Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay không

Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay

18/11/2020 194

Câu hỏi Đáp án và lời giải Ôn tập lý thuyết
Câu Hỏi:
Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay không?
A. Có B. Không
Câu hỏi trong đề: Trắc nghiệm bài Phong cách ngôn ngữ báo chí
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: A

Điền Chính Quốc (Tổng hợp)

Ôn tập lý thuyết
Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.

Phương pháp tu từ ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.75 KB, 21 trang )

Mục lục
I, Mở đầu.
1, Lời mở đầu.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, báo chí đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Chưa bao giờ chúng ta lại thấy những tờ báo xuất bản nhiều
đến thế, và còn có các tờ báo mạng, các trang web của báo in. Đó cũng là điều
dễ hiểu bởi đời sống vật chất của con người ngày càng nâng cao thì nhu cầu
hưởng thụ về tinh thần cũng tăng dần. Vì vậy, muốn thu hút được nhiều độc
giả đến với mình các tờ báo phải nâng cao cả chất lượng cả hình thức. Đặc
biệt là chú trọng đến việc sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt. Nói cách khác là phải
chú trọng đến các thủ pháp nhằm tăng giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí.
Bởi viết gì đã là quan trọng, song như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy các nhà
báo là “viết cho ai” còn quan trọng hơn. Đây cũng là điều kiện tiên quyết tạo
ra sức mạnh, sự độc đáo cũng như tạo ra cái “duyên ngầm” cho tờ báo, từ đó
gây ấn tượng cho độc giả khiến họ cứ dần dần trở thành người bạn thân thiết
của báo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các thủ pháp nghệ thuật tạo ra giá
trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí đối với mỗi tờ báo, tôi_người viết tiểu luận
xin đúng ghóp sức nhỏ bé nghiên cứu, khảo sát thủ pháp này với mong muốn
khám phá tìm hiểu rõ hơn bản chất cách thức và việc sử dụng như thế nào cho
tốt nhất.
2, Mục đích nghiên cứu đề tài.
Nguyên tắc để có một bài báo tốt là không chỉ cần tính chân thật, chính
xác mà còn có tính biểu cảm.
Và để có tính biểu cảm trong báo chí thì một trong những phương tiện
giúp tăng tính biểu cảm đó là sử dụng phép tu từ là ẩn dụ. Vì vậy ẩn dụ có vai
trò quang trọng trong ngôn ngữ báo chí, ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí không
phải là cách dùng ngôn từ đặc biệt để trang sức như những mỹ từ trống rỗng.
Ngược lại, ẩn dụ trở thành hương vị và cảm xúc chân thật của đời sống ngôn
ngữ báo chí. Cũng không giới hạn ở phép dựng từ hình ảnh so sánh mà xa hơn
2


thế nữa , ẩn dụ đi vào thế giới lập ngôn đầy màu sắc của ý niệm. Ẩn dụ luôn
mang sức sống mới cho ngôn từ, làm cho ngôn từ ngày càng biểu cảm.
Ẩn dụ là những tia sáng được chủ thể lập ngôn thắp lên từ nền mang
nghĩa đen của từ vựng - ngữ pháp đến thế giới văn bản sống động màu sắc
hình ảnh với mục đích quan trọng là tạo ra và tăng thêm hiệu quả hấp dẫn tò
mò với người đọc trong báo chí.
Dựng ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí thường mang tính văn cảnh. Nó là
sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân. Có thể nói không
theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một cách hình ảnh như
trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một phương tiện đối lập
với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của độc giả
nhưng lại gây ấn tượng hơn.
→ Từ đó mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng sử dụng ẩn dụ
trong báo chí và đưa ra một nhận định đúng đắn về việc sử dụng ẩn dụ sao
cho phù hợp,và không lạm dụng nó để giật tít, gây tò mò mà nội dung thì
nhàm chán.
3, Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Để tìm hiểu việc sử dụng ẩn dụ trên các loại hình báo chí hoặc khảo
sát nhiều tờ báo cùng một lúc là đề tài rất rộng. Vì vậy tôi đã chọn tập trung
nghiên cứu khảo sát một tờ báo mạng là tờ báo VnExpress. Và để tìm hiều
việc sử dụng ẩn dụ trong các bài báo của VnExpress, tôi đã tiến hành khảo sát
trong 2 đợt, đợt 1 từ ngày 28 đến 7/12/2011 và đợt 2 từ ngày 14 đến ngày
15/12/2011.
4, Phương pháp nghiên cứu.
Với chủ đề này, tôi đã nghiên cứu việc sử dụng ẩn dụ trong báo mạng
VnExpress. Nghiên cứu theo ngày để tìm ra các bài báo sử dụng ẩn dụ để
phân tích tác dụng của ẩn dụ trong bài báo, nhà báo muốn sử dụng ẩn dụ để
phản ánh thưc trạng nào đó, hay phê phán,lên án…một vấn đề nào đó. Đồng
thời xem xét nhà báo sử dụng tính ẩn dụ đó có phù hợp không và đưa ra nhận
xét, phương pháp sử dụng tính ẩn dụ.

3
II, Nội dung
1, Khái quát chung về báo mạng VnExpress.
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay thì báo mạng đã phát triển
rất mạnh, được nhiều công chúng đón nhận nhất là độc giả thanh thiếu niên và
những người có tri thức…bởi báo mạng cung cấp thông tin nhanh hơn, những
thông tin mới, “nóng” sẽ được các nhà báo đưa ngay lên trên các trang báo
mạng nhanh và kịp thời nhất.
Ngày 26/2/2001, VnExpress là báo đầu tiên của Việt Nam được cấp
phép chuyên hoạt động trên Internet.Tổng biên tập là Thang Đức Thắng.
Trong 10 năm qua, VnExpress luôn giữ vững là báo điện tử tiếng việt có
nhiều người xem nhất toàn cầu. Trong 6 tháng đầu sau với địa chỉ 300.000 địa
chỉ IP, thường xuyên truy cập VnExpress, vươn lên dẫn đầu trong số các
Website tiếng việt toàn cầu. Hiện nay thì báo mạng này đón nhận 30 triệu lượt
truy cập mỗi ngày, trong đó có số lượng lớn người nước ngoài. Lý do nhiều
độc giả đón đọc VnExpress là do VnExpress là báo mạng đi tiên phong. Ngay
từ đầu, quan điểm của những người lãnh đạo VnExpress đưa ra điểm khác
biệt giữa báo mạng và báo in là tốc độ cập nhật và phong cách đưa tin. Đồng
thời không áp đặt ý kiến của phóng viên, độc giả tự do được nhận xét, tự do
tiếp nhận thông tin. Phóng viên đưa ra những bài báo vừa thông tin mới, vừa
chính xác và biểu cảm.Tính biểu cảm hấp dẫn bằng cách sử dụng các biện
pháp tu từ trong đó có biện pháp ẩn dụ.
2, Khái niệm ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ.
2.1, Khái niệm.
Từ ẩn dụ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mé taphora , có nghĩa là sự
chuyển nghĩa giữa từ và nhóm từ dựa trên mối quan hệ giống nhau ít nhiều
mang tính rõ ràng. Khác với so sánh, ẩn dụ dựa trên các cấu trúc cú pháp
phức tạp hơn. Bởi nó không có những mối quan hệ so sánh rõ ràng.
4
Từ điển ngôn ngữ học của Jean Dubois định nghĩa : ẩn dụ là dựng

một danh từ cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng mà không có nhiều mặt
của những từ, cụm từ chỉ so sánh. Hay nói rộng hơn là việc dựng tất cả những
từ mà từ này có thể được thay thế bằng một từ khác có những điểm tương
đồng sau khi bỏ qua tất cả những từ dựng để so sánh ( như, bằng, tựa…).
Theo G.S Đỗ Hữu Châu thì ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này
bằng tên một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng.
Theo sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6 của Bộ Giáo Dục thì định
nghĩa : ẩn dụ là biện pháp dựng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối
tượng khác dựa trên sự liên tưởng về mối tương đồng giữa hai đối tượng về
mặt nào đó ( như màu sắc, tính chất, trạng thái ).
Nguyễn Đức Tồn (Ngôn ngữ số 9/07) định nghĩa khá đủ về ẩn dụ,
nhấn mạnh đến khía cạnh chuyển nghĩa của ẩn dụ hơn là trói buộc ẩn dụ ở
phép dựng từ. “Ẩn dụ là phép thay thế gọi tên hoặc chuyển đặc điểm, thuộc
tính của sự vật hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất
hoá chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó có ở chúng”. Phan Thế Hưng
(ngôn ngữ số 4/07) đưa ẩn dụ từ chỗ so sánh ngầm sang cấu trúc bề sau về tư
duy. Thông qua dạng câu bao hàm xếp loại : “ẩn dụ không đơn giản là phép
so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu trúc bề sâu của tư
duy.
2.2, Các kiểu ẩn dụ.
Như trên đã nói, ẩn dụ dựa vào sự giống nhau cho nên căn cứ vào
tính chất của sự giống nhau có thể chia ẩn dụ thành các kiểu như sau :
_ Sự giống nhau về hình thức.
Ví dụ : mũi người và vật – mũi thuyền, mũi kim, mũi Cà Mau.
_ Sự giống nhau về màu sắc.
Ví dụ1 : màu lơ, màu da trời,màu râu, màu da cam, màu cỏ úa, màu xu
hào, màu ốc bươu ,…
5
Ví dụ 2: “ Hành trình 2U ngập màu xanh tình nguyện” ( VnExpress
2/12/2011) màu xanh tình nguyện đã được biết đến với màu áo của những

thanh niên đi làm tình nguyện giúp đỡ mọi người gặp khó khăn trên mọi miền
đất nước.
_ Sự giống nhau về chức năng.
Ví dụ : Trước đây, đèn chủ yếu thắp bằng dầu, nay các phương tiện
thắp sáng đều gọi là đèn như đèn điện, đèn ắc quy, đèn pin, …
Trước đây chỉ có quạt tay làm bằng tre hay vỏ cây cau (mo cau),
ngày nay có quạt cây, quạt trần…
_ Sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó.
Ví dụ 1: đất khô – tình cảm khô, lời nói khô, mướp đắng, ớt cay - một
ý nghĩa đắng cay.
Ví dụ 2 : “ Tắt lửa tình, phòng the nguội lạnh” (VnExpress
1/12/2011) thì “lửa” ở đây không phải là lửa dựng để đun nóng nhưng “lửa
tình” đây là ngôn ngữ dùng trong quan hệ vợ chồng. “Nguội lạnh” ở đây
không chỉ sự lạnh lẽo của căn phòng mà là chỉ tình cảm của vợ chồng không
còn hạnh phúc như trước.
Ví dụ 3 : “ Phóng viên tương lai nhảy bốc lửa” thì lửa ở đây có nghĩa là
điệu nhảy hết sức và thu hút được sự chú ý đối với người xem. “Bốc lửa”
khog có nghĩa là khói lên mà là điệu nhảy lôi cuốn.
_ Sự giống nhau về một đặc điểm, một vẻ ngoài nào đó.
Ví dụ1 : phụ nữ xấu xí bị gọi là Thị Nở, ai hay ghen thì gọi là Ôtenlô
hay Hoạn Thư, ai phản ứng tiêu cực bị gọi là Chí Phèo, những kẻ con trai hay
lừa tình gọi là Sở Khanh…
Ví dụ 2 : Thân cũ lặn lội nuôi chồng con sống thực vật (VnExpress
ngày 1/8/2010 ) lấy hình ảnh con cũ để nói về người phụ nữ vất vả làm việc
để nuôi, chăm sóc chồng con bị bệnh tật khổ sở.
Ví dụ 2 : “ Chợ tình” trước công viên hiện đại nhất thủ đô
6
…8 cô gái “ bán hoa” hoạt động ở đây đã được đưa vào Trung tâm
lao động xã hội số 2 ( VnExpress ngày 14/6/2011)
Các từ như : “ chợ tình” thực tế là tên gọi của một chợ ở Sapa có tên

gọi là chợ tình được tổ chức vào mùa xuân nhằm là nơi vui chơi, mua sắm,
gặp gỡ của các đôi trai gái. Nhưng trong bài báo này “chợ tình” là nơi mua
bán dâm. Cũng như thế “bán hoa” ở đây không phải là những người bán hoa
mà là những người bán đi cái thân xác, sự trong trắng của con người mình.
_ Những ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng.
Ví dụ : nắm vốn biểu thị “động tác cụ thể của bàn tay”, nhưng có thể
nói : nắm ngoại ngữ, nắm tình hình, nắm bài,… Những các nói khác như lửa
căm thù sôi sục, sợi chỉ đỏ quán xuyến,… cũng thuộc loại ẩn dụ như thế.
_ Chuyển tên các con vật thành tên người.
Ví dụ1 : con mèo con của anh, cơn con của mẹ,…
_ Chuyển tính chất của sinh vật sang sự vật hay hiện tượng khác. Loại
ẩn dụ này thường được coi là hiện tượng nhân cách hoá.
Ví dụ : thời gian đi, con tàu chạy, gió gào thét,
3. Khảo sát việc sử dụng ẩn dụ trên VnExpress.
Để hiểu rõ về khái niệm và các kiểu ẩn dụ, tôi đã đi vào khảo sát việc
sử dụng ẩn dụ ở báo mạng VnExpress.
3.1, Khảo sát ngày 28/11/2011.
Các bài báo sau cóđầu đề, hoặc sapo,hoặc đoạn báo sử dụng ẩn dụ:
Bài báo 1 :
Sản phụ mất con do bác sĩ thờ ơ.
Chị Hồ Thị Thanh Tâm ở Cần Thơ có dấu hiệu sinh đến bệnh viện chờ
cả buổi nhưng không được bác sĩ thăm khám cẩn thận. Đến chiều tim thai bất
thường , kết quả siêu âm thai chết lưu, bác sĩ vẫn từ chối mổ bắt con.
→ “ Mổ bắt con” được nhà báo sử dụng ẩn dụ, vì thai đã chết trog bụng
mẹ thì có thể nói là “mổ lấy thai ra khỏi bụng mẹ” nhưng nhà báo viết “mổ
bắt con” có nghĩa là nhà báo tỏ thái độ tôn trọng đứa bé dự nó đã mất nhưng
7
vẫn là một con người, đồng thời tỏ thái độ mỉa mai, căm phẫn trước thái độ
của những người bác sĩ thờ ơ trước một mạng người.
Bài báo 2:

Tai nạn phòng the của quý bà.
Chị Hoa (45 tuổi, TP HCM) đau rát, chảy máu liên tục “ vùng hậu
cung” khi quan hệ với chồng. Vì mất máu, chị nhập viện một mình và ngần
ngự tiết lộ nguyên nhân thủng cùng đồ là do trượt chân ngã trong toilet và bị
vật nhọn đõm….
…Một số phụ nữ trẻ (30 – 40 tuổi) kiệm lời hơn do không sáng tác
được nguyên nhân gây tai nạn. Đa số phàn nàn về việc ra bất bình thường ,
rong kinh, tránh tiết lộ thời điểm tai nạn chính là lúc “gặp chồng”.
→ “ Vùng hậu cung” thường được gọi là nơi nghỉ ngơi của các Hoàng
hậu, công chúa, vương phi, mỹ nữ trong Hoàng cung. Nhưng trong bài viết
này thì không có ý thế mà nhà báo ẩn dụ “ vùng hậu cung” ý nói đến vùng kín
của phụ nữ.
“Gặp chồng” thì làm sao xảy ra tai nạn gì được mà là bài báo muốn nói
là lúc quan hệ tình dục giữa vợ chòng với nhau đã xảy ra tai nạn bị đau rát
hay đâm thủng cùng đồ.
Từ điều này nhà báo sử dụng biện pháp ẩn dụ cũng để phản ánh thực
trạng tính ngại ngùng của người phụ nữ trong vấn đề nhạy cảm, và dự vấn đề
ấy ảnh hưởng đếnsức khoẻ, tính mạng cuả chính họ.
Bài báo 3 :
Gia đình khốn khó nuôi hai con tật nguyền.
Với cậu con trai bị viêm não và một cơ con gái bị teo cơ bẩm sinh, gia
cảnh của chị Nguyễn Thị Quyên ở xóm 9, xã Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ
An đã nghèo còn gánh thêm muôn nỗi vất vả. Họ chưa bao giờ có nụ cười
trọn vẹn.
→ Trong bài báo này nhà báo sử dụng cụm từ “ nụ cười trọn vẹn”
không có nghĩa là chị Nguyễn Thị Quyên chưa bao giờ cười một nụ cười vui
8
vẻ mà có nghĩa là nói đến cuộc sống của chị, gia đình chị chưa bao giờ được
hạnh phúc trọn vẹn vì gia cảnh đã nghèo khổ, lại có hai đứa con tật nguyên
nên muôn phần vất vả hơn, bởi chị phải lo toan cho gia đình, cho con, đó là

nỗi buồn, nỗi vất vả của chị. Và chỉ khi nào cuộc sống tốt hơn thì chị mới bớt
đi một phần gánh nặng. Ẩn dụ là ở chỗ từ một cụm từ ấy mà nhà báo muốn
gửi gắm nhiều điều, không chỉ là nói lên nỗi vất vả của gia đình chị Nguyễn
Thị Quyên mà còn làm cho độc giả tò mò đọc tiếp vì sao gia đình chị lại chưa
bao giờ có nụ cười trọn vẹn, mong những người có tấm lòng hảo tâm sẽ giúp
đỡ chị để cuộc sống của chị sẽ bớt khó khăn đi trong cuộc sống. Đồng thời
động từ “gánh” đã được kết hợp với cụm từ “thêm muôn nỗi vất vả”, đây
là ẩn dụ đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ gánh thường đi với những từ mang
nghĩa cụ thể như gánh lúa, gánh khoai, gánh hoa…nhưng đây là gánh muôn
nỗi vất vả. “Gánh” luôn thể hiện sự nặng nhọc, khó khăn, vất vả. Vậy mà gia
đình chị còn “gánh muôn nỗi vất vả” có làm cho sự vất vả chông gai được
biểu hiện lên gấp hàng trăm,nghìn lần.
3.2, Khảo sát 29/11/2011.
Một số bài sử dụng ẩn dụ:
Bài 1.
Nông dân bán vợ sau mùa vụ thất thu.
Các người nông dân ở Bundel Uttar Pradesh miền bắc Ấn Độ đang rao
bán vợ mình cho những ông chủ nợ để sống sót qua mùa vụ trắng tay, với giá
từ 4 nghìn đến 12 nghìn ruppe (khoảng 50 đến 150 nghìn bảng Anh).
→ Ở đây người viết sử dụng kiểu ẩn dụ kết hợp tay là bộ phận người để
kết hợp vời từ tay, “trắng tay” là ý nói người này không còn một chút tài sản
nào. Sử dụn ẩn dụ nhằm nhấn mạnh sự không có tài sản, không có tiền của
những người dân đến nỗi phải bán vợ, để sống qua mùa vụ thất thu.
9
Bài 2:
Bộ 11 tuổi mắc bệnh lạ hiểm nghèo.
Chưa đầy 1 tuổi nhưng cô bé Đậu Thị Quỳnh ( huyện Diễn Châu, Nghệ
An) đã mang trong mình căn bệnh hiểm mà nước ta không thể chữa được.
Nhìn em toàn thân tím tái, đôi mắt thơ ngây mở to, không biết đến nguy cơ
tử vong đang lơ lửng trên đầu mà ai cũng xót thương.

→ Người viết bài báo này sử dụng kiểu ẩn dụ giống nhau về màu sắc
(màu tím- tím tái), giống nhau về tính chất, thường vật treo “lơ lửng” nhưng
nhà báo sử dụng lơ lửng lại là “nguy cơ tuỷ vong”. Như vậy nhà báo muốn
nhấn mạnh về tình trạng của bộ Quỳnh, sức khoẻ yếu, và nguy cơ tử vong
cao.Từ đó nói lên tình cảnh của gia đình và bộ để gióng lên một hồi chuông
mong mọi người giúp đỡ.
3.3, Khảo sát ngày 30/11/2011.
Một số bài báo có tít (đầu đề) sử dụng tính ẩn dụ.
Bài thứ nhất :
Chết vì cơn điên “Black Friday”
→ Đây là tiêu đề ( tớt) của một bài báo, đọc tít này mà chưa đọc nội
dung của bài thì độc giả không hiểu cơn điên “Black Friday” là gì mà. Đây
không phải là những người bị bệnh về thần kinh mà người ta thường gọi là
điên mà là những người mua sắm trong kỳ giảm giá của siêu thị Black Friday,
họ chen chúc nhau mua sắm mà quên đi việc cứu người. Một ông chủ cửa
hàng lên cơn hen suyễn và đã bị bỏ mặc không có ai nhìn thấy mà giúp đỡ
ông ta cả. Bài báo với tiêu đề trên sử dụng biền pháp ẩn dụ vừa để giật tít, gây
tò mò cho người đọc vừa để phản ánh thực trạng mua sắm trong kỳ giảm giá
chào mừng noel, lên án sự thờ ơ của con người vì mục đích cá nhân mà quên
đi việc cứu người.
10
Bài thứ hai.
Dựng xe công làm xe hoa.
→ Cũng là một cái tít của bài báo, nhà báo đã sử dụng ẩn dụ thuộc kiểu
ẩn dụ giống nhau về chức năng. Trước đến giờ có các loại xe như xe ôtô, xe
máy, xe đạp…nhà báo đã đưa ra cụm từ xe công và xe hoa và dưới là hình
ảnh của xe ôtô mang biển số 80….Xe công là thuộc xe của cơ quan nhà nước,
xe hoa là xe dùng trong việc cưới hỏi. Bài báo phản ánh có một số người đã
lợi dụng chức quyền để dựng xe công cho việc riêng, việc cưới hỏi của gia
đình mình. Điều này vừa nói lên thực trạng lợi dụng chức quyền, vừa nói lên

nhiều điều khác nữa không chỉ giới hạn ở một chiếc xe công. Một khi đã lợi
dụng xe công được thì những người có chức quyền còn có thể lợi dụng được
nhiều thứ hơn nữa như lợi dụng chức quyền để ăn hối lộ, để thăng chức…chỉ
một bài báo sử dụng tính ẩn dụ nhưng lại nói lên được nhiều điều hơn thế
nữa.
Bài thứ ba :
Hoàn thành con đường đau khổ.
Giám đốc Sở giao thông Vận tải Hà Nội Nguyễn Quốc Hùng cho biết,
Sở đang đốc thúc các nhà thầu trên quốc lộ 32 phấn đấu trước tết Âm
lịch.Hiện tuyến đường này đã được thông xe.
…Quốc lộ 32 được mệnh danh là con đường đau khổ vì bụi, ổ gà, gây
bức xúc trong dư luận, từng được các đại biểu chất vấn Bộ trưởng Giao thông
vận tải về việc chậm tiến độ.
→ “Con đường đau khổ” làm cho nhiều người chú ý vì nhiều người
không biết quốc lộ 32,Hà Nội, sao lại gọi là con đường đau khổ. Đây là kiểu
ẩn dụ chuyển tính chất sang hiện tượng khác. Được gọi là hiện tượng nhân
cách hoá, làm cho con đường từ 1 vật vụ tri, vụ giác thành con đường có
những tình cảm như con người. Mục đích là nói đến vấn đề người tham gia
giao thông phải đau khổ khi đi qua con đường đang thi công giang dở, mãi
không hoàn thành, người dân phải hứng chịu bụi, ổ gà…và như một nỗi ám
11
ảnh khi đi qua con đường này. Đồng thời hi vọng cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ đốc thúc hoàn thành con đường một cách sớm nhất có thể, để con
đường không mệnh danh là con đường đau khổ.
3.4, Khảo sát ngày 1/12/2011.
Một số bài báo có trích đoạn báo, hoặc đầu đề (tớt), hoặc sapo sử dụng
ẩn dụ :
Bài thứ nhất :
Chịu cực hình để có chân dài.
Sở hữu khuôn mặt xinh xắn, nhưng Hằng (19tuổi,Hà Nội) lại có chiều

cao khiêm tốn nên cơ quyết định đi kéo chân dài. Tuy nhiên, sau phẫu thuật
mấy ngày cơ đã hối hận vì những cơn đau thấu óc, chưa kể phải ngồi yên 3
tháng liền.
→ Ở bài báo này nhà báo đã sử dụng ẩn dụ đi từ cụ thể đến trừu tượng.
“Khiêm tốn” thường được chỉ một đức tính của con người nhưng trong bài
báo này lại đi sau cụm từ “chiều cao” thì đây không phải là đức tính của một
người nữa mà “ chiều cao khiêm tốn nhằm để nhấn mạnh chiều cao của cô gái
có tên Hằng này là thấp (lăn), để từ đó đưa ra vấn đề là cơ muốn đi phẫu thuật
thẩm mỹ để kéo chân dài ra.
Bài thứ hai:
Tắt lửa tình, phòng the nguội lạnh.
Vẫn rất yêu chồng nhưng chuyện chăn gối dần trở thành “nghĩa vụ bất
khả kháng” đối với chị Ngọc Mai (41 tuổi, quận 3, Tp HCM). Mọi cảm hứng
nồng nàn đều biến mất. Dường như chồng chị cũng nhận ra điều đó.
Chị Ngọc Mai chia sẻ : “đầu ấp tay gối gần 20 năm chẳng sao, bỗng
gần đây cứ thấy chồng mình trở mình là tôi lại lo lắng sợ bị đòi chuyện ấy”.
Tình trạng này diễn ra nhiều lần khiến chồng chị chán, hay bỏ ra phòng khách
ngủ. Lúc đó chị nửa mừng, nửa lo chồng ra ngoài tìm phở.
→ Ở đây nhà báo đã sử dụng ẩn dụ với các kiểu ẩn dụ như “tắt lửa tình,
phòng the nguội lạnh” là sự giống nhau về thuộc tính,tính chất.
12
Ở đâu lửa không phải là lửa để đun nóng,làm chin mà ẩn dụ đó là tình
cảm,quan hệ vợ chồng giảm hoặc ít đi. “phòng the nguội lạnh” không có
nghĩa là căn phòng của hai vợ chồng bị lạnh mà chính là nói tình cảm của vợ
cồng đó bị rạn nứt chỉ do việc quan hệ tình dục bị suy giảm. Và “ chăn gối”
không phải chỉ sự vật cái chăn cái gối trên giường mà chỉ việc quan hệ tình
dục của vợ chồng, “phở” không phải là để ăn mà là người tình,người thứ ba
trong quan hệ vợ chồng.
Tất cả nội dung này chỉ để nói lên việc quan hệ vợ chồng cũng là một
biện pháp quan trọng để giữ hạnh phúc gia đình.

3.5, Khảo sát ngày 3/12/2011.
Một số bài báo sử dụng tính ẩn dụ.
Bài 1:
Gió giữ tàn phá bờ Tây nước Mỹ.
Những cơn gió cực mạnh hôm 1/12 quét qua các bang miền Tây của
nước Mỹ, gây nên những cảnh tượng ngổn ngang và khiến nhều cộn đồng dân
cư bị đặt trong tình trạng khẩn cấp.
→ “ gió giữ” đây là kiểu ẩn dụ chuyền tính chất sự vật sang hiện tượng
khác. “giữ” thường là chỉ con vật hoặc người có hiện tượng nóng giận,có biểu
hiện. Còn đây, “gió” không có tính chất ấy.Mục đích của nhà báo muốn nói ở
đây “gió giữ” là chỉ cấp độ mạnh của gió nhanh và tàn bạo đến mức có độ tàn
phá rất lớn.
Bài báo thứ 2:
Nỗi đau mang tên Hoa Hướng Dương.
→ Đây là một cái tít gây tò mò cho người đọc vì ai cũng muốn biết nỗi
đau của người nào mang tên loài hoa luôn hướng về mặt trời.
Đọc nội dung của bài mới hiểu rõ được Hoa hướng dương không phải là
tên người mà là biểu tượng cho những cô gái nhiễm HIV trong hội Hoa hướng
dương. Từ đó để nói lên cuộc đời của họ, nhữn khó khăn mà họ gặp phải trong
cuộc sống, rồi chia sẻ với họ, thông cảm cho những người bị nhiễm HIV.
13
Bài thứ 3:
Pakistan sôi sục vì ba chữ trên ảnh khoả thân.
Dư luận Pakistan phẫn nộ vì một nữ diễn viên chụp ảnh khoả thân trên
bìa một tạp chí nổi tiếng với tên Cơ quan Tình báo Liên quân Pakistan trên
cánh tay.
→ Tít báo trên sử dụng kiểu ẩn dụ giống nhau về một tính chất. Tít
bài báo đang sử dụng ẩn dụ vì Pakistan không thuộc nhóm thực thể có tri
nhận,và “ sơi sục” thường là chỉ sự phẫn nộ, bực tức của một hay một nhóm
người…mà đây là dư luận của đất nước Pakistan phẫn nộ vì một vấn đề nhạy

cảm. Đó là việc một cô gái diễn viên nổi tiếng chụp ảnh khoả thân trên một
tạp chí nổi tiếng với hình săm trên cánh tay có tên ISI. Đây là một điều sỉ
nhục lớn đối với cả đất nước Pakistan và cần lên án, làm rõ.
3.6, Khảo sát ngày 6/12/2011.
Một số bài sử dụng biện pháp ẩn dụ là:
Bài 1.
Người đẹp bốc lửa trên xe ô tô.
Những đoạn clip ghi lại cảnh cô gái ăn mặc mát mẻ ngồi cạnh ghế lái
và tâm trạng của các nàng khi xe tăng tốc đang là xu hướng quảng cáo xe kiểu
mới và thu hút đông người xem.
→kiểu ẩn dụ giống nhau về đặc điểm bề ngoài như người đẹp chỉ
những cô gái có hình thức bên ngoài đẹp. Cũng như các ví dụ đã phân tích
trên thì bốc lửa chỉ là việc gây sự chú ý của người khác, hấp dẫn. Người đẹp
hấp dẫn, gây sự thu hút, chú ý lớn. Đây cũng là giật tít.
Bài 2.
SLNA và NaviBank Sài Gòn dễ thở ở vòng bảng AFC Cup.
→Đây là cái tít sử dụng ẩn dụ vì “dễ thở” là trạng thái dành cho người,
nhưng ở bài báo này chỉ “ dễ thở” để nói cho 2 đội bóng của Việt Nam tại
vòng bảng AFC Cup vì khi bắt thăm 2 đội bóng của Việt Nam đã bắt thăm đá
bóng với các đối thủ vừa sức, tránh được các đối thủ CLB mạnh. Vì vậy thì dễ
14
thở ở đây là chỉ 1 phần thuận lợi mà 2 đội bóng của Việt Nam khi đến với
vòng bảng này.
Bài 3 :
Mourinho ém quân cho trận kinh điển.
HLV đội Real Madrid cất hẳn bốn trụ cột ở nhà khi bay sang
Amsterdam đá trận cuối cùng vòng bảng champions League với chủ nhà Ajax
ngày mai.
→ Đây cũng là tít sử dụng ẩn dụ “ kinh điển” có nghĩa là một cái gì đó
ghê sợ. “ém quân” là giữ quân lại, “bốn trụ cột” là bốn người giỏi nhất của

đội bóng này để đi sang đá bóng.
3.7, Khảo sát ngày 7/12/2011.
Các bài báo sử dụng ẩn dụ ở tít, sa pơ, đoạn báo.
Bài 1:
Cái sướng của đàn ông độc thân.

Bạn đã bao giờ chị cảnh người yêu cáu tiết và “đàn áp” mình chẳng vì
lý do gì. Độc thân sẽ không phải làm bia bắn cho ngững cảm xúc không lý
giải nổi của phụ nữ…
Người đàn ông biết trân trọng phút giây tự do sẽ khiến phụ nữ …thèm
vì họ biết bạn không túng thiếu tình cảm, bạn có cuộc sống riêng và không
dính chặt vào đàn bà.
→ Bài báo này nhà báo đã sử dụng so sánh ngầm, so sánh đàn ông là
“bia bắn” cho phụ nữ trút cơn giận mỗi khi có chuyện buồn bực,hoặc không
có lý do gì cả. “ thèm” thường để nói lên việc người thường chỉ về cái ăn như
thèm ăn, hay muốn có một vật dựng nào đó nhưng đây dụng ý chỉ phụ nữ
“thèm” đàn ông vì sự tự do của họ khiến họ không cảm thấy thiếu thốn tình
cảm mà tìm đến phụ nữ. Hay “dính chặt” thường chỉ một chất keo dính 2 vật
gì đó lại với nhau nhưng lại chỉ việc đàn ông không dính vào phụ nữ chỉ sự
15
không phụ thuộc vào phụ nữ kể cả tinh thần và vật chất. Từ những điều này
để nhấn mạnh cái tốt của đàn ông khi độc thân.
Bài 2:
Tiền đạo Arsenal gây tranh cãi với hành động phản cảm.
Nick Bendtner khiến nhiều người sôi máu vì nụ cười mỉm trong phút
mặc niệm cố HLV Gary Speed.
→ Bài báo sử dung cụm từ “ sôi máu” không phải là trong người họ
máu đang nóng lên như nước sôi mà chỉ về sự phẫn nộ, phê phán việc tiền đạo
Arsenal cười mỉm trong phút mặc niệm ccos HLV của đội. Từ điều này đưa ra
nhiều tranh cãi là hành động này nên phê phán hay không.

Bài 3:
B.Bình Dương đè bẹp Hà Nội T&T tại Navi Bank Cup.
Giải đấu quốc tế mang ý nghĩa khởi động cho mùa giải tới đang diễn ra
khỏ hấp dẫn tại TP HCM. Cùng thử sức trước đối thủ Thái Lan, B.Bình
Dương rất khỉ khăn mới giành được chiến thắng sát nút 3-2, cũn Hà Nội T&T
cũn trút mưa bàn thắng để vượt qua đội khách nước ngoài với tỷ số 5-1. Ở
loạt trận thư ba diễn ra chiều 6/12, á quân V- League 2011 thất bại với tỷ số
đậm 1-4 trước B.Bình Dương.
→ Tít của bài báo trờn nhằm nhấn mạnh đến việc B.Bình Dương thắng
Hà Nội T&T một cách dễ dàng. cụm từ “đố bẹp” nhằm nhấn mạnh điều đó và
gõy sự chơ ý với người đọc.
3.8, Khảo sát ngày 14/12/2011.
Bài 1.
Hiệp sĩ Sài Gìn bắt cướp cú hai tiền án.
Chiều 14/12, sau 30 phút truy đuổi, hiệp sĩ Nguyễn Văn Minh Tiến đã
khuất phục đã khuất phục tờn cướp giật sợi dây chuyền của một phụ nữ trờn
đườn Phạm Văn Hai (quận Tân Bình, TP HCM).
→ Ở đõy nhà báo đã sử dụng sự giống nhau về một đặc điểm vẻ ngoài
nào đó. “Hiệp sĩ” là danh từ chỉ những người luơn giúp đỡ cứu người và tiâu
16
diệt kẻ xấu. Bài báo này nhấn mạnh đến những người luơn làm việc tốt và
đáng ca ngợi.
Bài 2.
Kỹ sư đánh ghen bắn “tình địch” đấu súng với cảnh sát.
Nghi ngờ vợ quan hệ bất chính, viân kỹ sư điện tử dùng sung hoa cải
bắn trọng thương tình địch. Khi bị cảnh sát võy bắt, anh ta nó đạn chống trả
bắn bị thương một trinh sát.
→ Ở đõy người viết cũng sử dụng kiểu ẩn dụ giống nhau về một đặc
điểm về vẻ ngoài. “Tình địch” là chỉ người quan hệ bất chính với vợ (người
yâu), kiểu quan hệ vụng trộm. Từ vấn đề đó mới gõy ra việc anh kỹ sư này

bắn người quan hệ bất chính với vợ anh và bắn cả cảnh sát.
Bài 3.
Trung Hiếu trở mặt với Quang Tèo.
→ Đõy là tít báo mà nhiều người đọc nếu chưa đọc nội dung thì sẽ tự
hỏi tại sao hai diễn viân hài này lại trở mặt với nhau nhưng đọc nội dung thì
mới hiểu rị đõy chỉ là nội dung của bộ phim “Giời đánh khụng chết” do Trung
Hiếu, Quang Tèo đóng vai hai nhõn vật chính. Nội dung của bộ phim này là
lúc nhõn vật này là bạn thân luơn giúp nhau nhưng khi giàu cú chỉ vỡ một
người phụ nữ mà trở mặt nhau. Đõy là kiểu sử dụng người ngoài đời để nói
nhõn vật trong phim gõy tì mì cho người đọc.
3.9, Khảo sát ngày 15/12/2011.
Bài 1.
Chân dài “nghìn đô” phục vụ đại gia đi xe BMW.
Rạng sáng 14/12, cơng an đã ập vào một khach sạn lớn của phố Hào
Nam ( quận Đống Đa, Hà Nội) bắt quả tang 4 kiều nữ và 4 người đàn ông đi
xe BMW đang hành lạc.
→ Người viết cũng sử dụng kiểu so sánh giống nhau về một đặc điểm
nào đó. Cả “chõn dài” và “kiều nữ” đều để chỉ những cụ gái đẹp, cao ráo.
17
Nhưng những cụ gái này lại làm nghề mại dâm để phục vụ những người đàn
ông cú nhiều tiền, và đã bị cơng an bắt.
Bài 2.
Barca nhăm nhe rút ruột Chelsea.
Ấn tượng trước sự tiến bộ vượt bậc của cựu cầu thủ Oriol Romeu đang
chiếm một suất đá chính ở đội Chelsea, đội đương kim Chõu Âu được cho là
“ủ mưu” nhằm tái hồi tiền vệ 20 tuổi.
Sự tiến bộ của anh là niềm vui của Chelsea nhưng đang nảy sinh một số
vấn đề.
Chứng kiến cảnh tài năng của mình đã từng chăm phẵm giờ thi đấu
trong màu áo của kẻ khác, ban lãnh đạo Barca khụng thể tiếc nuối.

→ “ nhăm nhe rút ruột” là một ẩn dụ rất độc đáo để nói lờn việc Barca
tiếc khi thấy cầu thủ của mình giờ thể hiện tốt cho độ Chelsea. Và đang mong
muốn mua lại Romeu từ Chelsea.
18
III, Kết luận.
1, Thực trạng của việc sử dụng ẩn dụ hiện nay.
_Mỗi ngày các bài đưa lờn từ nhiều nội dung và vấn đề thì nhiều nhà
báo đã sử dụng nhiều biện pháp ẩn dụ trong đó cú biện pháp ẩn dụ để giật tít,
làm nổi bật nội dung giới thiệu ở phần sapơ, từ đó gõy ra sự hấp dẫn cho bài
đọc, tì mì cho độc giả. Bởi một thưc tế là đánh vào tâm lý của người Việt là tì
mì, nờn việc sử dụng ẩn dụ để giật tít được nhiều nhà báo,phóng viân sử dụng
rất nhiều.
_Một thực tế qua khảo sát dễ nhận thấy rị là các bài báo mang nội dung
về vấn đề trọng đại, về chính trị hoặc thĩng báo nội dung, nghị quyết của nhà
nước thì khụng sử dụng ẩn dụ,các bài báo viết về các vấn đề khác về văn hoá,
thể thao, nghệ thuật, đời sống thì thường hay sử dụng ẩn dụ để nhấn mạnh
tính biểu cảm, gõy chơ ý cho người đọc, và tránh sự khuơn mẫu quá nhàm
chán.
Walter Nas ghi nhận : ẩn dụ cú một khả năng mĩ tả rất mạnh mẽ.
Những văn bản quá hình thức lạnh lùng thường khụng dùng ẩn dụ, cũn văn
bản thĩng thường thì ngược lại, tận dụng ẩn dụ tạo nờn sức mạnh diễn đạt.
Trong báo chớ cũng tương tự, ẩn dụ cú thể được sử dụng với tính biểu
đạt cao.
_Tuy nhiân khơng phải vỡ thế mà nhà báo cú thể lạm dụng ẩn dụ quá
mức, hoặc tương thích trần trụi. Cả hai điều này đều dẫn đến điều khụng tốt.
Nếu trần trụi, khuơn mẫu quá mức thì sẽ gõy sự nhàm chán, nhưng nếu lạm
dụng ẩn dụ thì sẽ dẫn tớ việc độc giả nghi ngờ cho rằng giả tạo, bịa đặt.
Vớ dụ như :Các tít của bài báo.
Người đẹp bốc lửa trờn xe ụtô.
Phóng viân tương lai nhảy bốc lửa.

Thuỷ Tiân bốc lửa với đồ Jumpsuit.
(VnExpress)
19
Chỉ với việc sử dụng từ “ bốc lửa” mà nhiều nhà báo của VnExpress sử
dụng cho tít của mình. Nếu một lần thì gõy tì mì cho người đọc xem họ “bốc
lửa” như thế nào nhưng lần hai lại trùng lặp tiếp gõy ra sự nhàm chán vỡ tớt
đã trùng lặp mà nội dung lại đưa lờn mấy ảnh về sao, giới trẻ và những lời
nhận xét toàn khen, phiến diện.
Như Embler (1996) khẳng định rằng : ngôn ngữ phát triển thông qua các
điều kiện xã hội và đến lượt mình ngôn ngữ trở lại tác động đến hành vi, thái độ
của xã hội. Vì vậy, ẩn dụ hầu như có mặt khắp mọi nơi trong hoạt động ngôn từ.
Có lẽ vì lý do này mà Halliday (1976) nói : “ dường như là trong hầu hết cá thể
loại văn bản, cả nói và viết chúng ta có xu hướng hoạt động ở một nơi nào đó
giữa hai thái cực: tương thích trần trụi và ẩn dụ quá đáng. Một cái gì đó hoàn
toàn xa rời tương thích thì lại tỏ ra quá giả tạo, bịa đặt.
_Cú thể cùng một chủ đề nhưng nhiều báo đã khai thác sử dụng ẩn dụ
một cách khác nhau để làm cho bài báo thờm phong phơ mới lạ và khác với
báo khác
2, Biện pháp khắc phục.
_Ẩn dụ cũng cú tính hai mặt, nếu sử dụng ẩn dụ hợp lý, vừa đủ cho một
bài báo thì ẩn dụ sẽ giúp bài báo đó cú tính biểu cảm tốt, làm cho người đọc
thích thơ với bài báo. Ngược lại, nếu bài báo đó quá lạm dụng ẩn dụ thì sẽ
làm cho người đọc nghi ngờ về độ chính xác, thực tế của bài báo.
Từ tính hai mặt này mà ta biết cách sử dụng tốt ẩn dụ khi viết báo, làm
cho bài báo đó tốt hơn, hay hơn. Đú cũng là mục đích sinh viân báo chớ cần
và mong muốn đạt được khi cũn ngồi ghế nhà trường , làm cộng tác viân cho
các báo và lúc làm việc.
_ Từ nghiân cứu về tính ẩn dụ sử dụng trong báo chớ, ta cũng hiểu
thờm được là vấn đề nào, đề tài nào thì nờn sử dụng ẩn dụ. Chẳng hạn như đề
tài chính trị khi viết báo thì khơng nờn sử dụng ẩn dụ vỡ bài báo này phải đáp

ứng tính khuơn mẫu, và thực tế chính xác lớn, khụng so sánh ngầm như kiểu
giả định được.
20
_ Thực tế thường thấy là nhiều nhà báo phóng viân trong cùng một nơi
làm việc ở báo nào đấy thường hay sử dụng ẩn dụ bằng những từ lặp lại ( như
cụm từ “bốc lửa” phân tích ở phần trờn) thì nhà báo, phóng viân nờn sử dụng
ẩn dụ một cách sáng tạo hơn, dùng nhiều từ mới để diễn đạt cách nghĩ của
mình sao cho phù hợp với chủ đề và khụng sai, khỉ hiều.
_ Một điều mà sinh viân báo chớ, những người viết báo biết rị đó là
viết báo cũng phải tuân thủ các tính chất viết báo khuơn mẫu như tính chính
xác,tính ngắn gọn, hàm súc, tính phổ cập đại chúng, tính hấp dẫn… Vỡ vậy
dự sáng tạo ngụn từ để hấp dẫn và gõy tì mì nhưng cũng phải đúng và phù
hợp.

21

Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ trên báo thể thao online

  • pdf
  • 184 trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN
----------

LÊ CHÂU HOÀNG KIM
MSSV: 6086181

BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH, ẨN DỤ, HOÁN DỤ
TRÊN BÁO THỂ THAO ONLINE

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. GV. NGUYỄN THỊ THU THỦY

Cần Thơ, tháng 4 - 2012
-1-

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Phong cách báo chí
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc trưng của phong cách báo chí
1.2.1. Tính thời sự
1.2.2. Tính chiến đấu
1.2.3. Tính trung thực
1.2.4. Tính hấp dẫn
1.2.5. Tính thẩm mĩ và giáo dục
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí
1.3.1. Ngôn ngữ chuẩn xác
1.3.2. Ngôn ngữ ngắn gọn
1.3.3. Ngôn ngữ giản dị
1.3.4. Ngôn ngữ sinh động, hấp dẫn
-2-

1.4. Chức năng của báo chí
1.4.1. Chức năng thông báo
1.4.2. Chức năng hướng dẫn, tác động
1.4.3. Chức năng thuyết phục
1.5. Vai trò của báo chí
1.5.1. Báo chí – cơ quan quyền lực thứ tư
1.5.2. Báo chí đối với ngôn ngữ dân tộc
2. Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ
2.1. Biện pháp so sánh tu từ
2.1.1. Khái niệm
2.1.2. Hình thức
2.1.3. Nội dung
2.1.4. Chức năng của so sánh tu từ
2.1.5. Các yếu tố để có một biện pháp so sánh đạt hiệu quả cao
2.1.6. Những so sánh không phải là so sánh tu từ
2.2. Biện pháp ẩn dụ tu từ
2.2.1. Khái niệm
2.2.2. Hình thức
2.2.3. Nội dung
2.2.3.1. Tương đồng về màu sắc
2.2.3.2. Tương đồng về tính chất
2.2.3.3. Tương đồng về trạng thái
-3-

2.2.3.4. Tương đồng về hành động
2.2.4. Chức năng của ẩn dụ tu từ
2.2.5. Các yếu tố để một biện pháp ẩn dụ tu từ đạt hiểu quả cao
2.2.6. Phân biệt so sánh tu từ và ẩn dụ tu từ
2.3. Biện pháp hoán dụ tu từ
2.3.1. Khái niệm
2.3.2. Hình thức
2.3.3. Nội dung
2.3.3.1. Quan hệ lôgích khách quan giữa bộ phận và toàn thể
2.3.3.2. Quan hệ lôgích khách quan giữa chủ thể (người) và vật sở
thuộc (y phục, đồ dùng)
2.3.3.3. Quan hệ lôgích giữa hành động và chủ thể
2.3.3.4. Quan hệ lôgích khách quan giữa số lượng xác định và số lượng không
xác định
2.3.3.5. Quan hệ lôgích khách quan giữa tên riêng, tên nhân vật và tính cách
con người
2.3.4. Chức năng của hoán dụ tu từ
2.3.5. Các yếu tố tạo nên một biện pháp hoán dụ tu từ đạt hiệu quả cao
2.3.6. Phân biệt ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ

-4-

CHƯƠNG II
KHẢO SÁT BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH, ẨN DỤ, HOÁN DỤ
TRÊN BÁO THỂ THAO ONLINE
1. Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ trên báo Thể thao online
1.1. Biện pháp so sánh tu từ
1.1.1. Kiểu A như B
1.1.2. Kiểu A bao nhiêu B bấy nhiêu
1.1.3. Kiểu A là B
1.2. Ẩn dụ tu từ
1.2.1. Tương đồng về màu sắc
1.2.2. Tương đồng về tính chất
1.2.3. Tương đồng về trạng thái
1.2.4. Tương đồng về hành động
1.2.5. Tương đồng về cơ cấu
1.2.6. Ngoài các kiểu ẩn dụ trên ta còn có các kiểu ẩn dụ khác mà tác giả chưa
đề cập đến như ẩn dụ có kiểu tương đồng về chức năng
1.3. Hoán dụ tu từ
1.3.1. Quan hệ lôgích khách quan giữa bộ phận và toàn thể
1.3.2. Quan hệ lôgích khách quan giữa chủ thể (người) và vật sở thuộc (y
phục, đồ dùng)
1.3.3. Quan hệ lôgích giữa hành động và chủ thể
1.3.4. Quan hệ lôgích khách quan giữa số lượng xác định và số lượng không
xác định
-5-

1.3.5. Quan hệ lôgích khách quan giữa tên riêng, tên nhân vật và tính cách con
người
1.3.6. Ngoài các kiểu hoán dụ tu từ trên ta còn có các kiểu hoán dụ khác mà
tác giả chưa đề cập đến như hoán dụ có kiểu quan hệ lôgích khách quan giữa chủ thể
và đặc trưng
2. Tác dụng của biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoán dụ trên báo Thể thao online
2.1. Tăng tính hấp dẫn
2.2. Nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt
2.3. Bộc lộ thái độ, quan điểm của tác giả
2.4. Thông tin ngắn gọn, súc tích, biểu cảm
3. Tần số xuất hiện của biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ được sử dụng trên báo
Thể thao online

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỤC LỤC
NHẬN XÉT

-6-

PHẦN MỞ ĐẦU

-7-

1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, khi xã hội ngày phát triển thì nhu cầu nắm bắt thông tin của con
người ngày càng cao. Vì thế, báo chí giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
một xã hội. Ở một số quốc gia trên thế giới, báo chí được xem là cơ quan quyền lực thứ
tư. Đây là kiểu quyền lực không quy định thành văn bản mà được tạo ra từ công luận xã
hội. Báo chí tác động lên tất cả các quyền lực khác, báo chí viết để phanh phui, phơi bày,
đánh giá tất cả những gì không chính đáng. Như vậy, báo chí có tầm quan trọng rất cao
trong xã hội.
Ngoài ra thì báo chí có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển vốn
ngôn ngữ của dân tộc. Một dân tộc, muốn tồn tại và phát triển, khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế, đồng thời giữ được những bản sắc văn hóa riêng thì không thể
thiếu vai trò của ngôn ngữ. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ đa phong cách. Báo chí sử
dụng tất cả các phong cách ngôn ngữ như: phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách
ngôn ngữ văn chương, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ khoa học
và phong cách ngôn ngữ chính luận. Vì tầm quan trọng trên, mà báo chí luôn luôn đòi
hỏi sự sáng tạo trong ngôn ngữ. Để tăng hiệu quả diễn đạt, tạo tính hấp dẫn, báo chí đã
sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,…Trang báo Thể thao
online là một trong những trang báo mạng có ngôn ngữ sinh động, hấp dẫn, luôn có
những cách thức truyền tải nội dung, thông tin một cách mới mẻ và phong phú. Thể thao
cũng là một chuyên mục được rất nhiều bạn đọc quan tâm và tìm hiểu. Trong xã hội phát
triển như hiện nay thì lượng tin tức thể thao ngày một nhiều hơn, nhắm đáp ứng nhu cầu
của đời sống con người. Ở nước ta có rất nhiều tờ báo, trang web chuyên viết về thể thao
như: báo Bóng đá, Thể thao 24h, Thể thao Văn hóa, bongdaso.com, bongda.com,… chưa
kể đến nhiều tờ báo tổng hợp cũng dành riêng một mục cho lĩnh vực này. Như đã nói
trên, khi nói đến lĩnh vực thể thao thì không thể không kể đến trang báo Thể thao online.
Ở Việt Nam, báo Thể thao online là một trong những trang web rất phổ biến và được
nhiều bạn đọc quan tâm. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của báo chí, nên chúng tôi
rất muốn làm một nghiên cứu về lĩnh vực này, nằm để tìm hiểu rõ hơn về phong cách
ngôn ngữ báo chí. Qua quá trình học tập thì chúng tôi nhận biết được sự cần thiết của
các biện pháp, thủ pháp nghệ thuật đối với một bài báo. Bên cạnh đó, thấy được tầm phổ
-8-

biến cũng như tính chất thông tin, giải trí trong trang báo Thể thao online là rất cao, vì
thế chúng tôi đã chọn khảo sát “Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ trên báo Thể
thao online” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Thông qua việc
nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm, cũng như vốn kiến thức
về chuyên ngành báo chí nói chung, về lĩnh vực thể thao nói riêng nhằm hỗ trợ cho công
việc sau khi ra trường.

2. Lịch sử vấn đề
Đề tài “Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ trên báo Thể thao online” là
một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngôn ngữ báo chí. Liên quan đến đề tài, chúng
tôi tìm được một số công trình có liên quan như sau:
Ta có các công trình về Báo chí:
Quyển “Công việc của người viết báo” của tác giả Hữu Thọ (NXBGD, 1997),
đã nêu sơ lược về tính chất của báo chí; sau đó đi sâu vào trình bày và phân tích đặc
điểm báo chí ở hai thể loại tin và phóng sự. Thể loại phóng sự - ngôn ngữ mang tính chất
tường thuật. Thể loại tin – ngôn ngữ đòi hỏi sự ngắn gọn, trực tiếp.
Năm 2003, Nguyễn Tri Niên cho ra đời công trình “Ngôn ngữ báo chí” (NXB
tổng hợp Đồng Nai). Ở chương hai của công trình, tác giả đi vào tìm hiểu đặc điểm của
ngôn ngữ báo chí trên ba phương diện: đặc điểm về loại hình (ngôn ngữ của sự kiện;
ngôn ngữ định lượng và ngôn ngữ của độ không chính xác); những mối quan hệ của
ngôn ngữ báo chí (quan hệ phản ánh; quan hệ đối xứng; quan hệ liên tưởng); cách tiếp
cận hiện thực đặc thù (tác giả đã nêu ra các yếu tố của qui trình thông tin, chức năng của
những yếu tố đó và mô hình thông tin cơ bản). Chương bốn, Nguyễn Tri Niên nghiên
cứu về đặc điểm ngôn ngữ báo chí của chủ tịch Hồ Chí Minh và phân tích những ví dụ
cụ thể. Cuối cùng, tác giả đi đến khẳng định phong cách ngôn ngữ báo chí của chủ tịch
Hồ Chí Minh đậm đà tính dân tộc.
Giáo trình “Ngôn ngữ báo chí” (NXB Thông Tấn Hà Nội, 2007) của Vũ Quang
Hào đã trình bày chi tiết về vấn đề chuẩn mực của ngôn ngữ báo chí. Theo Vũ Quang
Hào, chuẩn mực của ngôn ngữ mang tính chất qui ước xã hội và phải phù hợp với quy
luật phát triển nội tại của ngôn ngữ. Từ đó, tác giả nêu ra khái niệm về chuẩn mực của
ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu vấn đề về lệch chuẩn. Tiếp theo, Vũ Quang Hào trình bày
ngôn ngữ các phong cách báo chí. Sau đó tác giả lần lượt đi vào nghiên cứu: ngôn ngữ

-9-

của tên riêng trên báo chí; ngôn ngữ của thuật ngữ khoa học, danh pháp khoa học, kí
hiệu khoa học, chữ viết tắt và số liệu trên báo chí; ngôn ngữ của tiêu đề báo.
Nguyễn Đức Dân, 2007 với quyển “Ngôn ngữ báo chí – những vấn đề cơ bản”
(NXBGD, 2007), đã đi vào nghiên cứu ngôn ngữ báo chí ở hai phương diện: đặc điểm
của ngôn ngữ báo chí và phong cách ngôn ngữ báo chí. Về đặc điểm ngôn ngữ của báo
chí, Nguyễn Đức Dân đã khẳng định: ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện. Về phong
cách ngôn ngữ báo chí, Nguyễn Đức Dân chỉ ra các biện pháp nghệ thuật của phong
cách ngôn ngữ báo chí. Đồng thời nêu lên cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong
báo chí như thế nào để đảm bảo tính chính xác của thông tin, tránh việc gây hiểu nhầm
cho người đọc.
Giáo trình “Ngôn ngữ báo chí” của Ngô Thị Bảo Châu (ĐHCT, 2008) Đã đưa
ra khái niệm, chức năng, đặc trưng của phong cách báo chí, đồng thời cũng đi vào tìm
hiểu đặc điểm ngôn ngữ của phong cách báo chí. Tác giả cũng đi vào nghiên cứu ngôn
ngữ báo chí ở ba phương diện: từ ngữ, cú pháp và kết cấu.
Ta có các công trình về Phong cách học:
Tác giả Bùi Tất Tươm “Giáo trình Tiếng Việt” (NXBGD, 1995), Trong công
trình này Bùi Tất Tươm đã trình bày về các biện pháp tu từ theo quan hệ liên tưởng như:
so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,…Ở mỗi biện pháp tu từ đều nêu lên đặc điểm, các mối quan hệ,
giá trị của từng biện pháp tu từ. Mỗi phần mỗi mục đều có những ví dụ minh họa để làm
rõ vấn đề đã nêu.
Tác giả Đinh Trọng Lạc có quyển “99 Phương tiện và Biện pháp tu từ Tiếng
Việt” (NXBGD, 1998), đã hệ thống gần như đầy đủ các phương tiện tu từ từ vựng (từ
vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, và phương tiện ngữ âm của phong cách học), các
biện pháp tu từ tiếng Việt (từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, ngữ âm – văn tự).
Hữu Đạt có quyển “Phong cách học Tiếng Việt” ( NXB KHXH HN, 1999) Đề
cập đến phong cách báo chí. Tác giả đã giới thiệu khá cụ thể về đặc điểm và chức năng
ngôn ngữ của phong cách này: chức năng thông tin, chức năng hướng dẫn dư
luận,…Ngoài ra, Hữu Đạt cũng đã trình bày một vài biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ,
hoán dụ, nhân hóa,…
Tác giả Cù Đình Tú với “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt”
(NXBGD, 2001) đã trình bày hệ thống lí thuyết phong cách học cũng như các vấn đề cụ

- 10 -

thể về phong cách học tiếng Việt. Công trình còn đi vào tìm hiểu đặc điểm tu từ của các
loại đơn vị trong tiếng Việt.
Giáo trình “Phong cách học Tiếng Việt” Nguyễn Văn Nở biên soạn (ĐHCT,
2004). Giáo trình đã nêu khái niệm của phong cách ngôn ngữ báo chí. Nêu lên đặc trưng,
đặc điểm của phong cách ngôn ngữ báo chí. Ngoài ra giáo trình còn trình bày đầy đủ, chi
tiết biện pháp tu từ ở sánh, ẩn dụ, hoán dụ.
Bài giảng “Từ vựng học Tiếng Việt” của Nguyễn Thị Thu Thủy (ĐHCT, 2005)
đề cập đến nghĩa của từ, thành ngữ và cách phân biệt thành ngữ, tục ngữ, sự chuyển
nghĩa tu từ theo kiểu ẩn dụ và hoán dụ…
Kế tiếp là quyển “Phong cách học Tiếng Việt” Đinh Trọng Lạc (chủ biên),
Nguyễn Thái Hòa (NXBGD, 2006). Trong quyển này, các tác giả đã đưa ra định nghĩa
về phong cách báo chí, nghiên cứu dạng của lời nói trong phong cách báo chí, kiểu và
thể loại của phong cách báo chí. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của
phong cách báo chí. Về phương diện từ ngữ, các tác giả đã nêu cấu tạo, đặc điểm nổi bật
của từ ngữ trong ngôn ngữ báo chí. Về phương diện cú pháp, các tác giả đã đưa ra những
khuôn mẫu cú pháp thường sử dụng. Về phương diện kết cấu, các tác giả đã đi vào tìm
hiểu, phân tích từng kiểu loại văn bản báo chí cụ thể.
Ngoài những vấn đề đã được nêu, công trình còn tìm hiểu, nghiên cứu nhiều vấn
đề khác. Ở đây, chúng tôi chỉ đưa ra những nghiên cứu liên quan đến đề tài. Các công
trình trên là tiền đề quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

3. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi hi vọng nâng cao được
những hiểu biết của mình về phong cách ngôn ngữ báo chí cũng như hiểu hơn về biện
pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Từ đó, giúp cho việc rèn luyện kĩ năng viết cũng như
cơ hội trau dồi thêm những kiến thức về ngôn ngữ báo chí, phong cách học, ngữ pháp
tiếng Việt và các kiến thức thực tiễn về thể thao.
Ngay từ nhỏ, chúng tôi đã rất yêu thích thể thao. Chúng tôi rất thích khi được
nói về các vấn đề liên quan đến thể thao, thảo luận về thể thao. Niềm đam mê đó đã tác
động rất nhiều đến sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của người thực hiện đề tài. Khi lựa
chọn đề tài này, chúng tôi mong rằng những kiến thức tiếp nhận được trong quá trình
thực hiện đề tài sẽ giúp ích cho mình trong nghề nghiệp sau này. Và cũng hi vọng,

- 11 -

những nghiên cứu của chúng tôi sẽ đóng góp được một phần nhỏ bé vào công việc
nghiên cứu xung quanh vấn đề về báo chí.

4. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi tiến hành nghiên cứu và khảo sát trên báo
Thể thao online từ tháng 9 đến tháng 11/2011.
Nói đến biện pháp tu từ chúng ta phải nói đến rất nhiều biện pháp. Nhưng do
hạn chế về mặt thời gian nên chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu biện pháp tu từ: so sánh, ần
dụ, hoán dụ.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Hệ thống hoá: Đầu tiên, tìm đọc một một số sách nghiên cứu các vấn đề có tính
chất lí luận về phong cách báo chí cũng như biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ
trong văn chương, trong báo chí để định hướng cho vấn đề nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
- Thống kê ngữ liệu: Sưu tầm và thống kê các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ,
hoán dụ trên báo Thể thao online theo từng kiểu loại.
- Phân tích: Tìm hiểu, phân tích và làm rõ tác dụng của các biện pháp nghệ thuật
được sử dụng trên báo Thể thao online.
- Cuối cùng tổng hợp và khái quát lại vấn đề.

- 12 -

PHẦN NỘI DUNG

- 13 -

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Phong cách báo chí
1.1. Khái niệm
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm về phong cách báo chí như sau:
Theo Đinh Trọng Lạc: “Phong cách báo chí là khuôn mẫu thích hợp để xây
dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo
chí” [9;74]
Theo Hữu Đạt: “Phong cách báo chí là phong cách chức năng được sử dụng
hằng ngày trên các báo, tạp chí ấn hành cho đông đảo bạn đọc” [3;220]
Theo Nguyễn Văn Nở: “Phong cách ngôn ngữ báo chí là kiểu diễn đạt được
dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự” [12;65]
Như vậy, từ các nhận định trên ta có thể kết luận: Phong cách báo chí là kiểu
diễn đạt được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự
như các báo, tạp chí ấn hành. Trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong
lĩnh vực báo chí.
Ta có một số dạng văn bản thuộc phong cách báo chí như: Tin tổng hợp, tin
nhanh, phóng sự, điều tra, tin ngắn, tiểu phẩm, quảng cáo, thông báo,…

1.2. Đặc trưng của phong cách báo chí
1.2.1. Tính thời sự
Thời sự là những sự kiện vừa mới xảy ra, là đề tài “nóng bỏng” đang được bàn
luận xôn xao hay là những vấn đề đang được xã hội quan tâm như: Thông tin mới nhất
về thành tích của đoàn Thể thao Việt Nam trong bảng tổng sắp xếp hạng thành tích của
SEA Games. Những mẩu tin không còn mang tính thời sự nữa gọi là “tin thiêu” hay “tin
ôi”.
Ngày nay nhu cầu cập nhật thông tin của người dân là rất lớn. Mong muốn biết
được những vấn đề diễn ra xung quanh mình đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu
trong đời sống con người. Do vậy, báo chí cần đáp ứng được nhu cầu đó hằng ngày,
hằng giờ và thậm chí là từng phút. Các nhà sản xuất ngành báo nắm bắt được thị hiếu ấy
nên ngày càng có nhiều hình thức truyền tải thông tin nhanh và kịp thời bằng nhiều dạng
như cho ra các tờ báo trong ngày, các tờ báo buổi, báo điện tử đăng tải tin tức nhanh, kịp
thời đến từng phút, ngày nay các đài truyền hình, đài phát thanh lớn đã phát sóng 24/24
- 14 -

để cập nhật những tin tức mới nhất nhằm truyền tải một cách nhanh chóng đến với người
nghe, người xem. Tính thời sự quyết định số lượng độc giả của nhà sản xuất, vì thế nó
quyết định sự tồn tại và sống còn của một tờ báo. Mặc dù cần cập nhật thông tin một
cách nhanh chóng nhưng người làm báo vẫn phải đảm bảo được tính chân thật, khách
quan của thông tin.
Tuy nhiên, không phải tin nóng hổi nào cũng là tin mang tính thời sự. Tin thời
sự là những tin mới, được xã hội quan tâm đồng thời còn mang tính phù hợp với những
đường lối chính sách mà Đảng và Nhà nước đưa ra, tin phải phù hợp với văn hóa xã hội
nước ta.

1.2.2 Tính chiến đấu
Tính chiến đấu là đặc trưng cơ bản của báo chí. Báo chí là nơi con người tiếp
nhận thông tin từ xã hội, vì thế báo chí góp một phần định hướng quan điểm của con
người: yêu hay ghét, đồng tình hay phản đối, một phần cũng dựa trên những kênh tiếp
nhận thông tin, quan điểm đến từ các thông tin đó.
Báo chí là công cụ đấu tranh chính trị của một Nhà nước, của một Đảng phái,
một cơ quan tổ chức hay một đoàn thể nào đó. Việc chọn lựa thông tin để đăng tải, phản
ánh đến người đọc thể hiện chính kiến của tờ báo. Ở một tờ báo cụ thể việc thu thập và
đưa tin đều phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị đó. Như trong thời gian 1935 – 1939
mặt trận báo chí đã diễn ra cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai phái: nghệ thuật vị nghệ thuật
và nghệ thuật vị nhân sinh. Hai phái này đều đưa ra những lí lẽ, cơ sở những thông tin để
đấu tranh cho quan điểm của mình. Tính chiến đấu của báo chí thể hiện ở cách đưa tin và
chọn lựa thông tin để đưa, chính việc phản ánh chính kiến của báo và dư luận nhằm thúc
đẩy sự tiến bộ của xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân
tộc ta báo chí đã góp một phần không nhỏ, nó là mặt trận đấu tranh tư tưởng của quân và
dân ta. Báo chí Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước đã trở thành một công cụ sắc bén chĩa mũi nhọn vào kẻ thù, tấn công lúc trực diện,
lúc gián tiếp. Chính nhờ có báo chí và tuyên truyền mà chúng ta đã tranh thủ được sự
ủng hộ ở các nước chính quốc.
Để làm nên tính chiến đấu bài viết cần có những biểu hiện như: cách lập luận
đanh thép, sử dụng có hiệu quả những từ ngữ nhằm công kích, châm biếm hay phủ định
đối phương. Trong đó, việc xây dựng các hình ảnh tương phản, các mệnh đề khẳng định
và phủ định chiếm một vai trò quan trọng.
- 15 -

Ngày nay báo chí vẫn giữ vai trò quan trọng trên mặt trận đấu tranh, luôn là một
yếu tố không thể thiếu được trong quá trình tạo nên sự ổn định và phát triển của xã hội.
Trên mặt trận chính trị, tư tưởng tính chiến đấu có vai trò đấu tranh giữa cái mới và cái
cũ, giữa cái tích cực và tiêu cực, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa mặt đúng và mặt sai trong
xã hội…
Tính chiến đấu được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau: Phủ định hoàn toàn đối
phương hay châm biếm, đả kích nhằm hạ uy thế đối phương…

1.2.3 Tính trung thực
Báo chí cần cung cấp thông tin đúng, khách quan và chính xác; do vậy nhà báo
phải luôn trung thực và không khoan nhượng. Các chuyên gia báo chí đã quan niệm
rằng: Bác Hồ đã từng dạy “có thế nào, nói thế ấy”. Đồng chí Hữu Thọ nói về tinh hoa
của nghề báo “nếu chỉ có một thì trước sau vẫn là tính trung thực” [15;23]. Do đó yêu
cầu đầu tiên đối với nhà báo là tính trung thực, trung thực với những sự kiện hiện thực
khách quan.
Người cần bút phải nhận thức được tác hại khôn lường của sự bịa đặt. Khi phản
ánh thiếu trung thực sẽ làm sai lệch thông tin, kéo theo nhận thức của người đọc sai
chiều, từ đấy dẫn đến hành động không đúng, trực tiếp ảnh hưởng đến xã hội. Đó là
trường hợp độc giả không nhận thức được đâu là đúng đâu là sai. Khi độc giả nhận biết
được thông tin ấy sai lệch thì bài báo sẽ thiếu tính thuyết phục và làm mất đi lòng tin của
độc giả. Người đọc phản hồi tòa soạn, tác giả sẽ phải trả giá.
Để đảm bảo tính trung thực ở một nhà làm báo. Trước khi viết một bài báo, tác
giả cần phải kiểm tra mức độ tin cậy của thông tin, nhận định tính chính xác. Người viết
phải nắm bắt thông tin ở nhiều cấp độ, nhiều chiều khác nhau, tránh lối viết chủ quan.
Nhà báo không nên gây sự áp đặt cho người đọc bằng lối viết của mình, không được bịa
đặt, phản ánh không trung thực hay phóng đại, thổi phòng thông tin nhằm đạt mục đích
cá nhân nào đó. Người làm báo cũng phải nổ lực học tập, mở rộng kiến thức trên nhiều
lĩnh vực, cần hiểu biết những lí luận mới, nắm vững cách diễn đạt trong tiếng Việt để
luôn có những bài báo trung thực và chính xác.
Nếu vì lí do sai sót, nhầm lẫn dẫn đến việc đưa thông tin không chính xác thì lúc
ấy tác giả và cơ quan có trách nhiệm nên công bố và đính chính điểm sai xót của mình.
Như vậy, nhà báo nên trung thực, không được bịa đặt.

1.2.4. Tính hấp dẫn
- 16 -

Tin tức gây được sự chú ý, tò mò, tạo cảm giác hứng thú cho độc giả là những
tin tức hấp dẫn. Những sự việc, sự kiện quan trọng nổi bật hay những thông tin bất ngờ
liên quan đến tính hiếu kì của con người đều làm cho người đọc cảm thấy hấp dẫn. Tuy
nhiên đó không phải là những lời bình của phóng viên như sự kiện này là hay là tuyệt
vời, có ý nghĩa thực tiễn đáng được quan tâm, mà tự thân sự kiện ấy phải có sức hấp dẫn
được người đọc.
Muốn hấp dẫn được độc giả thì tin tức cần phải được trình bày và diễn đạt cuốn
hút để khơi gợi hứng thú của người đọc, người nghe. Nhà báo trong quá trình thực hiện
một bài viết cần phải giải quyết được những câu hỏi như: các vấn đề được báo chí đưa ra
có phải là điều độc giả quan tâm hay không? Cách trình bày đã lôi cuốn và thuyết phục
được người đọc hay chưa? Đó là những điều vừa thiết thực vừa cấp bách đối với một
người làm báo. Vì thế tính hấp dẫn của báo chí có thể coi như là một trong các yếu tố
quyết định sự tồn tại của nó.
* Cách thức tạo tính hấp dẫn:
Ở mỗi tờ báo đều có những cách thức tạo tính hấp dẫn khác nhau. Nhưng tính
hấp dẫn có thể dựa trên các tiêu chí sau:
+ Về nội dung: Thông tin phải mới lạ, chính xác và phong phú.
Ví dụ: Một tờ báo luôn cập nhật những thông tin mới, lạ, phong phú thì tất nhiên
sẽ được độc giả lựa chọn nhiều hơn so với một tờ báo luôn có những tin tức quen thuộc
không mới lạ, các mục thì lặp đi lặp lại, sự kiện đã cũ, tin tức lại ít ỏi kém phong phú.
+ Về hình thức: Tranh ảnh, màu sắc, cỡ chữ, tiêu đề độc đáo, mới lạ; hay cách
dùng từ ngữ ngắn gọn, rõ ràng, súc tích,… sẽ có sức hút, kích thích sự tò mò muốn tìm
hiểu thông tin của người đọc.
Ví dụ: Có cùng một tin nóng bỏng về sự kiện vận động viên đoàn thể thao Việt
Nam nhận được tấm huy chương vàng đầu tiên tại SEA Games. Nhưng tờ báo A chỉ đưa
tin cùng phần bình luận. Tờ báo B đưa tin, bình luận kết hợp màu chữ bắt mắt, cách đặt
tiêu đề gây sự tò mò, kèm theo tranh ảnh minh họa sinh động. Như vậy, ta thấy ở tờ báo
A sẽ kém thu hút độc giả hơn so với tờ báo B. Tờ báo B có hình thức trình bày bắt mắt
lôi cuốn hơn, từ đấy đáp ứng được sự hiếu kì của độc giả hơn.
* Nguyên lí của tính hấp dẫn:
Tính hấp dẫn của thông tin ở mỗi người là khác nhau, phụ thuộc rất nhiều yếu tố
như giới tính, tôn giáo, nghề nghiệp, tuổi tác hay thành phần xã hội, vùng lãnh thổ,…
- 17 -

Nhưng nhìn chung sự hấp dẫn của báo chí được thể hiện theo 2 nguyên lí - 2 đường tròn
đồng tâm:
+ Đường tròn đồng tâm về khoảng cách: Những thông tin có liên quan đến
mình thì đáng quan tâm nhất. Tôi (tâm điểm) - gia đình - bạn bè - làng xã (hàng xóm) –
thiên hạ.
Như vậy: Tin tức trực tiếp liên quan đến mình được xem là quan trọng nhất (tâm
điểm) sau đó mới đến các thành viên của gia đình, kế đến là bạn bè, đến làng xã, còn tin
tức về người lạ thì ít được quan tâm nhất. Thông tin bản thân mình thi đậu đại học đạt
điểm cao được đăng báo sẽ quan trọng hơn nhiều thông tin bạn mình đậu đại học cũng
đạt điểm cao được đăng báo. Tin thông báo bão lụt ở quê mình sẽ đáng quan tâm hơn tin
bão lụt ở quê bạn, tin có trộm vào nhà bạn mình sẽ được quan tâm hơn tin có trộm vào
nhà một người xa lạ.
+ Đường tròn đồng tâm về tầm quan trọng của thông tin – độ lớn (tầm cỡ) của
thông tin:
Cùng đưa về một thông tin nhưng tầm quan trọng của thông tin khác nhau thì
bạn đọc có thể cũng sẽ có những quan tâm khác nhau (nhiều hay ít). Như vậy, tầm quan
trọng của thông tin có liên quan đến tính hiếu kì của con người. Cùng một thông tin về
một địa danh nhưng thông tin về một địa danh bình thường sẽ ít gây được sự chú ý hơn
thông tin về một địa danh nổi tiếng . Ví dụ như thông tin cả nước đang bình chọn cho
Vịnh Hạ Long trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới sẽ quan trọng hơn tin thị
xã Ngã Bảy ngày càng phát triển. Hay đám cưới của một siêu sao, một người nổi tiếng
sẽ được quan tâm, chú ý hơn là đám cưới của một người dân bình thường.
Kích cỡ của sự việc: Cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tầm quan trọng của thông
tin. Những thông tin có tầm cỡ lớn như thông tin có liên quan đến quốc gia, chính trị,
lãnh thổ hoặc cả thế giới, các hoạt động của Sao, nhân vật tiếng tăm,…Ví dụ như chuyện
về đời tư của Sao chẳng hạn: tình yêu, hôn nhân, các vấn đề liên quan đến sự nghiệp,…
Thời gian: Tính hấp dẫn của các tờ báo nhằm ở chỗ đăng tải thông tin nhanh
chóng, kịp thời. Như vậy thời gian xảy ra sự việc ảnh hưởng đến tầm quan trọng, sức
hấp dẫn của thông tin. Cũng là mẩu tin về vấn đề xu hướng bạo lực ngày càng nhiều
trong xã hội, nhưng những mẩu tin vừa xảy ra sẽ hấp dẫn và được chú ý hơn những tin
cùng vấn đề đó nhưng đã cũ.

1.2.5. Tính thẩm mĩ và giáo dục
- 18 -

Báo chí là tiếng nói của một tổ chức, một đảng phái hay một quốc gia, vì thế
ngôn ngữ của báo chí phải được chọn lọc. Một bài báo dù tranh luận, phê phán hoặc chỉ
trích thì ngôn ngữ của báo chí vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc thẩm mĩ. Muốn như
vậy nhà văn phải có trách nhiệm tiếp thu kiến thức, học hỏi các kiến thức về ngôn từ để
từ đấy nhào nặn, sáng tạo ra những câu văn dù mang tính chất phê phán nhưng không
dung tục sỗ sàng. Có như thế báo chí mới có sức thuyết phục cao.
Khi đảm bảo được tính thẩm mĩ trong ngôn từ báo chí, đồng thời đã thực hiện
tính giáo dục. Dù đưa tin với ý khen hay với ý luận chiến, phê phán thì mục đích chính
của báo chí vẫn là hướng nhận thức của con người tới lẽ phải, tới chân lí. Nó là phương
tiện giúp người đọc tự thức tỉnh mình, để từ đó có những hành động điều chỉnh bản thân
phù hợp với những chuẩn mực của xã hội như: chuẩn mực đạo đức, luân lí, luật pháp,…
Tính giáo dục của báo chí không thể hiện lên bề nổi của văn bản mà ẩn chìm sau những
lớp ngôn ngữ. Việc đưa thông tin trung thực và chính xác cùng với việc phân tích, bình
luận các sự kiện một cách khách quan kết hợp với lối dùng ngôn ngữ chuẩn xác đã mang
lại tính giáo dục rất cao.

1.3. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí
1.3.1. Ngôn ngữ chuẩn xác
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng, phát hành để phục vụ và đáp ứng
nhu cầu của toàn dân, nâng cao trình độ văn hóa của một nước. Do đó, đòi hỏi báo chí
phải sử dụng từ ngữ chuẩn xác, rõ ràng, không sử dụng những câu chữ không đúng cú
pháp, ngữ nghĩa lờ mờ, khó hiểu hay những câu khái quát chung chung, không thích
hợp. Từ ngữ được dùng trong báo chí trước hết phải là những từ ngữ phổ thông dễ hiểu,
đó là những từ ngữ toàn dân, có tính thông dụng cao. Trong văn bản báo chí, chỉ những
trường hợp đặc biệt người ta mới dùng các từ địa phương, từ mang tính thuật ngữ khoa
học, các loại tiếng lóng hay biệt ngữ cũng chỉ được xuất hiện rất ít, chỉ khi thật sự cần
thiết cho bài viết. Cũng có những trường hợp sử dụng một số thuật ngữ chuyên môn, tuy
nhiên đó phải là các thuật ngữ đã được phổ biến và đã được giải thích nhiều lần trên các
phương tiện truyền thông. Báo chí đặc biệt không chấp nhận những từ ngữ quá mơ hồ,
ngữ nghĩa quá trừu tượng, các câu có cấu trúc ngữ nghĩa có thể dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau; vì như vậy người đọc có thể hiểu sai ý mà tác giả muốn truyền tải. Đối với
một người làm báo, muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn xác thì người viết nên tìm
hiểu để thông thạo, nắm vững những phương diện từ ngữ chuẩn. Kiến thức rộng về các
- 19 -

liên ngành khác nhau cũng có ích cho người làm báo trong việc tiếp cận cũng như truyền
đạt thông tin đến người đọc.

1.3.2. Ngôn ngữ ngắn gọn
Ngôn ngữ ngắn gọn là một đặc điểm rất đặc trưng của phong cách báo chí. Ở
phong cách này đòi hỏi ngôn ngữ phải ngắn gọn, súc tích, tránh những cách diễn đạt dài
dòng, lan man. Báo chí mang đặc điểm này bởi không gian dành cho một mục tin có
hạn, vì trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, có rất nhiều nguồn tin, nhiều thông tin
khác nhau cần phải được truyền tải. Một tờ báo không thể chỉ đưa ra một vài tin tức lại
quá dài dòng lan man, người đọc thì không có nhiều thời gian để đọc hết những bài báo
với những câu chữ lê thê mà nội dung truyền tải thì không đến bao nhiêu. Do đó, các nhà
làm báo nên chọn những cách diễn đạt ngắn gọn, loại bỏ những thông tin trùng lặp,
những câu chữ không cần thiết.
Về mặt ngữ pháp, trong phong cách báo chí thường ít sử dụng các loại câu trùng
điệp, mà thay vào đó là các loại câu miêu tả có kết cấu ngắn gọn, ít mở rộng định ngữ.
Nghĩa là ít sử dụng các loại câu nhiều thành phần. Thường thì dùng các câu tỉnh lược
thành phần chủ ngữ để tăng cường độ tập trung cho thông tin, gây ấn tượng với người
đọc.
Các động từ và danh từ được sử dụng nhiều hơn tính từ. Phó từ thường dùng hạn
chế. Những câu chuyển tiếp dài dòng cũng được lược bỏ, thay thế bằng những từ ngắn
gọn, súc tích hơn, Ví dụ với câu “Qua đây cũng xin thông báo rằng” có thể thay thế
bằng “xin thông báo”, hay với câu “Như vậy thông qua những nhận định trên có thể kết
luận rằng…” thay thế bằng “kết luận lại”. Như vậy, một câu chuyển dài dòng sẽ làm
cho độc giả có cảm giác khó hiểu và dễ quên hơn so với một câu ngắn gọn, dễ hiểu và dễ
nhớ.
Dùng từ ngắn gọn, súc tích sẽ làm cho câu văn sáng nghĩa nhưng vẫn cô đúc. Từ
đấy, người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, tiết kiệm được thời gian. Ngoài ra còn làm cho văn
phong linh hoạt hơn, từ đấy hấp dẫn đối với người đọc.
Tuy nhiên không vì thế mà nhà báo viết những câu văn quá ngắn gọn, lược bỏ
các thành phần câu một cách thái quá, có thể gây ra tình trạng khó hiểu, hoặc hiểu sai ý
nghĩa muốn truyền tải của tác giả. Một câu văn ngắn gọn nhưng vẫn cô đọng, đủ ý, đó là
tiêu chí của lối văn theo phong cách báo chí.

1.3.3. Ngôn ngữ giản dị
- 20 -

Tải về bản full

I. KHÁI QUÁT

1. Khái niệm ngôn ngữ báo chí

– Là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của XH. Tồn tại ở 2 dạng: nói [thuyết minh, phỏng vấn miệng trong các buổi phát thanh/ truyền hình…] & viết [ báo viết ]

– Ngôn ngữ báo chí được dùng ở những thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm,… Ngoài ra còn có quảng cáo, bình luận thời sự, thư bạn đọc,… Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ.

2. Các phương tiện diễn đạt

– Về từ vựng: sử dụng các lớp từ rất phong phú, mỗi thể loại có một lớp từ vựng đặc trưng.

– Về ngữ pháp: Câu văn đa dạng nhưng thường ngắn gọn, sáng sủa, mạch lạc.

– Về các biện pháp tu từ: Sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng hiệu quả diễn đạt.

3. Phong cách ngôn ngữ báo chí

Phong cách ngôn ngữ báo là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo chí. Đó là vai của những nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng cáo.

4. Phân loại phong cách ngôn ngữ báo chí

– Dạng viết: bài báo, mẩu tin, mẩu quảng cáo…

– Dạng nói: bản tin hàng ngày, quảng cáo, thông tin…

Trắc nghiệm ngữ văn 11 bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí

Bài có đáp án. Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm ngữ văn 11 bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí. Học sinh luyện tập bằng cách chọn đáp án của mình trong từng câu hỏi. Dưới cùng của bài trắc nghiệm, có phần xem kết quả để biết bài làm của mình. Kéo xuống dưới để bắt đầu.

NỘI DUNG TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Khái niệm về phong cách ngôn ngữ báo chí

  • A.Là kiểu diễn đạt dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông đại chúng báo in, đài phát thanh, đài truyền hình, internet…như tin tức, phóng sự, bình luận, tiểu phẩm, diễn đàn, thông tin quảng cáo…
  • B.Là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người, được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, gọt giũa, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.
  • C. Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là trong văn bản khoa học.

Câu 2: Dòng nào sau đây đúng về đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí

  • A. Tính thông tin sự kiện, tính ngắn gọn, tính hấp dẫn.
  • B. Tính cá thể, tính xã hội, tính hấp dẫn
  • C. Tính chính xác, tính cá thể, tính hấp dẫn

Câu 3: Chức năng của ngôn ngữ báo chí là gì?

  • A. Là cung cấp tin tức thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng. Đồng thời, nêu lên quan điểm, chính kiến của tờ báo nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
  • B. Là nêu lên quan điểm cá nhân nhằm phân tích cụ thể hơn những đối tượng trong đời sống.
  • C. Là sự miêu tả cụ thể từng chi tiết đối với một chủ thể, nhằm khai thác ưu, nhược điểm của từng chủ thể phục vụ đời sống con người.

Câu 4: Có ý kiến cho rằng:Phạm vi của ngôn ngữ báo chí rộng rãi trên nhiều mặt của hoạt động xã hội. Ngôn ngữ báo chí vì thế không bị giới hạn ở một lĩnh vực nào cả. Có thể nói, nó bao gồm hầu hết các phạm vi sử dụng ngôn ngữ của xã hội. Đúng hay sai?

  • A. Đúng
  • B. Sai

Câu 5: Dòng nào dưới đây đúng về ngữ âm và chữ viết trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí?

  • A. Người nói phát âm theo giọng địa phương nơi mình sinh sống.
  • B. Người nói phải nói chuẩn, rõ ràng, người viết được viết theo ngôn ngữ đời sống
  • C. Người nói phải phát âm rõ ràng, nói chuẩn, tôn trọng người nghe, người viết phải viết đúng quy cách

Câu 6: Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay không?

  • A. Có
  • B. Không

Câu 7:Dòng nào dưới đây đúng về ngữ pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí?

  • A. Câu văn rõ ràng, chính xác, thường dùng một số khuôn mẫu ngữ pháp nhất định.
  • B. Câu văn rõ ràng, chính xác, được sử dụng các mẫu câu rút gọn, giản lược.
  • C. Câu văn ngắn gọn, xúc tích, mang yếu tố địa phương.
  • D. Câu văn dài, cụ thể, mang tính chất miêu tả và biểu cảm.

Câu 8: Bài nào dưới đây không sử dụng phong cách ngôn ngữ báo chí?

  • A. Bản tin thời sự lúc 19h
  • B. Phóng sự ngắn về bão lũ ở miền Trung
  • C. Tiểu phẩm Nhà...chằn tinh
  • D. Tác phẩm Vội vàng - Xuân Diệu

Câu 9: Báo chí tồn tại ở mấy dạng chính?

  • A. 2
  • B. 3
  • C. 4
  • D. 5

Câu 10: Bản tin là gì?

  • A. Là một thể loại của văn bản báo chí nhằm thông tin một cách chân thực, kịp thời những sự kiện thời sự có ý nghĩ trong cuộc sống.
  • B. Là một thể loại của văn học dân gian, được truyền miệng từ đời này sang đời khác.
  • C. Là một thể loại thông báo trong khoa học nghiên cứu.

Câu 11: Phóng sự là gì?

  • A.Là một bản tin có thời gian, địa điểm và sự kiện nhưng được miêu tả, tường thuật chi tiết bằng hình ảnh cụ thể, hấp dẫn, câu văn biểu cảm, từ ngữ sinh động, gây được hứng thú.
  • B. Là một thể loại của văn bản báo chí nhằm thông tin một cách chân thực, kịp thời những sự kiện thời sự có ý nghĩa trong cuộc sống.
  • C. Là một thể loại của văn học trung đại, tuân theo những quy tắc hành văn nhất định.

Câu 12: Bản tin và phóng sự có điểm gì khác nhau?

  • A. Bản tinlà đơn vị cơ sở của thông tin báo chí nhằm truyền đạt, phản ánh “về một sự kiện mới xảy ra được mọi người hoặc một số người quan tâm, nhanh và ngắn gọn. Một bản tin cần có thời gian địa điểm, sự kiện chính xác nhằm cung cấp những tin tức mới cho người đọc.
  • B. Phóng sự cũng là một dạng của bản tin nhưng thuộc dạng bản tin mở rộng có tường thuật chi tiết sự kiện, có hình ảnh minh họa để cung cấp cho người đọc thông tin một cách đầy đủ, sinh động, được viết, được tường thuật bằng nhiều cách khác nhau sau khi đã được điều tra xác minh chi tiết, nguyên nhân quá trình hình thành sự kiện nhân vật một cách chính xác.
  • C. Cả A và B đều đúng
  • D. Cả A và B đều sai

Đọc một bài báo và trả lời câu hỏi sau

"Khởi công dự án mở rộng sân đỗ máy bay tại Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng

QĐND - Ngày 19-10, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP (ACV) tổ chức Lễ khởi công dự án "Mở rộng sân đỗ máy bay về phía bắc giai đoạn II, Cảng hàng không quốc tế (HKQT) Đà Nẵng". Đây là công trình chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Đà Nẵng lần thứ XXII.

Dự án do ACV làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư khoảng 420 tỷ đồng; thời gian thi công 11 tháng. Dự án gồm: Xây dựng thêm 4 vị trí đỗ máy bay code C; di chuyển 5 vị trí đỗ máy bay xa đường hạ cất cánh 35R/17L; xây dựng mở rộng sân đỗ máy bay, lề, khu vực dải bảo hiểm. Dự án hoàn thiện và đưa vào khai thác sẽ góp phần tăng năng lực khai thác hoạt động bay của Cảng HKQT Đà Nẵng, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường kết nối giữa Đà Nẵng với các tỉnh, thành trong nước và các nước trong khu vực; đồng thời góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh."

Báo Quân đội Nhân dân

Câu 13: Thể loại của văn bản báo chí của bài báo trên?

  • A. Bản tin
  • B. Phóng sự
  • C. Tiểu phẩm

Câu 14: Nội dung chính của bản tin là gì?

  • A. Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Đà Nẵng lần thứ XXII
  • B. Thông tin về Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam
  • C. Dự án mở rộng sân đỗ máy bay tại Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng

Câu 15: Bài báo trên đã cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu về một bản tin hay chưa?

  • A. Đủ
  • B. Chưa đủ
Xem đáp án

=> Kiến thức Soạn văn bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí

Từ khóa tìm kiếm google:

trắc nghiệm văn 11, câu hỏi trắc nghiệm văn 11, bài phong cách ngôn ngữ báo chí

Biện pháp tu từ là gì?

Biện pháp tu từ hay còn được gọi là biện pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ theo một cách đặc biệt ở một đơn vị ngôn ngữ nào đó như từ, câu, văn bản… trong một ngữ cảnh nhất định nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt và tạo ra ấn tượng với người đọc về một hình ảnh, một cảm xúc, một câu chuyện.

Các biện pháp tu từ chúng ta thường sử dụng như biện pháp nhân hóa, biện pháp so sánh, hoán dụ, ẩn dụ…

Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay không