Dàn ý khổ 3 bài Tây Tiến ngắn gồn
Dưới đây là bài cảm nhận khổ 3 tây tiến là đề văn thường gặp trong chương trình Ngữ văn THPT. Để hiểu, làm tốt đề văn này, các em cần đọc kỹ khổ thơ, tập trung phân tích hình ảnh những người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn ánh lên sự lạc quan, yêu đời. Chi tiết dàn ý + văn mẫu phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến hay, chọn lọc sẽ được tổng hợp ở bài viết dưới đây. Hãy tham khảo ngay với Vozz nhé. Khái quát bài Phân tích vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều trong Chị em Thuý Kiều 27 phút ago Chuẩn bị cho Lớp học Nói về một trong những trải nghiệm của bạn kết nối kiến thức 6 53 phút ago Phân tích dàn ý của Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền bảo vệ và phát triển của trẻ em 1 giờ ago Mẹo Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ hay, cuốn hút Video cảm nhận về bài thơ tây tiến khổ 3 I. Lập dàn ý khổ 3 bài tây tiến1. Mở bài: Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến >> Tham khảo thêm nhiều cách viết mở bài bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng tại đây 2. Thân bài: Khái quát chung: Những nội dung cần phân tích: Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về người lính không thể nào quên. 3. Kết bài: Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên II. Bài văn mẫu Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng1. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 1:Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê quên được hình ảnh đoàn quân ấy: Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế: Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Quân xanh ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa. Mộng và mơ cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu mơ những bóng dáng thân yêu. Dáng kiều thơm, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, tố cáo nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ đẹp một cách lãng mạn này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải trải bao gió dập, sóng dồn. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mồ viễn xứ của những người con chết xa nhà. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn. Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh anh về đất? Anh về đất là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi. Bài văn Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng -HẾT BÀI 1 Để hiểu rõ hơn về bài thơ Tây Tiến cũng như các yếu tố bi tráng, hào hùng, lãng mạn trong bài thơ, các em học sinh có thể tham khảo các đề văn phân tích Tây Tiến khác như:Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến, Phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa qua bài thơ Tây Tiến, Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến, So sánh Đồng Chí với Tây Tiến, 2. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 2:Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng: Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: Còn ở đây,nhắc đến hình ảnh Đoàn binh không mọc tóc,tác giả đã gợi lại hình ảnh anh vệ trọc một thời.Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt: những con suối độc,những trận sốt rét rừng đã làm cho ngừoi lính xanh xao, rụng tóc.Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản.Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: không mọc tóc chứ không phải là tóc không mọc. Không mọc tóc có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến. Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng biên cương,viễn xứ đã làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Đời xanh tuổi trẻ biết bao hiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh da ngựa bọc thây đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh áo bào thay chiếu đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là áo bào. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn:Hồn tử sĩ gió ù ù thổi mà được bao bọc trong một âm hương hùng tráng:Sông Mã gầm lên khúc độc hành. 3. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 3:Quang Dũng (1921 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến: Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ Mây đầu ô (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quânTây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến hay nhất Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng. Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức trừng lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ. Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên cương, mồ, viễn xứ, chiến trường kết hợp với từ láy rải rác đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói chẳng tiếc đời xanh vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm anh về đất làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. 4. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 4:Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ: Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm tháng mưa bom bao đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình. Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ trước, thiên nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào. Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngây ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng không mọc tóc để miêu tả đoàn binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn ngày đêm phải chống trọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này: Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn oai hum khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến. Phân tích khổ ba bài thơ Tây Tiến mẫu số 4 Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ. Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó. Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc áo bào thay chiếu khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết xước sâu không thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người. Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên. 5. Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, bài mẫu số 5:Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về Tây Tiến, với những kỉ niệm một thời. những khó khăn trong cuộc sống và chiến đấu. cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân Tây Bắc. Bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt đẹp của họ. Môt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên trong lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ. Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn vệ trọc vệ đỏ để kẻ thù không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào. Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với bài Tây Tiến ta những người chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thật không phải là nói quá hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tốn cho mình. Đó là cái tên khác của Tây Tiến: đoàn quân không mọc tóc. Cũng như Phạm Tiến Duật gọi đoàn xe không kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể hiện sự lạc quan và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống. Cả đoàn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng dữ oai hùm tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ. Hai câu mang hai chữ mộng và mơ. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao tâm nguỵên, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. Mắt trừng không phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. Chữ mộng khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi: Nhớ người yêu hay nhớ dáng kiều thơm làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để không gục bởi hoàn cảnh trứơc khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa. Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một nén hương, không nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thảm, nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một khi đã đi thì không quay đầu trở lại. Dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói không tiếc thì cũng không thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm đưọc, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của từng khẳng định không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước. Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo kia chính là áo bào như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang trọng vì là chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyến suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều ngưòi không hiểu được. Họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang. Trên đây là 5 bài mẫu phân tích khổ 3 của bài Tây Tiến mà Taimienphi.vn sưu tầm, tổng hợp được. Hy vọng với những gợi ý trong bài viết này, các em sẽ hiểu, cảm nhận rõ hơn cách làm bài văn phân tích à thấy được hình tượng những người lính Tây Tiến can trường, hào hoa, lãng mạn, bi quan mà không bị lụy. Ngoài ra, để học tốt môn Ngữ văn lớp 12, các em học sinh có thể tham khảo thêm các bài văn hay, tuyển chọn khác nhưSoạn bài Bên kia sông Đuống,Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh,Soạn bài Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học,Phân tích bài thơ Việt Bắc,
|