Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Sản phẩm du lịch của tỉnh Cà Mau tuy đã được cải thiện nâng cao về chất lượng nhưng lại thiếu tính đa dạng, chưa tạo được chuỗi sản phẩm dịch vụ vui chơi, giải trí để thu hút du khách lưu trú dài ngày tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn.

Khai thác sản phẩm du lịch chủ lực

Cà Mau hiện có ba tuyến du lịch chính gồm: Cà Mau - Khu du lịch Mũi Cà Mau, Cà Mau - Vườn Quốc gia U Minh Hạ - Hòn Đá Bạc và Cà Mau - Khu Du lịch sinh thái Sông Trẹm. Tuyến Cà Mau - Khu Du lịch Mũi Cà Mau được xác định là tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh để tập trung phát triển trở thành Khu Du lịch Quốc gia Mũi Cà Mau đến năm 2030.

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau
Du lịch sinh thái đang là điểm nhấn quan trọng thu hút du khách đến thăm Đất Mũi Cà Mau. Ảnh: Thế Anh - TTXVN

Ngành Du lịch Cà Mau xác định rõ sản phẩm du lịch là yếu tố then chốt có tính quyết định đến sự phát triển du lịch của địa phương, từ đó tập trung xây dựng và phát triển thêm nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn để thu hút du khách trong và ngoài nước đến với tỉnh. Từ việc chú trọng khai thác các sản phẩm du lịch mang tính đặc trưng, đặc thù của địa từng phương không chỉ có tác dụng thu hút đông đảo du khách, mà còn từng bước phát triển thương hiệu du lịch Cà Mau có sức cạnh tranh so với khu vực và cả nước. Trong đó, phải kể đến các tuyến du lịch tham quan xuyên rừng Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau là một trong những sản phẩm du lịch mang tính đặc trưng tạo được sự khác biệt đang được ngành Du lịch khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó, tỉnh tập trung xây dựng Đề án Làng Văn hóa Du lịch Mũi Cà Mau nhằm phát triển sản phẩm tham quan, trải nghiệm, văn hóa, ẩm thực, sản vật đặc trưng... Đây là sản phẩm du lịch có sự khác biệt và đủ sức cạnh tranh. Ông Trần Hiếu Hùng, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau cho biết, ‘‘Các tuyến du lịch xuyên rừng Mũi Cà Mau được tỉnh xác định là một trong những sản phẩm du lịch chủ lực, trọng tâm của Khu Du lịch Quốc gia Mũi Cà Mau. Do vậy, Sở định hướng vừa tập trung khai thác, vừa đầu tư nâng cấp cho xứng tầm; đồng thời, vận hành, khai thác và duy tu bảo dưỡng các công trình trong Khu Du lịch để tạo thêm sự hấp dẫn thu hút du khách. Tỉnh còn tăng cường kết nối và tổ chức khai thác, quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch chủ lực, đặc trưng, hình thành chuỗi sản phẩm du lịch liên tỉnh, liên vùng, tạo sức hấp dẫn, độc đáo để thu hút du khách. Trong 3 tháng đầu năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nhờ nỗ lực triển khai nhiều giải pháp thu hút khách du lịch, ngành Du lịch Cà Mau đã thu hút được 274.200 lượt khách, đạt doanh thu trên 374 tỷ đồng. Trong số hơn 161.000 lượt khách tham quan tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn có gần 2.400 lượt khách tham quan, trải nghiệm du lịch tuyến xuyên rừng.

Phát triển đa dạng sản phẩm du lịch


Sản phẩm du lịch của tỉnh từng bước được cải thiện nâng cao về chất lượng nhưng lại thiếu tính đa dạng, chưa tạo được chuỗi sản phẩm, dịch vụ vui chơi giải trí để thu hút du khách lưu trú dài ngày tại Cà Mau. Thêm nữa là công tác quảng bá, xúc tiến du lịch chưa thu hút được sự tham gia tích cực của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng du lịch còn hạn chế cũng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư phát triển du lịch của tỉnh.

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau
Du khách tham quan Khu du lịch Quốc gia Mũi Cà Mau. Ảnh: Kim Há - TTXVN

Do đó, năm 2021, tỉnh tổ chức chuỗi hoạt động, sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch trong khuôn khổ Chương trình sự kiện ‘‘Cà Mau - Điểm đến 2021’’. Đây là dịp để tỉnh thu hút du khách; đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch tìm hiểu đầu tư, xây dựng hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, kết nối các tour, tuyến và điểm du lịch giữa Cà Mau và các tỉnh trong khu vực. Theo ông Trần Hiếu Hùng, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngành Du lịch Cà Mau đang tập trung phát triển các sản phẩm, loại hình du lịch phù hợp như: du lịch địa lý, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với hệ thống rừng ngập nước và du lịch ngư, nông, lâm nghiệp; chú trọng đầu tư xây dựng và mở rộng điểm du lịch văn hóa, lịch sử tại các khu di tích trong tỉnh; tập trung hình thành các điểm du lịch sinh thái, cộng đồng phục vụ du khách tham quan, trải nghiệm... Ngoài ra, ngành Du lịch Cà Mau đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Đề án xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch Đất Mũi, nhất là xây dựng Làng Văn hóa Du lịch Mũi Cà Mau; phát huy giá trị Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau phục vụ phát triển du lịch sinh thái để tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương. Cà Mau sẽ nghiên cứu xây dựng, phát triển thêm nhiều sản phẩm, dịch vụ du lịch phục vụ du khách cả hai mùa mưa và nắng; đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá các sản phẩm OCOP; hỗ trợ người dân xây dựng điểm sản xuất, trưng bày kinh doanh sản phẩm lưu niệm phục vụ nhu cầu tham quan, trải nghiệm của du khách. Đề cập vấn đề phát triển sản phẩm du lịch của tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Hồng Quân cho biết, thời gian tới, Cà Mau có kế hoạch cụ thể đề xúc tiến, kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược tham gia các dự án mang tính động lực để thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh. Cà Mau ưu tiên hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục thu hút đầu tư, hỗ trợ thuê đất sử dụng ổn định lâu dài đối với các dự án đầu tư phát triển sản phẩm du lịch đặc thù có sức cạnh tranh, thân thiện với môi trường; khuyến khích đầu tư phát triển các khu vui chơi giải trí, các loại hình văn hóa nghệ thuật dân tộc kết hợp với du lịch tại khu vực Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và Vườn Quốc gia U Minh Hạ…

Đồng thời, UBND tỉnh tăng cường chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai thực hiện tốt Quyết định số 774/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt tổng thể phát triển Khu Du lịch Quốc gia Mũi Cà Mau đến năm 2030. ‘‘Thời gian tới, Cà Mau quyết tâm huy động mọi nguồn lực để tập trung phát triển ngành Du lịch Cà Mau trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Sự quan tâm này sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng nguồn thu nhập cho ngân sách, tạo động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế của tỉnh cùng phát triển’’, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Trần Hồng Quân nhấn mạnh.

Kim Há

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Chính sách phát triển du lịch Cà Mau

Đề xuất

       Cà Mau nằm ở cực Nam Tổ quốc, là một trong 4 tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có diện tích 5.294 km2, bờ biển dài 54 km, có hai hệ sinh thái rừng mặn ngọt và rừng đước ngập mặn đặc trưng được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới. Phát huy lợi thế sẵn có, tỉnh Cà Mau xác định “chìa khóa” mở đường cho ngành "công nghiệp không khói" của địa phương phát triển là loại hình du lịch xanh. Điểm nhấn của du lịch Cà Mau là tham quan hệ sinh thái rừng ngập mặn Mũi Cà Mau-khu Ramsar thế giới; kết hợp với khai thác sản phẩm trải nghiệm hệ sinh thái rừng ngập ngọt thuộc hệ thống Vườn Quốc gia U Minh Hạ, tạo nên sự đa dạng về tiềm năng thế mạnh của du lịch Cà Mau.

       Do đó, Cà Mau định hướng phát triển du lịch liên vùng thành 3 nhóm chính, như:

       Vùng du lịch trung tâm (Vùng 1): Gồm TP. Cà Mau và khu vực phụ cận, đây là không gian du lịch trung tâm đóng vai trò đầu mối điều hành hoạt động du lịch của Cà Mau do vị trí địa lý và là đầu mối giao thông đường bộ, đường thủy và hàng không. Một số địa điểm du lịch nổi bật như: Chợ nổi Cà Mau, chợ Cà Mau, miệt vườn Tân Thành, hay ở các điểm du lịch văn hóa, như: đình Tân Hưng (di tích lịch sử cách mạng), Hồng Anh thư quán...; điểm du lịch tâm linh, như: chùa Quan Âm cổ tự... hoặc các công trình gắn với thành tựu kinh tế xã hội gần đây như cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau).

       Vùng du lịch phía Tây (Vùng 2): Gồm các huyện phía Tây tỉnh Cà Mau là U Minh, Trần Văn Thời và Phú Tân, là không gian du lịch quan trọng tâm của du lịch Cà Mau, bao gồm: Vườn Quốc gia, Khu Dự trữ sinh quyển, du lịch biển đảo (cụm đảo Hòn Chuối), hòn Đá Bạc, hòn Chuối, khu căn cứ Xẻo Đước, lễ hội sông Đốc, đầm Thị Tường, nhà bác Ba Phi, khu xứ Ủy Nam Kỳ, khu đền Hùng... Trong đó, đặc biệt là Khu Dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau có vùng lõi nằm trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ và dãy phòng hộ ven Biển Tây. Nơi đây có nhiều hệ sinh thái đặc trưng điển hình, như: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm trên đất ngập nước than bùn, hệ sinh thái biển... mỗi hệ sinh thái đều lưu giữ các nguồn tài nguyên sinh vật, tài nguyên địa chất phong phú có giá trị bảo tồn cao)

       Vùng du lịch phía Nam (Vùng 3): Vùng phía Nam bao gồm các huyện Năm Căn và Ngọc Hiển. Hướng phát triển quan trọng của không gian này là mở rộng về phía Bắc lên huyện Đầm Dơi vào sau năm 2015-2020. Đây là không gian du lịch quan trọng nhất của Cà Mau hiện nay, cũng là yếu tố thu hút khách du lịch chủ yếu của Tỉnh (Gồm: Vườn quốc gia Đất Mũi, rừng đặc dụng ven biển, hòn Khoai, Khai Long, điểm cuối đường Hồ Chí Minh trên biển, cột cờ Hà Nội...).

       Cà Mau cũng đã quan tâm đẩy mạnh kết nối phát triển du lịch với các tỉnh, vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương có Chương trình ký kết với hợp tác với Cà Mau, như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh quốc tế, như: Trat (Thái Lan), Khăm Muộn (Lào), Koh Kong (Campuchia).

       Kết cấu hạ tầng du lịch Cà Mau từng bước hoàn thiện, từ TP. Cà Mau đi đến tận xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển và kết nối được với một số khu, điểm du lịch. Đặc biệt, Cà Mau đã tập trung đầu tư vào tuyến đường trọng điểm cùng với đầu tư cơ sở hạ tầng Khu du lịch Khai Long - Đất Mũi; tiến hành quy hoạch phát triển các khu, điểm du lịch Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, đầm Thị Tường, cụm đảo Hòn Khoai để phát triển du lịch… Tỉnh lấy Khu Du lịch Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và Khu Du lịch Vườn Quốc gia U Minh Hạ để làm điểm nhấn cho phát triển du lịch. Trong đó, Khu Du lịch trọng điểm Mũi Cà Mau đã ''thành hình, thành hài'' đang dần đầu tư phát triển để tiến tới là khu du lịch quốc gia mang tầm vóc của khu vực.

       Tỉnh đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương cho chủ trương đầu tư mở rộng sân bay Cà Mau, cảng biển Hòn Khoai để phát triển kinh tế - xã hội, thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế.

       Thời gian qua, sản phẩm du lịch của Cà Mau ngày càng đa dạng, phong phú, các điểm du lịch mới được khai thác đưa vào hoạt động, như: Khu Du lịch Mũi Cà Mau, Khu Du lịch Hòn Đá Bạc, vườn sưu tập động vật hệ sinh thái rừng tràm, lâm, ngư trường Sông Trẹm, Khu Du lịch Lý Thanh Long, vườn chim nằm trong lòng TP. Cà Mau...

       Nhờ định hướng rõ ràng, nên ngành du lịch Cà Mau đã vượt qua những khó khăn và đang phát triển, với những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất. Số lượng khách trong nước và quốc tế đến Cà Mau ngày càng tăng, kết cấu hạ tầng du lịch, chất lượng nguồn nhân lực được tăng cao theo kịp với xu thế phát triển chung của du lịch khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Theo thống kê, năm 2019, lượng khách đến Cà Mau ước đạt 1.673.000 lượt, tăng 16% so với năm 2018 (khách quốc tế 28.800 lượt, khách nội địa 1.644.200 lượt), doanh thu đạt hơn 2.495 tỷ đồng (Báo cáo tổng kết UBND tỉnh Cà Mau, 2019).

       Vẫn còn những hạn chế, khó khăn

       Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế cũng cho thấy quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng và quy hoạch ngành theo vùng hiện nay Cà Mau chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản trị không gian kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng, thiếu bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp; liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và thành phố trong cùng khu vực.

       Chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc biệt để bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu yếu nhất trong quá trình xây dựng quy hoạch liên vùng tỉnh Cà Mau. Cách phân vùng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy được lợi thế so sánh từng vùng theo chuỗi giá trị sản phẩm, các chuỗi giá trị liên kết kinh tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.

       Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp cả nước nói chung, tỉnh Cà Mau nói riêng cần thay đổi tư duy trong liên kết vùng; phải tạo động lực đòn bẩy nâng cao tính liên kết để các ngành nghề phát triển đồng bộ. Riêng chủ đề du lịch Cà Mau cũng chưa quan tâm nhiều đến liên kết vùng trong du lịch, các điểm đến du lịch còn riêng biệt chưa thể tuần hoàn mắc xích tạo dây chuyền khép kính liên hoàn trong du lịch.

       Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới

       Một là, về nhận thức

       Cà Mau cần coi quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo vùng là một bộ phận hữu cơ của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng quốc gia. Cần coi đây là phương thức để tạo ra các mũi nhọn, các “cực tăng trưởng” đối với các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, địa phương trong tổng thể nền kinh tế; đồng thời cũng là biện pháp khắc phục cơ cấu kinh tế “khép kín” theo địa giới hành chính, trên cơ sở đó mà khai thác tối đa nguồn lực của xã hội.

       Hai là, xây dựng cơ chế điều phối, quản trị vùng

       Xây dựng chiến lược liên kết kinh tế vùng trong chiến lược phát triển quốc gia, tạo cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển, đầu tư, quản trị, dịch vụ công, phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch sinh thái bền vững… phù hợp với mỗi vùng và liên vùng có hiệu quả.

       Vùng phải thể hiện rõ tính liên kết, sớm xóa bỏ tình trạng phát triển kinh tế khép kín. Quy hoạch vùng phải gắn với điều kiện kinh tế - xã hội đặc trưng của Vùng và phải được xác định, thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Đặc biệt, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, thì công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch nói chung và cho liên kết vùng nói riêng cần được chú trọng hơn nữa.

       Ba là, đối với các vùng kinh tế trọng điểm

       Cần cân nhắc để ban hành chính sách cạnh tranh với các trung tâm kinh tế khu vực và trên thế giới; quy định rõ liên kết vùng phải theo hướng kinh tế tri thức và tiếp cận với cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, phát triển các ngành hàng có hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn... Nghiên cứu để sớm hình thành một số khu liên kết kinh tế xuyên biên giới quốc gia với một số nước láng giềng; Hình thành các cặp cửa khẩu để gia tăng hợp tác kinh tế có hiệu quả.

       Đối với các vùng điều kiện KT-XH còn khó khăn, cần có chính sách nhằm hướng việc thu hút đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội; Làm rõ chức năng bảo tồn sinh thái, gìn giữ văn hóa, bảo đảm an ninh chính trị, để từ đó có những chính sách tích hợp tổng thể đặc thù cho vùng đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ chung.

       Bốn là, các nhà khoa học, chuyên gia cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thúc đẩy phân vùng hợp lý, khoa học, phù hợp với thực tiễn; hoàn thiện quy hoạch phát triển liên vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương; Tận dụng lợi thế của sự kết vùng toàn diện.   

       Năm là, Liên kết vùng trong du lịch cần có bài toán khoa học cụ thể, định hướng liên vùng theo xu thế dài hạn, bảo đảm yếu tố phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời định hướng liên kết khu vực lân cận và hướng đến các nước lân cận theo theo xu thế toàn cầu.

       Sáu là, Liên kết vùng là giải quyết được các vấn đề lớn như sau:

       - Phát huy vai trò vị thế của vùng tỉnh trong vùng ĐBSCL tiến đến khu vực.

       - Liên kết vùng để kiểm soát không gian toàn vùng, xây dựng thể chế quản lý phát triển vùng. Chiến lược phát triển các hệ thống hạ tầng khung của vùng ĐBSCL trên địa bàn tỉnh đồng bộ và kịp thời, bên cạnh đó kết nói phát triển không gian dài hạn cho ngành du lịch định hướng lâu dài.

       - Liên kết vùng là để phát triển nhanh tập trung vào các khu vực đô thị, vùng ven các trục giao thông, vùng có điều kiện thuận lợi, vùng sâu, vùng xa phát triển nhanh, nhất là dân cư nông nghiệp.

       - Liên kết vùng đồng bộ sẽ kiểm soát điểm dân cư nông thôn còn nhiều bất cập do chưa phủ quy hoạch theo chương trình phát triển nông thôn mới.

       - Liên kết vùng tốt sẽ tạo thuận lợi và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến một cách hiệu quả. Năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa tăng và tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế sâu rộng.

       - Liên kết vùng tốt sẽ khai thác được tiềm năng và lợi thế của vùng, sử dụng đất chưa hiệu quả, kiểm soát được quá trình phân bố, chuyển đổi đất đai. Tài nguyên tự nhiên và các nguồn lực sử dụng chưa hợp lý khác và phát huy lợi thế sẵn có.

       - Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng tăng.

       - Liên kết vùng nhằm thích ứng với nguy cơ nóng lên của khí hậu toàn cầu, mực nước biển dâng cao và những tác động môi trường khác chưa đáp ứng được yêu cầu. Với vị thế ba mặt tiếp giáp biển là lợi thế cho kinh tế biển, nếu thực hiện tốt liên kết vùng sẽ làm giảm và ngăn ngừa biến đổi khí hậu toàn cầu.

       - Liên kết vùng tốt Cà Mau sẽ giải quyết được bài toán giao thông, rút ngắn khoảng cách, tạo thuận lợi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, kêu gọi được nhiều dự án BOT, BT, nhiều nguồn vốn khác v.v...đặc trưng được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới. Phát huy lợi thế sẵn có, tỉnh Cà Mau xác định “chìa khóa” mở đường cho ngành "công nghiệp không khói" của địa phương phát triển là loại hình du lịch xanh. Điểm nhấn của du lịch Cà Mau là tham quan hệ sinh thái rừng ngập mặn Mũi Cà Mau-khu Ramsar thế giới; kết hợp với khai thác sản phẩm trải nghiệm hệ sinh thái rừng ngập ngọt thuộc hệ thống Vườn Quốc gia U Minh Hạ, tạo nên sự đa dạng về tiềm năng thế mạnh của du lịch Cà Mau.

       Do đó, Cà Mau định hướng phát triển du lịch liên vùng thành 3 nhóm chính, như:

       Vùng du lịch trung tâm (Vùng 1): Gồm TP. Cà Mau và khu vực phụ cận, đây là không gian du lịch trung tâm đóng vai trò đầu mối điều hành hoạt động du lịch của Cà Mau do vị trí địa lý và là đầu mối giao thông đường bộ, đường thủy và hàng không. Một số địa điểm du lịch nổi bật như: Chợ nổi Cà Mau, chợ Cà Mau, miệt vườn Tân Thành, hay ở các điểm du lịch văn hóa, như: đình Tân Hưng (di tích lịch sử cách mạng), Hồng Anh thư quán...; điểm du lịch tâm linh, như: chùa Quan Âm cổ tự... hoặc các công trình gắn với thành tựu kinh tế xã hội gần đây như cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau).

       Vùng du lịch phía Tây (Vùng 2): Gồm các huyện phía Tây tỉnh Cà Mau là U Minh, Trần Văn Thời và Phú Tân, là không gian du lịch quan trọng tâm của du lịch Cà Mau, bao gồm: Vườn Quốc gia, Khu Dự trữ sinh quyển, du lịch biển đảo (cụm đảo Hòn Chuối), hòn Đá Bạc, hòn Chuối, khu căn cứ Xẻo Đước, lễ hội sông Đốc, đầm Thị Tường, nhà bác Ba Phi, khu xứ Ủy Nam Kỳ, khu đền Hùng... Trong đó, đặc biệt là Khu Dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau có vùng lõi nằm trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ và dãy phòng hộ ven Biển Tây. Nơi đây có nhiều hệ sinh thái đặc trưng điển hình, như: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm trên đất ngập nước than bùn, hệ sinh thái biển... mỗi hệ sinh thái đều lưu giữ các nguồn tài nguyên sinh vật, tài nguyên địa chất phong phú có giá trị bảo tồn cao)

       Vùng du lịch phía Nam (Vùng 3): Vùng phía Nam bao gồm các huyện Năm Căn và Ngọc Hiển. Hướng phát triển quan trọng của không gian này là mở rộng về phía Bắc lên huyện Đầm Dơi vào sau năm 2015-2020. Đây là không gian du lịch quan trọng nhất của Cà Mau hiện nay, cũng là yếu tố thu hút khách du lịch chủ yếu của Tỉnh (Gồm: Vườn quốc gia Đất Mũi, rừng đặc dụng ven biển, hòn Khoai, Khai Long, điểm cuối đường Hồ Chí Minh trên biển, cột cờ Hà Nội...).

       Cà Mau cũng đã quan tâm đẩy mạnh kết nối phát triển du lịch với các tỉnh, vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương có Chương trình ký kết với hợp tác với Cà Mau, như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh quốc tế, như: Trat (Thái Lan), Khăm Muộn (Lào), Koh Kong (Campuchia).

       Kết cấu hạ tầng du lịch Cà Mau từng bước hoàn thiện, từ TP. Cà Mau đi đến tận xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển và kết nối được với một số khu, điểm du lịch. Đặc biệt, Cà Mau đã tập trung đầu tư vào tuyến đường trọng điểm cùng với đầu tư cơ sở hạ tầng Khu du lịch Khai Long - Đất Mũi; tiến hành quy hoạch phát triển các khu, điểm du lịch Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, đầm Thị Tường, cụm đảo Hòn Khoai để phát triển du lịch… Tỉnh lấy Khu Du lịch Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và Khu Du lịch Vườn Quốc gia U Minh Hạ để làm điểm nhấn cho phát triển du lịch. Trong đó, Khu Du lịch trọng điểm Mũi Cà Mau đã ''thành hình, thành hài'' đang dần đầu tư phát triển để tiến tới là khu du lịch quốc gia mang tầm vóc của khu vực.

       Tỉnh đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương cho chủ trương đầu tư mở rộng sân bay Cà Mau, cảng biển Hòn Khoai để phát triển kinh tế - xã hội, thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế.

       Thời gian qua, sản phẩm du lịch của Cà Mau ngày càng đa dạng, phong phú, các điểm du lịch mới được khai thác đưa vào hoạt động, như: Khu Du lịch Mũi Cà Mau, Khu Du lịch Hòn Đá Bạc, vườn sưu tập động vật hệ sinh thái rừng tràm, lâm, ngư trường Sông Trẹm, Khu Du lịch Lý Thanh Long, vườn chim nằm trong lòng TP. Cà Mau...

       Nhờ định hướng rõ ràng, nên ngành du lịch Cà Mau đã vượt qua những khó khăn và đang phát triển, với những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất. Số lượng khách trong nước và quốc tế đến Cà Mau ngày càng tăng, kết cấu hạ tầng du lịch, chất lượng nguồn nhân lực được tăng cao theo kịp với xu thế phát triển chung của du lịch khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Theo thống kê, năm 2019, lượng khách đến Cà Mau ước đạt 1.673.000 lượt, tăng 16% so với năm 2018 (khách quốc tế 28.800 lượt, khách nội địa 1.644.200 lượt), doanh thu đạt hơn 2.495 tỷ đồng (Báo cáo tổng kết UBND tỉnh Cà Mau, 2019).

       Vẫn còn những hạn chế, khó khăn

       Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế cũng cho thấy quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng và quy hoạch ngành theo vùng hiện nay Cà Mau chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản trị không gian kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng, thiếu bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp; liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và thành phố trong cùng khu vực.

       Chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc biệt để bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu yếu nhất trong quá trình xây dựng quy hoạch liên vùng tỉnh Cà Mau. Cách phân vùng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy được lợi thế so sánh từng vùng theo chuỗi giá trị sản phẩm, các chuỗi giá trị liên kết kinh tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.

       Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp cả nước nói chung, tỉnh Cà Mau nói riêng cần thay đổi tư duy trong liên kết vùng; phải tạo động lực đòn bẩy nâng cao tính liên kết để các ngành nghề phát triển đồng bộ. Riêng chủ đề du lịch Cà Mau cũng chưa quan tâm nhiều đến liên kết vùng trong du lịch, các điểm đến du lịch còn riêng biệt chưa thể tuần hoàn mắc xích tạo dây chuyền khép kính liên hoàn trong du lịch.

       Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới

       Một là, về nhận thức

       Cà Mau cần coi quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo vùng là một bộ phận hữu cơ của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng quốc gia. Cần coi đây là phương thức để tạo ra các mũi nhọn, các “cực tăng trưởng” đối với các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, địa phương trong tổng thể nền kinh tế; đồng thời cũng là biện pháp khắc phục cơ cấu kinh tế “khép kín” theo địa giới hành chính, trên cơ sở đó mà khai thác tối đa nguồn lực của xã hội.

       Hai là, xây dựng cơ chế điều phối, quản trị vùng

       Xây dựng chiến lược liên kết kinh tế vùng trong chiến lược phát triển quốc gia, tạo cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển, đầu tư, quản trị, dịch vụ công, phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch sinh thái bền vững… phù hợp với mỗi vùng và liên vùng có hiệu quả.

       Vùng phải thể hiện rõ tính liên kết, sớm xóa bỏ tình trạng phát triển kinh tế khép kín. Quy hoạch vùng phải gắn với điều kiện kinh tế - xã hội đặc trưng của Vùng và phải được xác định, thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Đặc biệt, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, thì công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch nói chung và cho liên kết vùng nói riêng cần được chú trọng hơn nữa.

       Ba là, đối với các vùng kinh tế trọng điểm

       Cần cân nhắc để ban hành chính sách cạnh tranh với các trung tâm kinh tế khu vực và trên thế giới; quy định rõ liên kết vùng phải theo hướng kinh tế tri thức và tiếp cận với cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, phát triển các ngành hàng có hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn... Nghiên cứu để sớm hình thành một số khu liên kết kinh tế xuyên biên giới quốc gia với một số nước láng giềng; Hình thành các cặp cửa khẩu để gia tăng hợp tác kinh tế có hiệu quả.

       Đối với các vùng điều kiện KT-XH còn khó khăn, cần có chính sách nhằm hướng việc thu hút đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội; Làm rõ chức năng bảo tồn sinh thái, gìn giữ văn hóa, bảo đảm an ninh chính trị, để từ đó có những chính sách tích hợp tổng thể đặc thù cho vùng đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ chung.

       Bốn là, các nhà khoa học, chuyên gia cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thúc đẩy phân vùng hợp lý, khoa học, phù hợp với thực tiễn; hoàn thiện quy hoạch phát triển liên vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương; Tận dụng lợi thế của sự kết vùng toàn diện.   

       Năm là, Liên kết vùng trong du lịch cần có bài toán khoa học cụ thể, định hướng liên vùng theo xu thế dài hạn, bảo đảm yếu tố phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời định hướng liên kết khu vực lân cận và hướng đến các nước lân cận theo theo xu thế toàn cầu.

       Sáu là, Liên kết vùng là giải quyết được các vấn đề lớn như sau:

       - Phát huy vai trò vị thế của vùng tỉnh trong vùng ĐBSCL tiến đến khu vực.

       - Liên kết vùng để kiểm soát không gian toàn vùng, xây dựng thể chế quản lý phát triển vùng. Chiến lược phát triển các hệ thống hạ tầng khung của vùng ĐBSCL trên địa bàn tỉnh đồng bộ và kịp thời, bên cạnh đó kết nói phát triển không gian dài hạn cho ngành du lịch định hướng lâu dài.

       - Liên kết vùng là để phát triển nhanh tập trung vào các khu vực đô thị, vùng ven các trục giao thông, vùng có điều kiện thuận lợi, vùng sâu, vùng xa phát triển nhanh, nhất là dân cư nông nghiệp.

       - Liên kết vùng đồng bộ sẽ kiểm soát điểm dân cư nông thôn còn nhiều bất cập do chưa phủ quy hoạch theo chương trình phát triển nông thôn mới.

       - Liên kết vùng tốt sẽ tạo thuận lợi và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến một cách hiệu quả. Năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa tăng và tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế sâu rộng.

       - Liên kết vùng tốt sẽ khai thác được tiềm năng và lợi thế của vùng, sử dụng đất chưa hiệu quả, kiểm soát được quá trình phân bố, chuyển đổi đất đai. Tài nguyên tự nhiên và các nguồn lực sử dụng chưa hợp lý khác và phát huy lợi thế sẵn có.

       - Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng tăng.

       - Liên kết vùng nhằm thích ứng với nguy cơ nóng lên của khí hậu toàn cầu, mực nước biển dâng cao và những tác động môi trường khác chưa đáp ứng được yêu cầu. Với vị thế ba mặt tiếp giáp biển là lợi thế cho kinh tế biển, nếu thực hiện tốt liên kết vùng sẽ làm giảm và ngăn ngừa biến đổi khí hậu toàn cầu.

       - Liên kết vùng tốt Cà Mau sẽ giải quyết được bài toán giao thông, rút ngắn khoảng cách, tạo thuận lợi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, kêu gọi được nhiều dự án BOT, BT, nhiều nguồn vốn khác v.v...

ThS. Nguyễn Phước Hoàng

Trung tâm Thông tin ứng dụng Khoa học và Công nghệ tỉnh Cà Mau