như: Sản xuất lươngthực, thực phẩm, may mặc, sức khỏe, vật liệu, an ninh, quốc phòng,… Đặc biệt,có khả năng phát huy sự hiểu biết của học sinh đối với thế giới bên ngoài nếugiáo viên biết khai thác, lồng ghép, tích hợp liên hệ các câu hỏi, bài tập thực tiễnvào trong quá trình dạy và học. Trong phương châm giáo dục hiện nay, trước hếttạo điều kiện cho học sinh việc “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền vớithực tế”; tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng chocác em thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sángtạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, tự thu thập thông tin và phântích thông tin, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Giúp cho các em có nhiều hiểubiết về tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống conngười, đặc biệt là đối với môi trường. Từ đó, giáo dục cho các em ý thức bảo vệmôi trường.Trong những năm gần đây, vấn đề liên hệ trong thực tiễn vào bài giảng đãcó áp dụng, song ít được mọi người quan tâm. Phần vì giáo viên chưa chịu khósưu tầm các hiện tượng bên ngoài thực tế, phần vì do thời gian tiết dạy có hạn[45 phút]. Nên phần lớn giáo viên tập trung đi sâu vào phần nội dung lý thuyếtcủa bài, thời gian dành cho việc liên hệ vào thực tế còn hạn chế. Do đó, học sinhchỉ lĩnh hội kiến thức suông, không biết vận dụng những kiến thức đã học đểgiải thích một số hiện tượng thực tiễn trong đời sống, sản xuất; hoặc chỉ vậndụng một cách máy móc. Chính vì thế, trong quá trình học tập học sinh dễ bịnhàm chán, khô khan, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của bộ môn.Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học đã nhiều năm, tôi thực sự trăntrở về điều này và tôi thấy rằng, ngoài việc phát huy tốt các phương pháp giảngdạy tích cực thì vấn đề quan trọng không thể thiếu được đó là: Cần khai thácthêm các hiên tượng hóa học trong thực tiễn đưa vào bài giảng, nhằm phát huytính tích cực, sáng tạo, tự tin, tạo ra niềm vui, hứng thú trong học tập. Với lí dotrên, tôi dã tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo tài liệu và áp dụng với đề tài: “ Tíchhợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 ”1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨUĐề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh xây dựng hệ thốngmột số hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào các bài giảng trong chương trìnhHóa Học 9, giúp các em giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việcmê tín, dị đoan, góp phần nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn hóa học.Đồng thời đề tài cũng làm rõ ý nghĩa khoa học hóa học có thể ứng dụng thựctiễn trong đời sống hàng ngày, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thútrong môn học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong tình hìnhđất nước hiện nay.1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨUĐối tượng nghiên cứu đề tài là các hiện tượng hóa học diễn ra trong thực tiễnliên quan đến chương trình lớp 9, được kiểm chứng qua 2 năm học ở trườngTHCS Hoằng PhúcCụ thể: Năm học 2014-2015: Lớp 9 có 30 học sinhNăm học 2015-2016: Lớp 9 có 30 học sinh1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU- Phương pháp nghiên cứu lí luận:+ Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản về đổi mới chương trình, phươngpháp dạy học+ Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cựccủa bộ môn Hóa Học- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:+ Quan sát, điều tra, khảo sát, phỏng vấn+ Qua thực trạng dạy học Hóa 9 ở trường THCS Hoằng Phúc2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬNGiáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coilà chiến lược của dân tộc mình. Vì thế trong đại hội Đảng lần IX, Đảng ta ghi rõ:“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân tộc, một quốc gia phảinhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó.Ở nước ta, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứngnguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêucầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học giáo dục được đổi mớimạnh mẽ theo bốn trụ cột đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳngđịnh mình, học để cùng chung sống.Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại pháttriển như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngànhgiáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinhmà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừamang tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡnghướng thiện khoa học.Bộ môn hoá học trong trường THCS giữ một vai trò quan trọng trong việchình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp chohọc sinh hiểu đúng đắn, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thếgiới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... Học Hoá để hiểu, giảithích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử,sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học...Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụngphục vụ trong đời sống của con người. Kiến thức Hóa Học góp phần giải tỏa,xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người.Mặt khác, làm cho các em thấy được đây là môn học rất gần gũi với các em.2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNGQua thực tế giảng dạy cho thấy, môn Hóa Học là một trong những môn họcmới, lạ đối với học sinh THCS. Ngay từ đầu, đòi hỏi học sinh có sự tưởng tượngvào thế giới vi mô, thế giới những hạt vô cùng nhỏ, đó là: phân tử, nguyên tử,…Vì vậy, nếu không có những bài giảng và phương pháp phù hợp thì dễ làm chohọc sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận kiến thức. Đã có hiện tượng mộtsố học sinh không muốn học, ngày càng xa rời với giá trị thực tiễn của Hóa Học.Trước đây, khi chưa thay sách giáo khoa, chưa đổi mới phương pháp dạyhọc, người dạy thực hiện phương pháp dạy học “Thuyết trình kết hợp với đàmthoại”. Nhưng thực chất là “Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận ghi nhớ” là chủ yếu,.Dạy học theo kiểu áp đặt, nhồi nhét, lý thuyết suông… Nhiều giáo viên chưaquan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, còn sử dụng đồng loạt một cách dạy,một bài giảng cho nhiều thế hệ, nhiều lớp khác nhau. Với lối dạy đó không thểthực hiện được mục tiêu của ngành giáo dục đề ra. Đồng thời, không thể đápứng được yêu cầu của xã hội trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước.Trong thực tế cuộc sống hàng ngày nhiều hiện tượng nhiên, nhiều vấn đề xãhội diễn ra xung quanh chúng ta cần phải được học sinh vận dụng kiến thứckhoa học liên môn mới giải quyết được; nó liên quan đến hóa học, vật lý, sinhhọc, địa lý vv…. Lâu nay việc sưu tầm các hiện tượng, vấn đề đó đang còn xemnhẹ dẫn đến học sinh hiểu vấn đề một cách phiến diện hoặc giải quyết khôngthỏa mãn triệt để.Thực trạng ở trường THCS Hoằng Phúc: số học sinh ít, số giáo viên bộmôn biên chế ít nên rất khó khăn trong việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy; chỉmới có phòng học bộ môn chung môn sinh học, chưa có phòng thực hành riêngcho bộ môn, cơ sở vật chất chưa đủ [một số hóa chất còn thiếu hoặc có nhưng đãbị biến chất…; chưa có giáo viên chuyên trách thí nghiệm nên rất vất vả chogiáo viên bộ môn trong quá trình chuẩn bị đồ dùng, thí nghiệm dạy học. Mặtkhác, là địa phương thuần nông nên kinh tế gia đình của học sinh còn nhiều khókhăn, do đó việc mua sắm tài liệu còn hạn chế, thậm chí sách giáo khoa cònkhông đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. Bảnthân học sinh lại chưa nắm vững vai trò bộ môn, cũng như chưa có định hướngnghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập bộ môn chưa cao, đang còn xemnhẹ bộ môn.Đặc biệt, qua các kỳ thi khảo sát chất lượng học kỳ, thi học sinh giỏi cáccấp thì vấn đề liên hệ thực tế có liên quan đến kiến thức Hóa Học ít được chú ý.Chính vì vậy, giáo viên bộ môn ít quan tâm đến vấn đề “Tích hợp các hiệntượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng” để hướng dẫn học sinh vậndụng.Kết quả khảo sát chất lượng môn hóa học học sinh lớp 9 đầu năm học trước khithực hiện đề tài:GiỏiNăm họcTBYếuKémLớpSL2015-2016Khá9[30]2%6,7SL5%16,7SL13%43,3SL7%SL23,3 3%102.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ* Các giải pháp:Để thực hiện tốt được vấn đề “Tích hợp các hiện tượng hóa học trongthực tiễn vào bài giảng Hóa Học 9 ” đòi hỏi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹbài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm; tìm hiểu, tham khảo các vấn đềthực tế có liên quan đến bài học, hình thành bài giảng theo hướng phát huy tíchcực, chủ động của học sinh. Song phải mang tính chất hợp lý, hài hòa, đôi lúc cókhôi hài nhưng vẫn đảm bảo được mục đích, tiêu chí, nội dung của bài dạy. Tuynhiên, thời gian dành cho vấn đề này không nhiều [ví như thứ gia vị trong đờisống, không thể thay thế cho thức ăn, nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ănuống]Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã sử dụng các hiện tượng hóa họctrong thực tiễn vào bài giảng bằng cách:1/ Đặt tình huống vào bài mới:Tiết dạy có gây được sự chú ý của học sinh hay không phụ thuộc vào ngườidạy rất nhiều. Trong đó, phần mở đầu đặc biệt quan trọng. Nếu ta biết đặt ra mộttình huống thực tiễn yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽtạo được sự chú ý, cuốn hút học sinh trong quá trình học tập.2/ Sử dụng trong giảng dạy bài mới :Trong các giờ giảng bài mới, giáo viên có thể linh hoạt nhiều phươngpháp khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhấtlà hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.Phương pháp Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thứchóa học với kiến thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành mộtthể thống nhất.Ví dụ: Khi giảng bài về “Các oxit của cacbon”, bên cạnh giảng về vai trò làmchất khử của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện kim, giáoviên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ độc của CO, triệu chứng bịngộ độc. Các nguồn sinh ra CO thường có trong cuộc sống để phòng tránh. Hoặckhi giảng về khí CO2, song song với việc giảng về vai trò của CO 2 đối với quátrình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo viên phải đề cập đến vấn đề gây“hiệu ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học sinh nên trồng cây xanh, bảo vệrừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.Phương pháp Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặtcấu trúc để có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nộidung liên quan đến thực tiễn, hoặc những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,gây cười có thể đan xen vào tiết học. Cách này có thể tạo không khí học tậpthoải mái, kích thích niềm đam mê hứng thú bộ môn.3/ Nêu hiện tượng thực tiễn thông qua các bài tập tính toán: nhằm giúp họcsinh lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích, hiểu được bài toán yêu cầugì và giải quyết như thế nào? Từ đó hiểu được cách tiết kiệm nguyên liệu, sửdụng nguyên liệu đúng cách…4/ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường ngày sau khi đãkết thúc bài học: Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào kiếnthức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiệntượng đó. Học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi “ vì sao lại có hiện tượng đó”? Tạotiền đề thuận lợi cho khi học bài mới tiếp theo.5/ Hướng dẫn tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn ở gia đình,địa phương,… sau khi đã học, tìm hiểu, nghiên cứu qua một nội dung, một vấnđề hóa học trong bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thề làm cho học sinh căn cứvào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức quacác thí nghiệm trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóahọc vào đời sống thực tiễn.6/ Lồng ghép, tích hợp vấn đề môi trường trong bài dạy:Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,…đang được con người nhắc đếnrất nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày các hiện tượng thường xuyên bắt gặp như:nước thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng gà,…; khói bụi của các lò gạch,nhà máy xay lúa, các cánh đồng sau thu hoạch,…có liên quan gì đến những diễnbiến bất thường của thời tiết hiện nay không? Giáo viên dạy học bộ môn Hóa cóthể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng củamột số chất,… Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn phải giáodục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thựctrạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi vớihọc sinh.Ví dụ: Khi giảng về độ pH của dung dịch ta có thể hỏi học sinh “Vì saochúng ta lại bị sâu răng? Đặc biệt là khi ăn các thức ăn ngọt?” Hay khi dạy về sựthủy phân của các muối giáo viên có thể đặt câu hỏi “Vì sao phèn chua lại có thểlàm trong nước”, “ tại sao NH4HCO3 được dùng làm bột nở ?”….Giáo viên cóthể hướng dẫn cho học sinh vận dụng các kiến thức trong bài để giải quyết vấnđề đặt ra và bổ sung thêm cho học sinh những kiến thức có liên quan đến vấn đềđó nhưng không nằm trong phạm vi kiến thức hóa học như vấn đề bảo vệ môitrường, bảo vệ sức khỏe,….7/ Tích hợp trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:Trong giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thựctiễn mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tậpđể giải quyết những kiến thức thực tiễn có liên quan.Ví dụ: Khi dạy phần luyện tập về Clo, có thể đưa ra bài tập sau: Trongphòng thí nghiệm [hoặc nhà máy sản xuất giấy] khi bị ngộ độc Clo người ta sơcứu bằng cách cho nạn nhân ngửi khí nào?A. H2B. NH3C. O2D. N28/ Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ hóa học, cácbuổi ngoại khóa về hóa học, các cuộc thi hóa học vui,…. nhằm tạo điều kiện chohọc sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng thúvà say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình thànhcho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện tượng trongcuộc sống và phải tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó.*CỤ THỂ MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA:Hệ thống các hiện tượng hóa học trong thực tiễn tích hợp vào bài giảngHóa học 9CHƯƠNG I: Các hợp chất vô cơHiện tượng1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mùmịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểmcho tính mạng của người và động vật.Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:CaO + H2O → Ca[OH]2Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theocả những hạt Ca[OH]2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ranhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hốvôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một sốOxit quan trọngHiện tượng2: “Mưa axit” là gì ? Tác hại của nó như thế nào ?Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong[ôtô, xe máy] có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại [có trong khói, bụi nhàmáy] hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO42NO + O2 → 2NO24NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit.Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưaaxit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đàilàm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến [các loại đá này thành phần chính làCaCO3]:CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2OCaCO3 + 2HNO3 → Ca[NO3]2 + CO2↑ + H2ONgày nay, hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên nhữnghậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đềô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rấtchú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinhnhững hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng caoý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên liên hệ tíchhợp môi trường trong Bài 2: Một số Oxit quan trọng, ý thứ 2 có thể liên hệ khihọc bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat.Hiện tượng 3: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?Giải thích: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạdày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl cótrong dạ dày nhờ phản ứng:NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2OGiáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài 2: Một số axit quan trọnghoặc bài 29: Muối CacbonatHiện tượng 4: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện [hay một số con khác] cóaxit hữu cơ tên là axit fomic [HCOOH]. Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làmta đỡ đau.Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học củabazơ ở Bài 7: Tính chất hóa học của BazơHiện tượng 5: Tại sao ăn trầu phải có đủ cau, trầu và vôi, nhất là không thểthiếu vôi ?Giải thích: Trong lá trầu có chứa tinh dầu, trong hạt cau có chứa một chấtgọi là arecolin, chất này có tính độc. Không có vôi miếng trầu không thể chuyểnsang màu đỏ, vôi là chất kiềm khi tác dụng với arecolin làm chất này chuyểnthành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn, ấm áp làm cho da mặthồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn làm sạch miệng, làm chặtchân răng.Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ sức khỏe ở Bài 8:Một số Bazơ quan trọngHiện tượng 6: Bột nở là chất gì mà có thể làm cho bánh to ra và xốp được ?Giải thích: [NH4]2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm bột mìhoặc các bột khác, lúc nướng bánh [NH 4]2CO3 phân hủy thành các chất khí vàhơi làm cho bánh xốp và nở.t[NH4]2CO3 → 2NH3 ↑ + CO2 ↑ + H2O ↑Giáo viên có thể tích hợp vào Bài 9: Tính chất hóa học của muốiHiện tượng7: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thấy xuấthiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào ?Giải thích: Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, lànước có chứa muối Ca[HCO3]2, Mg[HCO3]2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoáhọc:Ca[HCO3]2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2OMg[HCO3]2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2ODo CaCO3 và MgCO3 sinh ra đóng cặn.0Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm [CH 3COOH 5%] và rượu,đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và laumạnh là sạch.Giáo viên có thể tích hợp vào trong bài 9:Tính chất hóa học của muối[ hay bài 29: Muối các bonat]. Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũnggóp phần cho học sinh hiểu bản chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, họcsinh có thể ứng dụng trong gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó làmột thí nghiệm tự làm được.Hiện tượng 8: Ca dao Việt Nam có câu:“Lúa chim lấp ló ngoài bờHễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”Câu ca dao đó mang ý nghĩa hóa học gì ?Giải thích: Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đồng mà cótrận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ?Do trong không khí có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp [tia lửađiện] thì:Sau đó: 2NO + O2 → 2NO2Khí NO2 hòa tan trong nước: 4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3HNO3 hòa tan trong đất được trung hòa bởi một số muối tạo muối nitratcung cấp Nitơ cho cây.Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đấtđược cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ.Đây là một câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đờisống, quả là một kinh nghiệm được ông cha ta rút ra qua những tháng năm canhtác nông nghiệp. Học sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thíchđược một cách khoa học về vấn đề trên. Giáo viên có thể đề cập trong bài 11:Phân bón hóa họcHệ thống các hiện tượng tích hợp trong những bài giảngCHƯƠNG II: Kim loạiHiện tượng1: Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm ?Giải thích: Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượngkhí H2S tương đối cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùngAg để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H 2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thểgiảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O[đen]Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đếntận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọingười cần phải biết. Giáo viên có thể tích hợp hiện tượng trên khi dạy phầnTính chất của kim loại.Hiện tượng 2: Tại sao khi đánh phèn chua vào nước thì nước lại trở nêntrong ?Giải thích: Công thức hóa học của phèn chua là muối sunfat kép củanhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm 24 phân tử nước: K 2SO4.Al2[SO4]3.24H2O.Do khi đánh phèn trong nước phèn tan ra tạo kết tủa Al[OH] 3, chính kết tủa keonày đã dính kết các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành các hạt đất to hơn,nặng và chìm xuống làm nước trong. Nên trong dân gian có câu:“ Anh đừng bắc bậc làm caoPhèn chua em đánh nước nào cũng trong”Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nướctrong dùng cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còngọi là minh phàn [ minh là trong trắng, phàn là phèn].Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên tích hợp cho phần liên hệ thực tế trongbài 18: Nhôm.Hiện tượng 3: Xung quanh các nhà máy sản xuất gang, thép, phân lân, gạchngói,…cây cối thường ít xanh tươi, nguồn nước bị ô nhiễm. Điều đó giảithích như thế nào ?Giải thích: Việc gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí là donguồn chất thải dưới dạng khí thải, nước thải, chất rắn thải…- Những chất thải này có thể dưới dạng khí độc như: SO 2, H2S, CO2, CO,HCl, Cl2…có thể tác dụng trực tiếp hoặc là nguyên nhân gây mưa axit làm hạicho cây.- Nguồn nước thải có chứa kim loại nặng, các gốc nitrat, clorua, sunfat… sẽcó hại đối với sinh vật sống trong nước và thực vật.- Những chất thải rắn như xỉ than và một số chất hóa học sẽ làm cho đất bịô nhiễm, không thuận lợi cho sự phát triển của cây.Do đó để bảo vệ môi trường các nhà máy cần được xậy dựng theo chu trìnhkhép kín, đảm bảo khử được phần lớn chất độc hại trước khi thải ra môi trường.Giáo viên có thể đặt câu hỏi này khi dạy xong phần sản xuất gang, thép đểtích hợp vấn đề bảo vệ môi trường, giúp học sinh ý thức được việc bảo vệ môitrường ở bài 20: Hợp kim Sắt, Gang, Thép.Hệ thống các hiện tượng tích hợp trong những bài giảngCHƯƠNG III: Phi kimHiện tượng1: “Ma trơi” là gì? “Ma trơi” thường gặp ở đâu?Giải thích: “Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể[xương động vật] có chứa một hàm lượng Phốtpho khi chết phân huỷ tạo 1phần thành khí PH3 [Photphin] khi có lẫn một chút khí P2H4 [Điphotphin], khíPH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trongkhông khí.2H 42PH3 + 4O2 P→ P2O5 + 3H2OĐiều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩađịa càng tăng nên tính chất kịch tính.Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về Phốtpho để giải thích hiệntượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộcsống lành mạnh. Giáo viên có thể tích hợp trong bài 25: Tính chất của phi kimHiện tượng 2: Tại sao nước máy lại có mùi khí clo ? Vì sao không dùngnước máy để tưới cây cảnh?Giải thích: Trong hệ thống nước máy, người ta cho vào một lượng nhỏkhí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phầntác dụng với nước:Cl2 + H2O → HCl + HClOAxit hipoclorơ [HClO] sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụngkhử trùng, sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra do đókhi ta sử dụng nước ngửi thấy mùi clo.Khi dùng nước máy tưới cây cảnh thì trên lá cây xuất hiện những đốmtrắng và làm rụng lá vì chất diệp lục trên lá bị oxi hóa bởi lượng HClO trongnước máy, vì vậy không nên dùng nước máy để tưới cây.Giải thích được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứngdụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có thể kiểm nghiệm thật dể dàng.Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứngdụng của clo trong bài 26: CloHiện tượng 3: Tại sao khi cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơmmột mẫu than củi ?Giải thích: Do than củi xốp, có tính hấp phụ nên hấp phụ hơi khét củacơm làm cho cơm đỡ mùi khê.Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài 27:CacbonHiện tượng 4: Vì sao khi mở chai nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoátra ?Giải thích: Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là cóthêm khí cacbonic CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lựclớn để ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thuđược nước ngọt.Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức bay vàokhông khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa hèngười ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh.Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khíCO2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoátra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người tacó cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạdày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai biathì chắc hẳn học sinh nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và cócông dụng ra sao, tại sao người ta đưa khí đó vào bình được ? thì học sinh khôngbiết được. Để giúp học sinh hiểu về vấn đề này giáo viên có thể tích hợp khi dạybài 28: Oxit của cacbonHiện tượng 5: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa hóa học gì?Giải thích: Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi gặpnước mưa và khí CO2 trong không khí tạo thành môi trường axit nên làm tanđược đá vôi theo PTHH: CaCO3 + CO2 + H2O → Ca[HCO3]2Ca[HCO3]2 tan trong nước, chảy qua khe đá vào trong hang động, khi giọtnước nhỏ từ từ Ca[ HCO3]2 lại chuyển hóa thành CaCO3:Ca[HCO3]2 → CaCO3 + CO2 ↑ + H2ONhư vậy lớp CaCO3 dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành nhữnghình thù đa dạng như các hang, động...Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá vôi, cụ thể làđộng Phong Nha Kẽ Bàng [Quảng Bình], động Hương Tích [ Chùa Hương]…Học sinh sẽ biết được quá trình hình thành các hang động với những hình dạngphong phú là do thiên nhiên kiến tạo dựa trên các quá trình biến đổi hóa học.Dựa vào tính chất của Canxi cacbonat giáo viên có thể tích hợp vấn đề trên ở bài29: Axit Canonic và Muối CacbonnatHiện tượng6: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?Giải thích: Muốn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóngchảy, lấy ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ…cần khắc nhờ lớp sáp [nến]mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạođi lớp sáp do có phản ứng:SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2ONếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bộtCaF2 [màu trắng]. Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùngvật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp [nến] mất đi, rồi rắc bột CaF 2vào chổ cần khắc, cho thêm H 2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứngđặt lên trên khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn nhữngnơi cạo lớp sáp.Do:CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ [ dùng tấm kính che lại]SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2OĐây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh và sảnxuất thuỷ tinh. Nó không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thủytinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi gặpvấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mêhọc tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáoviên có thể nêu vấn đề trên để dẫn dắt vào bài giảng bài 30: Silic – Côngnghiệp SiliccatHiện tượng 7: Kho quặng lớn nhất thế giới chứa hầu hết các nguyên tố hóahọc nằm ở đâu ?Giải thích: Nằm ở đại dương [ nước biển] vì nước biển bay hơi liên tục,trở lại dưới dạng mưa và mang theo chất tan. Nước chảy càng xa mới đến biểnsẽ càng hòa tan nhiều muối. Nước chảy từ những vùng khác nhau thì mang theonhững nguyên tố khác nhau đổ ra biển.Giáo viên có thể tích hợp Bài 31: Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyêntố hóa họcHệ thống các hiệntượng hóa học tích hợp trong những bài giảngCHƯƠNG IV: Hiđro cacbon và nhiên liệuHiện tượng1: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao [hồ]?Giải thích: Trong ruộng lúa, ao [hồ] thường chứa các vật thể hữu cơ. Khicác vật thể này thối rữa [hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ] sinh ra khímetan. Người ta ước chừng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng nămlà từ các hoạt động cày cấy.Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn nuôi heotạo khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máyĐây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về môitrường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên tích hợp vấn đề này vàotrong phần liên hệ thực tế bài 36: MetanHiện tượng2: Làm cách nào để quả mau chín ?Giải thích: Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quảxanh thì toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy ?Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiêncứu quá trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra mộtlượng nhỏ khí etilen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tếbào trái cây và làm cho quả mau chín.Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm chậm quá trình chín của tráicây bằng cách làm giảm nồng độ etilen do trái cây sinh ra. Điều này đã được sửdụng để bảo quản trái cây không bị chín nẫu khi vận chuyển xa. Ngược lại khicần cho quả mao chín, người ta thêm etilen vào kích thích quá trình hô hấp củatế bào trái cây.Ngày nay người ta dùng khí đó cho vào thùng trái cây để làm trái cây mauchín vì khi có hơi nước khí đó tác dụng trong môi trường ẩm sinh ra etilen làmtrái cây mau chín.Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai cũng biếtgiải thích được. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế trongphần ứng dụng của etilen ở bài 37: EtylenHiện tượng3: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ?Giải thích: Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC 2, khi tácdụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit:CaC2 + 2H2O → C2H2 + Ca[OH]2Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra anđehit axetic, chính chất này làm tổnthương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chếtGiáo viên dùng hiện tượng này mở rộng cho phần điều chế axetilen nhằmcủng cố lại tính chất của axetilen qua bài 38: AxetilenHiện tượng 4: Vì sao lại không dùng xăng pha chì nữa?Giải thích: Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30%xăng dầu khi sử dụng. Nhưng khí cháy trong động cơ, chì oxit bám vào các ốngxả, thành xi lanh nên thực tế xăng còn hoà tan thêm vào Đibrom etan thì chìoxit sẽ bị chuyển thành Chì bromua [PbBr 2], dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh,ống xả, thải vào không khí làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Vì chì sẽ ở trong môi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên khitiếp xúc với khí thải, động thực vật bị bệnh sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đếnsức khoẻ con người. Ngoài ra hơi Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp,làm bỏng da. Hiện nay, nước ta đã không sử dụng xăng pha chì.Nên thông qua bài học, giáo viên có thể làm rõ qua nội dung bài 40: Dầu mỏvà khí thiên nhiênHệ thống các hiện tượng hóa học tích hợp trong những bài giảngCHƯƠNG V: Dẫn xuất của Hiđro cacbon. PolimeHiện tượng1: Tại sao rượu giả có thể gây chết người ?Giải thích: Để thu được nhiều rượu [rượu etylic] người ta thêm nước vàopha loãng ra , vì vậy rượu nhạt đi người uống sẽ không thích. Nên họ pha thêmmột ít rượu metylic làm nồng độ rượu tăng lên. Chính rượu metylic gây ngộ độc,nó tác động vào hệ thần kinh và nhãn cầu, làm rối loạn chức năng đồng hóa củacơ thể gây nên sự nhiễm độc axit.Đây là các câu hỏi nhằm kích thích tính tò mò của học sinh. Học sinhkhông lạ gì với các hiện tượng trên nhưng để giải thích thì không phải dễ. Giáoviên có thể nêu vấn đề trên khi dạy xong bài 44: Rượu EtylicHiện tượng2: Cách làm xà phòng bánh ra sao?Thông thường thí nghiệm xà phòng hóa ít thành công [chỉ thu được váng xàphòng]. Sau đây là cách làm để thu được bánh xà phòng:Cho dầu ăn và mở bò vào chén sứ, đun trên ngọn lửa đèn cồn.Từ từ cho dung dịch NaOH đã pha sẵn vào dầu ăn, khuấy đều đến khi hỗn hợpnày hòa đều với nhau [như hồ tinh bột].Đổ hỗn hợp ra khuôn ta sẽ thu được xà phòng bánh.Với vấn đề trên, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hóa học trong đời sống, tạosự hưng phấn trong học tập, giao viên có thể tích hợp qua bài 47: Chất béoHiệng tượng 3: Gương soi có lịch sử như thế nào?Giải thích: Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đếnthời đồ đồng thau thì gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyểnsang thủy ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thủy ngân gây ngộ độc chongười sản xuất.Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng tráng bạc sau tấm kính nhờphản ứng anđehit [R−CHO] với dung dịch AgNO3 /NH3R-CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R-COONH4 + 2Ag + NH4NO3hay thay andehit bằng glucozơC6H12O6 + Ag2O NH3→ C6H12O7 + 2AgAg tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương mộtlớp sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.Đây là một ứng dụng thực tế trong đời sống cần tích hợp để học sinh hiểuphần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng bắt gặp. Giáo viêncó thể vận dụng vào bài 50: GlucozoHiện tượng 4: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?Giải thích: Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quátrình quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.→ [C H O ] + 6nO6nCO2 + 5nH2O clorophin6 10 5 n2Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉcó quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho phòngthiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2Giáo viên có thể tích hợp vấn đề này vào bài 52: Tinh bộtHiện tượng 5:Vì sao “chảo không dính” khi chiên thức ăn?Giải thích: Thực ra, mặt trong của chảo chống dính người ta có trải một lớphợp chất cao phân tử: Đó là Politetra floetilen được tôn là “vua chất dẻo”thườnggọi là “teflon”chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc.Nhưng cần lưu ý ở nhiệt độ trên 2500C lớp chống dính bắt đầu phân hủy và thoátra chất độc. Khi rửa chảo chống dính không nên chà sát bằng đồ vật cứng vì cóthể gây tổn hại cho lớp chống dính.Giáo viên có thể tích hợp vấn đề này khi dạy Bài 54: Polime.MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGOẠI KHÓA CÓ THỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINHTHỰC HIỆN Ở NHÀĐề tài 1: Thử tính axit của quả chanhLấy 1 cánh hoa râm bụt chà mạnh trên tờ giấy trắng và để yên khoảng 10giây, giúp tạo ra giấy quỳ tím nhân tạo.Sau đó nhỏ 1-2 giọt nước cốt quả chanh tươi vào mảnh giấy quỳ tím trên.Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.Đề tài 2: Thử tính bazơ của dung dịch bột xà phòng giặtLấy 1 cánh hoa râm bụt chà mạnh trên tờ giấy trắng và để yên khoảng 10giây giúp tạo ra giấy quỳ tím nhân tạo.Sau đó nhỏ 1-2 giọt dung dịch bột xà phòng giặt vào mảnh giấy quỳ tím trên.Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.Đề tài 3: Thử tính hấp phụ của than gỗVùi 1 mẫu to than sạch vào nồi cơm bị khê [khét]. Sau khoảng 30 phút mởnắp nồi cơm.Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:Trong quá trình dạy học bộ môn Hóa Học tại trường THCS Hoằng Phúc,tôi đã và đang tiến hành các biện pháp trên để rèn luyện và phát triển kỹ năngvận dụng kiến thức Hóa Học vào thực tiễn cho học sinh. Bản thân tôi nhờ vậndụng dạy “tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng HóaHọc 9” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quảnhất định, đó là:Tôi thấy học sinh tích cực hơn trong việc học tập. Số học sinh yếu lúc đầu lơlà, thụ động trong việc tìm kiếm kiến thức, nhưng bây giờ đã có thể góp sứcmình vào hoạt động tìm ra kết quả. Từ đó, các em thấy tự tin hơn, mạnh dạnphát biểu xây dựng bài. Vì vậy, không khí lớp học sôi nổi hơn, học sinh hứngthú học tập bộ môn hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cảnhững học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thực tế, rồi lại đếnhỏi tôi.Có thể nói, kiến thức hóa học đã giúp các em giải thích được các hiệntượng trong tự nhiên, tránh mê tín dị đoan. Thậm chí hiểu được những dụng ýcủa khoa học trong những câu ca dao, tục ngữ mà thế hệ trước đã để lại. Và cóthể ứng dụng trong thực tiễn đời sống chỉ bằng những kiến thức được học,không gây nhàm chán, xa lạ lại trái lại có tác dụng kích thích học sinh chủ độngsáng tạo, hứng thú trong môn học, làm cho bộ môn Hóa Học không khô khan,bớt đi tính đặc thù và phức tạp.Kết quả đối chứng:Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp ápdụng liên hệ thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt.* Kết quả giảng dạy ở trường của năm học 2014- 2015; 2015- 2016 tôi đãcó số liệu cụ thể trong bảng sau:LớpMức độ áp9dụng đề tài2014- Không áp dụng2015 hoặc ít áp dụng2015Áp dụng2016 thường xuyênKhông khíhọc tậpÍt sôi nổi, lớphọc trầmSôi nổi, hăngsay phát biểuGiỏi10%16,7%Kết quả học tậpKháTBYếu16,7% 43,3% 23,3% 6,7%30%43,3%10%* Kết quả giảng dạy năm 2015-2016:Lớp 9[30 HS]Giỏi20,0%Kết quả học tậpKháTB43,3%36,7%Yếu0%* Chất lượng bồi dưỡng đội tuyển trong những năm gần đây:Năm học2011 – 20122014 – 20152015 – 2016Đạt giải1 giải ba, 1 giải KK1 giải KK1 giải nhì, 1 giải baKémĐồng độiXếp thứ 11/49Xếp thứ 15/43Xếp thứ 3/430%3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊTrên đây, là một số giải pháp mà tôi đã tích lũy được về việc tích hợp cáchiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 tại trườngTHCS Hoằng Phúc. Có được giải pháp này là do bản thân tôi đã nghiên cứu tàiliệu, áp dụng chuyên đề, dự giờ thăm lớp, và tham khảo ý kiến của các đồngnghiệp. Những giải pháp trên đã và đang được thực hiện nhằm nâng cao chấtlượng bộ môn. Giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức trong bài học vào thực tếcuộc sống, học sinh dễ nhớ kiến thức và khắc sâu được kiến thức.Như vậy, đổi mới dạy và học hiện nay là tạo cho học sinh hướng tới họctập chủ động, tích cực, tự tìm tòi, chống thói quen học tập thụ động. Các phươngpháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động nhận thứccủa người học phải gắn liền với giá trị thực tiễn của nội dung bài học. Đó là nhucầu cũng là xu hướng của giáo dục thời kỳ hội nhập.- Tuy nhiên áp dụng các hiện tượng thực tiễn phải biết lựa chọn đúng nội dungbài học, thời gian phải hợp lí thì giờ học mới cuốn hút sự chú ý, tập trung củahọc sinh, tạo không khí thoải mái trong tiết học, gây sự hưng phấn, có ý thứchọc tập và yêu thích bộ môn hơn.* Bài học kinh nghiệm:Nếu tích hợp tốt hệ thống các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bàigiảng trong chương trình Hóa Học 9 nói riêng, với môn Hóa Học nói chung thìsẽ làm tăng ý nghĩa thực tiễn của môn học; làm cho bài học trở nên hấp dẫn vàlôi cuốn học sinh hơn. Đồng thời góp phần nâng cao năng lực nhận thức, tự học,tích cực, chủ động học tập của học sinh.Để có thể vận dụng được tốt thì người giáo viên phải thường xuyên:- Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm - sức để tìm hiểu các vấn đề hoá học ngoàithực tiễn, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học để có bài giảng thu hút đượchọc sinh.- Đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.- Việc lồng ghép các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy học,trước hết phải tạo điều kiện cho việc “ học và hành” gắn liền với thực tế, tạo chohọc sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng cho các em những kỹnăng quan sát, thu thập thông tin và phân tích thông tin, dần hình thành phươngpháp nghiên cứu khoa học.- Luôn học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.- Biết áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, …- Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất, tôi đã kết hợp hài hoà trongphong cách dạy của mình, có thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái,nhưng khả năng tiếp thu bài cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giànhcho vấn đề này là không nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linhhoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đều khôngtốt. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ.* Một vài kiến nghị:- Với nhà trường và phòng giáo dục: thường xuyên tổ chức các chuyên đềvề đổi mới phương pháp dạy học, khuyến khích giáo viên tham gia các lớp họctrên chuẩn nhiều hơn nữa. Triển khai thêm các chuyên đề soạn giảng và sử dụngmột số phần mềm dạy học, khuyến khích giáo viên sử dụng internet.- Đối với Sở GD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu thamkhảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảngdạy. Với những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo nên phổ biến để cho cácgiáo viên được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức củagiáo viên sẽ hoàn thiện hơn.Có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nângcao chất lượng học Hoá Học trong thời kỳ đổi mới. Tôi mong rằng các giải phápnày thực sự mang tính “hữu ích”, thiết thực và đáp ứng phần nào nâng cao chấtlượng dạy học bộ môn Hóa Học ở trường THCS nói chung và chương trình Hóa9 nói riêng.Mặc dù, tôi đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những hạn chếvà thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của cácbạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.Tôi xin chân thành cảm ơn!XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNGĐƠN VỊThanh Hóa, ngày 5/05/2016Tôi xin cam đoan đây là SKKN củamình viết, không sao chép nội dungcủa người khácNgười thực hiệnTrần Thị ThọMỤC LỤCTrang1. MỞ ĐẦU11.1. Lí do chọn đề tài11.2. Mục đích nghiên cứu11.3. Đối tượng nghiên cứu21.4. Phương pháp nghiên cứu22. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM22.1. Cơ sở lí luận22.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng32.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề42.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm143. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ16

Video liên quan

Chủ Đề