Dàn ý Làm trai cho đáng sức trai Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng

I. DÀN Ý

1. Mở bài:.

- Xã hội phong kiến thường đề cao vai trò của nam nhi.

- Một số câu ca dao châm biếm những người đàn ông có tật xấu như tham ăn, yếu đuối, nông nổi, hèn nhát, nhu nhược, bất tài...

2. Thân bài:

- Câu 1: Phê phán thói lười biếng và tham ăn của chàng trai. Phân tích hình ảnh ước lệ một trăm đám cỗ và từ thậm xưng chẳng sai...

- Câu 2: Giễu cợt một anh chàng ốm yếu, không có dáng gì là con trai. Phân tích cụm từ đặc tả khom lưng chống gối, sự tương phản giữa từ gánh và hai hạt vừng.

- Câu 3: Khinh bỉ những kẻ nông nổi thích tỏ vẻ ta đây anh hùng nhưng thực chất lại hèn nhát, vô dụng. Phân tích cụm từ anh hùng rơm và cơn anh hùng để làm nổi bật yếu tố mỉa mai...

- Câu 4: Giãi bày tâm trạng buồn bực của cô vợ về người chồng nhu nhược, bất tài. Phân tích cặp từ so sánh: chồng người với chồng em, đi ngược về xuôi với ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

3. Kết bài:

- Nhân dân ta luôn ước mơ và kì vọng vào những trang nam nhi tài đức vẹn toàn, là chỗ dựa vững chắc cho gia đình và xã hội.

- Bút pháp trào lộng hóm hỉnh, đặc sắc nhằm mục đích phê phán, nhắc nhở mọi người hãy tránh xa những thói hư tật xấu trong cuộc sống.

II. BÀI LÀM

Trong ca dao - dân ca, bên cạnh mảng trữ tình phản ánh đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của người bình dân xưa là mảng trào phúng, hài hước với mục đích đả kích mặt trái của giai cấp thống trị và phê phán những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân. Bút pháp trữ tình và bút pháp trào lộng kết hợp chặt chẽ với nhau để thể hiện nội dung, tạo ra nụ cười tươi vui, hóm hỉnh, chứa đựng ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Chùm ca dao hài hước sau đây là một dẫn chứng tiêu biểu:

1. Làm trai cho đáng nên trai,

Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.

2. Làm trai cho đáng sức trai,

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

3. Anh hùng là anh hùng rơm,

Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.

4. Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Chùm ca dao hài hước châm biếm trên đây chế giễu những kẻ mang danh nam nhi mà mắc đủ các thói xấu như lười biếng, tham ăn, yếu đuối, bất tài vô dụng, hèn nhát hoặc vênh váo ra vẻ ta đây.

Câu 1:

Làm trai cho đáng nên trai,

Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.

Trong xã hội phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Bao nhiêu công việc nặng nhọc, khó khăn chỉ biết trông chờ vào sức vóc của người đàn ông. Mỗi khi chiến tranh xảy ra thì đương đầu với mũi tên hòn đạn cũng chính là các trang nam nhi khoẻ mạnh. Vì vậy, vai trò đàn ông được xã hội đề cao và khẳng định. Trong ca dao - dân ca có rất nhiều câu ca dao thể hiện rõ điều đó, ví dụ như:

- Làm trai cho đáng nên trai,

Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.

- Làm trai cho đảng nên trai,

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.

- Làm trai quyết chí tang bồng,

Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.

Bản thân chữ Làm trai đã bao hàm ý nghĩa khẳng định chí khí, bản lĩnh và sức mạnh của các đấng nam nhi đại trượng phu.

Ở câu thứ nhất, tiếng cười châm biếm được tạo nên bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Trước hết, tác giả tạo nên sự đối lập [tương phản] giữa cái cao cả: Làm trai cho đáng nên trai với cái tầm thường: Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào. Chàng trai trong câu ca dao không lo làm lụng mà chỉ trông chờ hưởng thụ.

Hình ảnh một trăm đám cỗ là con số ước lệ mang ý nghĩa khái quát. Chẳng sai là chẳng quên, chẳng bỏ sót đám nào. Tác giả dân gian khéo léo dùng nghệ thuật phóng đại, cường điệu để tô đậm hiện tượng, châm biếm kẻ Làm trai sức dài vai rộng mà chỉ “giỏi” hơn người ở cái tài đi... ăn cỗ, chỉ có mỗi một việc là chăm chú đợi đến ngày được hàng xóm láng giềng mời ăn cỗ. Thật mỉa mai, đáng cười cho đấng mày râu có tư tưởng ăn bám, hưởng thụ, không thích lao động. Anh ta không phải là loại người mà gia đình và xã hội mong muốn.

Câu 2:

Làm trai cho đáng sức trai,

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

Nếu câu ca dao thứ nhất phê phán những kẻ siêng ăn, biếng làm thì câu ca dao thứ hai châm biếm một anh chàng có thể trạng yếu ớt, chẳng làm được việc gì ra hồn.

Câu ca dao vẽ nên một bức chân dung thật hài hước và thú vị bằng nghệ thuật phóng đại kết hợp với thủ pháp đối lập. Người xưa thường ngợi ca sức trẻ, sức trai dời non lấp bể. Trẻ con hay hát bài đồng dao: Gánh gánh gồng gồng, gánh sông gánh chợ. Cao hơn nữa, phận sự của các trang nam nhi là gánh nợ nước non. Vậy mà ở đây chàng trai yếu ớt một cách bất thường. Trong cuộc đời, có thể có những chàng trai yếu đuối nhưng không ai lại yếu đến mức chỉ gánh nổi có... hai hạt vừng. Hài hước ở chỗ là anh ta phải khom lưng chống gối, có nghĩa là phải ráng hết sức mới có thể gánh được. Tiếng cười vang lên từ những chi tiết đối lập ngoài sức tưởng tượng như thế.

Qua giọng điệu, ta có thể hiểu nội dung của câu ca dao theo hai nét nghĩa. Một là thể trạng ốm yếu của anh chàng là do cha mẹ sinh ra, nhưng anh ta không chịu rèn luyện để có được một thân thể cường tráng, khoẻ mạnh. Hai là chàng trai này quá lười biếng, nhu nhược, không có dũng khí trong cuộc sống, không dám gánh vác những trọng trách lớn lao trong gia đình và ngoài xã hội. Hạng đàn ông như vậy chỉ là gánh nặng cho mọi người mà thôi.

Câu 3:

Anh hùng là anh hùng rơm,

Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.

Nhân dân lao động châm biếm, giễu cợt mạnh mẽ một hạng đàn ông khác trong xã hội. Đó là những kẻ nông nổi không có tài năng, dũng khí, nhưng lại hay khoe khoang, khoác lác, ra vẻ ta đây hơn người.

Không biết thành ngữ anh hùng rơm có từ bao giờ nhưng ý nghĩa của nó thật hay, thật ấn tượng. Nó vẽ lên hình ảnh một kẻ tài năng thì tầm thường, có khi hèn nhát nữa, nhưng mở miệng thì toàn chuyện lớn lao trên trời dưới bể để loè thiên hạ.

Nghệ thuật chơi chữ ở câu ca dao này khá độc đáo. Anh hùng rơm là thành ngữ dùng để chế giễu những kẻ không có can đảm, tài năng nhưng lại hay khệnh khạng, hung hăng, vênh váo. Kiểu câu định nghĩa: Anh hùng là anh hùng rơm, kết hợp với hình ảnh mồi lửa [rơm dễ cháy, ngọn lửa bốc lớn nhưng tắt rất nhanh] cùng cụm từ đặc biệt độc đáo và sáng tạo: Cơn anh hùng, tạo nên xâu chuỗi liên tưởng rất thú vị, từ đó bật ra tiếng cười trào lộng sảng khoái mà thâm thuý. Anh hùng thuộc về tính cách, bản chất của con người; còn cơn anh hùng thì lại hoàn toàn là bốc đồng trong chốc lát, giả tạo mà thôi. Không những không lừa được ai mà lại còn làm trò cười cho thiên hạ. Đối với hạng người này, ta chỉ cần giao cho một việc nhỏ trong hoàn cảnh có khó khăn, thử thách thì bản chất bất tài, hèn kém sẽ lộ ra ngay. Khác nào anh hùng bện bằng rơm, chỉ cần một mồi lửa nhỏ châm vào là cháy rụi thành tro bụi.

Câu ca dao: Anh hùng là anh hùng rơm... như một lời mỉa mai, đay nghiến, dằn mặt những kẻ tự vỗ ngực xưng là anh hùng mà chẳng mảy may làm được việc gì cho xứng đáng. Cải bản chất rỗng tuếch của họ được tác giả dân gian mổ xẻ, phanh phui bằng một cụm từ ngộ nghĩnh là Cơn anh hùng. Quả thật không còn từ nào xác đáng hơn và khinh miệt hơn.

Câu 4:

Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Câu ca dao thứ tư này nói về tâm sự buồn bã, thất vọng và xấu hổ của người vợ có anh chồng lười nhác, hèn kém về mọi mặt.

Cặp từ Chồng người... Chồng em như một cặp đối xứng chứa đựng ý nghĩa so sánh hơn thua. Chị vợ không muốn hạ thấp tài và chí của chồng mình vì như dân gian đã nói: Xấu chàng hổ ai?. Nhưng hiện thực khách quan thì không thể bao che, bênh vực. Người vợ buộc phải thốt ra lời than thở về sự thực rất đáng buồn. Đó là cảnh trái ngược giữa Chồng người và Chồng em, giữa hai thái cực đi ngược về xuôi, tung hoành ngang dọc, thoả chí tang bồng và quanh quanh quẩn quẩn hết ngày này sang ngày khác ngồi bếp sờ đuôi con mèo - một việc làm vô bổ, vô ích và đáng cười. Đó là hình ảnh của những ông chồng đoản chí, nhút nhát, chỉ dám ra vào bảy xó nhà ba xó bếp. Họ không đáng mặt nam nhi, không thể là chỗ dựa đáng tin cậy của vợ con và xã hội.

Trong câu ca dao, hình ảnh người đàn ông hiện lên vừa hài hước vừa thảm hại. Tác giả dân gian đã thâu tóm đúng thần thái nhân vật trong một chi tiết thật đắt, có giá trị khái quát cao, tiêu biểu cho một loại đàn ông èo uột, lười nhác, ăn bám vợ. Chi tiết sờ đuôi con mèo vừa gây cười vừa hàm chứa ý nghĩa phê phán sâu xa: Anh chồng kia có khác gì con mèo lười nhác, trời rét chỉ quanh quẩn ở xó bếp để sưởi và... ăn vụng. Đó là loại đàn ông vô tích sự, không có phong độ của bậc nam nhi. Loại đàn ông này không ít trong xã hội và đã thành đối tượng châm biếm, chế giễu của ca dao:

- Chồng người bể Sở sông Ngô,

Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.

- Làm trai cho đáng nên trai,

Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu.

- Làm trai cho đáng nên trai,

Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con.

- Ăn no rồi lại nằm khoèo,

Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem.

Qua bốn câu ca dao hài hước đã phân tích ở trên, chúng ta thấy nhân dân lao động xưa kia luôn kì vọng vào những trang nam nhi có đức, có tài. Thái độ đối với những kẻ lười biếng, hèn nhát là chế giễu, cười cợt; tuy thế, tính giáo dục, xây dựng không kém phần sâu sắc. Tiếng cười trong từng câu ca dao có sức mạnh phê phán cái xấu, cổ vũ cái tốt, tôn vinh cái đẹp, mang lại cho người đọc không khí vui tươi, hồn nhiên nhưng vẫn không quên nhắc nhở nhau hãy tránh xa những thói hư tật xấu để con người ngày càng hoàn thiện hơn.

Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

1. Bài 1

* Lời dẫn cưới của chàng trai:

- Sử dụng biện pháp liệt kê, chàng trai đưa ra một loạt vật dẫn cưới: voi, trâu bò, chuột béo.

- Lối nói khoa trương, cường điệu, phóng đại: Chàng trai định dẫn cưới bằng những lễ vật rất có giá trị.

=> Chàng trai đang tưởng tượng về một lễ cưới linh đình, sang trọng. Đó là ước mơ của những chàng trai thôn quê về một ngày vu quy sung túc.

- Cách nói giảm dần từ voi – trâu – bò và cuối cùng dừng lại ở con chuột béo: Tái hiện lại hành trình từ tưởng tượng đến trở về với hiện thực của chàng trai.

- Thủ pháp tương phản đối lập được sử dụng tài tình, khéo léo để nói về hiện thực: Dẫn voi – quốc cấm, dẫn trâu – máu hàn, dẫn bò – co gân.

=>Lời giải thích hợp tình hợp lí, chính đáng vì lí do chấp hành pháp luật, lo cho sức khỏe họ hàng hai bên chứ không phải vì chàng trai không có.

=> Cách nói thể hiện sự hài hước, dí dỏm, đáng yêu, thông minh của chàng trai.

- Chi tiết hài hước: “Miễn là có thú bốn chân/dẫn con chuột béo mời dân mời làng”

+ Thú bốn chân gợi ra hình ảnh những con vật to lớn, có giá trị

+ Con chuột béo: Loài vật nhỏ bé, có hại và bị người nông dân ghét bỏ.

+ Sự bất thường của chi tiết: Xưa nay chưa từng thấy ai mang chuột đi hỏi vợ và cũng không thể có một con chuột nào to lớn để có thể mời dân mời làng.

=> Chi tiết hài hước vừa đem lại tiếng cười sảng khoái, vừa thể hiện sự vui tươi, hóm hỉnh của chàng trai, một tâm hồn lạc quan, phóng khoáng, yêu đời.

* Lời thách cưới của cô gái

- Thái độ của cô gái

+ Trước lời dẫn cưới của chàng trai cô gái “lấy làm sang”.

=> Đây là cô gái dí dỏm, vui tươi không kém bạn đời

+ Lời nói “Nỡ nào em lại phá ngang”

=> Ý nhị, khiêm tốn, thông cảm với hoàn cảnh của chàng trai

- Thủ pháp tương phản đối lập: người ta – nhà em, lợn gà – nhà khoai lang

=> Sự độc đáo, bất thường trong lời thách cưới bởi những lễ vật ấy bình dị đến mức tầm thường. Chính điều này đã tạo nên tiếng cười đùa vui, hóm hỉnh

- Lời giải thích của cô gái về yêu cầu của mình:

+ Cách nói giảm dần: To – nhỏ - mê – rím – hà

=> Cô gái sẵn sàng đón nhận những lễ vật tầm thường, không cần lựa chọn, sắp xếp gì.

+ Lễ vật được cô chia phần, sắp xếp hợp lí: Mời làng, mời họ, con trẻ, lợn gà

=> Cô gái là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, khéo léo, sống có trước có sau, coi trọng tình nghĩa.

=> Thông qua lời thách cưới và dẫn cưới bất bình thường của chàng trai và cô gái đã cho thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, hài hước của những chàng trai, cô gái thôn quê trong cảnh nghèo khó. Chàng trai tự ý thức được cái nghèo của mình mà tự trào, tự cười cợt, cô gái thấu hiểu cảnh ngộ của hai gia đình mà vui vẻ đón nhận vì cô là người coi trọng tình nghĩa hơn của cải.

2. Bài 2

- Câu ca dao mở đầu bằng chí “làm trai”

+ Làm trai: Phải mạnh mẽ, cứng cỏi, khỏe khoắn, quyết đoán, là trụ cột của gia đình và xã hội

+ Liên hệ với chí làm trai trong văn dân gian và văn học trung đại

- Thủ pháp tương phản đối lập:

+ “Khom lưng chống gối”: Gợi động tác mạnh mẽ, dứt khoát của một người làm công việc nặng nhọc, vất vả

+ “Gánh”: Hoạt động di chuyển những vật nặng

+ Hai hạt vừng”: Thứ vô cùng nhỏ bé nhỏ bé

=> Tiếng cười được cất lên. Tư thế khoa trương nhưng hành động tầm thường

=> Chế giễu người đàn ông yếu đuối, tầm thường không đáng làm trai

=> Tiếng cười không chỉ đả kích mà còn là lời nhắc nhở sâu cay về thói hư, tật xấu của con người

3. Bài 3

- Cặp từ đối xứng chồng em – chồng người: Chứa đựng ngụ ý so sánh hơn thua

- Chồng người - Đi ngược về xuôi, tung hoành ngang dọc, thỏa chí tang bồng, tháo vát tài giỏi

=> Thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng

- Chồng em – quanh quẩn nơi xó bếp sờ đuôi con mèo, lười nhác, đoản chí, không đáng mặt trang nam nhi

=> Thể hiện sự thất vọng, buồn bã

=> Qua sự đối lập, tương phản, bài ca dao đã nói lên lời tâm sự, niềm thất vọng, xấu hổ của cô vợ có anh chồng lười nhác, hèn kém.

=> Phê phán, chế giễu loại đàn ông lười nhác, thấp hèn, không có ý chí.

=> Là bài học cho những kẻ làm trai, làm chồng về lối sống và phẩm chất.

4. Bài 4

- Hình ảnh người vợ.

+ Quan niệm về người phụ nữ xưa: Dịu dàng, khéo léo, đảm đang, tháo vát, biết chăm sóc cho bản thân, cho chồng con. Nhưng người vợ trong bài ca dao lại được khắc họa vô cùng đặc biệt.

+ Ngoại hình: lỗ mũi mười tám gánh lông

=> Hình ảnh phóng đại bất ngờ tạo ra tiếng cười sảng khoái. Bài ca dao sử dụng cách chơi chữ “gánh lông” để miêu tả về một chiếc mũi kinh dị, kì quái

+ Những tật xấu: Đêm nằm gáy o o, đi chợ hay ăn quà, bẩn thỉu [trên đầu những rác cùng rơm]

=> Phép liệt kê tăng tiến những thói xấu của cô vợ không chỉ ở nhà mà còn ra ngoài cả xã hội, phóng đại làm nổi bật những tật xấu, sự vô ý tứ không thể chấp nhận ở một người phụ nữ.

=> Chế giễu người phụ nữ xấu người xấu cả nết, vô duyên đỏng đảnh.

- Hình ảnh người chồng:

+ Trân trọng chiếc mũi kinh dị của vợ, xem đó là của hiếm “râu rồng trời cho”.

+ Trước những tật xấu của vợ, anh chồng còn bao biện mà không góp ý: “gáy cho vui nhà”, “về nhà đỡ cơm”, “hoa thơm rắc đầu”.

=> Người chồng yêu thương, nâng đỡ, che chở cho vợ một cách mù quáng, bao biện cho vợ bằng những lí lẽ ngụy biện, phi lí.

III. Kết luận

- Nêu cảm nhận chung

Bài mẫu

       Ca dao hài hước, châm biếm là một bộ phận không thể không thể thiếu của kho tàng ca dao Việt Nam. Những bài ca dao hài hước là tiếng cười mua vui, giải trí thỏa mãn về nhu cầu giải trí tinh thần của người lao động xưa. Bài ca dao còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động, họ là những người lạc quan, yêu đời.

       Bài ca dao thứ nhất là tiếng cười tự trào, mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái trong việc thách cưới vô cùng lạ lùng, thú vị. Bài ca dao có lối kết cấu đối đáp, lượt lời đầu tiên là của chàng trai, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, anh chàng đã nói về những lễ vật của mình. Nhưng cách nói lại sử dụng biện pháp đối lập: tự nêu ra nhưng chính anh chàng lại tự phủ định: Cưới chàng anh toan dẫn voi/ Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn/ Dẫn trâu, sợ họ máu hàn/ Dẫn bò sợ nhà nàng co gân./ Miễn là có thú bốn chân./ Dẫn con chuột béo mười dân, mời làng. Lí lẽ anh chàng đưa ra vô cùng hài hước: Dẫn voi thì sợ quốc cấm ; Dẫn trâu thì sợ họ máu hàn ; Dẫn bò thì sợ họ co gân. Và cuối cùng kết luận dùng con chuột béo mời dân mời làng, hi vọng con chuột béo ấy sẽ đủ để mời dân mời làng. Đáp lại lời chàng trai cô gái cũng hết sức ý nhị, dỉ dỏm, cô thách cưới một nhà khoai lang. Số khoai lang được phân phát theo trình tự hết sức hợp lí : cho dân, cho làng, cho trẻ con và cho cả những con vật trong nhà. Những lời đối đáp ấy đã cho thấy sự chu đáo, biết lo toan, đồng thời cũng rất hồn nhiên, yêu đời của cô gái. Bài ca dao thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, ham sống của người lao động trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những chàng trai, cô gái xưa : Chàng trai mang trong mình sự hài hước, lạc quan, vui vẻ, tình cảm chân thành, còn cô gái là sự bằng lòng, vui vẻ, đảm đang, tháo vát, tình cảm và sự chu đáo dành cho làng xóm, họ hàng xung quanh.

       Bài ca dao số hai, số ba đều tập trung phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Câu thơ mở đầu bằng mô tip quen thuộc làm trai, nhưng có những điểm khác biệt: Làm trai cho đáng sức trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. Câu thơ đầu cho thấy chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh, như đang gánh vác việc to lớn, việc giang sơn xã tắc. Nhưng câu thơ thứ hai đã cho thấy rõ công việc anh ta gánh vác gánh hai hạt vừng. Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, câu thơ đầu nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, để phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác, hèn yếu về tinh thần. Quả thật đáng lên án, phê phán.

       Bài ca dao sau :

Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

       Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa chồng người và chồng em, đồng thời gợi lên sự đối lập về không gian: đi ngược về xuôi còn chồng em không gian hoạt động chỉ ở nơi xó bếp, không gian bếp núc vốn của phụ nữ. Để hoàn chỉnh bức tranh về anh chồng nhu nhược, yếu đuối là hành động sờ đuôi con mèo. Qua đó tiếng cười bật lên, hướng vào những ông chồng vô tích sự, lười nhác.

       Bài ca dao cuối cùng phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, vô duyên. Trong truyện cười dân gian, các tác giả dân gian thường lấy đối tượng là nam để châm biếm, phê phán như tham lam, khoác lác, lười biếng nhưng người con gái lại rất ít khi trở thành đối tượng để châm biếm, đả kích. Ca dao đã hoàn thiện sự khuyết thiếu đó. Hình ảnh người phụ nữ ẩu đoảng, lười biếng hiện lên vô cùng rõ nét: Lỗ mũi mười tám gánh lông/ Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho/…/ Trên đầu những rác cùng rơm/ Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. Bài ca dao chế giễu những người đàn bà đỏng đảnh, vô duyên: Hình dáng thô kệch, xấu xí, có nhiều thói quen xấu: Luộm thuộm, bẩn thỉu. Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị đồng thời cũng phê phán những người chồng mù quáng, vì quá yêu vợ mà không phân biệt tốt – xấu, thực – hư.

       Ba bài ca dao, tiếng cười ở đây tập trung phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của nhân dân với cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.

       Ca dao hài hước châm biến thành công đều nhờ việc xây dựng tình huống gây cười, hàm chứa những mâu thuẫn gây cười. Biện pháp khoa trương, phóng đại được sự dụng thành công ở cả bốn bài ca dao. Ngoài ra biện pháp nâng cao ở phía trước hạ thấp ở phía sau cũng phát huy tác dụng để phê phán những cái xấu, cái tiêu cực trong xã hội.

       Bài ca dao là lời châm biếm hài hước, nhẹ nhàng những thói hư, tật xấu trong xã hội. Đồng thời bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động xưa: sự lạc quan, yêu đời của họ trong cảnh đời còn nhiều khó khăn, vất vả.

Nguồn: Sưu tầm

Loigiaihay.com

Video liên quan

Chủ Đề