Bình diện ngữ nghĩa là gì

Chuyên mục

Dịch thuật và ngôn ngữ họcNgôn ngữ học lịch sửNgôn ngữ học miêu tảNgôn ngữ học tri nhậnNgôn ngữ học đối chiếuNgữ nghĩa họcTừ vựng học

Thư viện

[lược trích và bổ sung bài: Lê Đình Tư. Những vấn đề ngữ nghĩa học âm vị. Tạp chí khoa học ngoại ngữ 3, 2005]

Như trên đã nói, ngôn ngữ học phân biệt hai bình diện của ngôn ngữ: bình diện biểu hiện và bình diện nôi dung hay bình diện ngữ nghĩa. Nói về bình diện biểu hiện của ngôn ngữ là nói về cấu trúc hình thức của các đơn vị ngôn ngữ, còn nói về bình diện nội dung là nói về ý nghĩa của các đơn vị đó. Với quan niệm đó, người ta cũng đã vạch ra một đường ranh giới cho các lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ: Mô tả mặt biểu hiện của ngôn ngữ, chúng ta đi từ cấp độ âm vị, còn khi mô tả mặt nội dung của nó thì bắt đầu từ cấp độ hình vị. Âm vị được coi là những đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để cấu tạo nên mặt ngữ âm của ngôn ngữ và không có nghĩa, còn hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Kết quả là, khi đề cập đến bình diện ngữ nghĩa của ngôn ngữ, cấp độ âm vị thường bị bỏ qua. Nói cách khác, ngữ nghĩa học thường được coi là lĩnh vực ngôn ngữ học nghiên cứu những cấp độ ngôn ngữ lớn hơn âm vị. Trong thực tế, khi đối chiếu những vấn đề ngữ nghĩa giữa các ngôn ngữ, người ta cũng thường tập trung chủ yếu vào cấp độ từ vựng, bởi vì các đơn vị từ vựng như từ, thành ngữ được coi là những đơn vị có nghĩa hoàn chỉnh và có thể xác định được những đơn vị tương đương trong ngôn ngữ khác để đối chiếu.Bạn đang xem: Bình diện là gì

Tuy nhiên, từ lâu người ta đã để ý đến các hiện tượng tượng thanh hay tượng hình, tức là những trường hợp mà âm thanh của ngôn ngữ có quan hệ khá chặt chẽ với những gì chúng biểu đạt trong thực tế khách quan. Chẳng hạn, H. Schreuder [1970] đã nhận ra rằng, tổ hợp âm ash trong tiếng Anh rất hay được dùng để biểu đạt những động tác nhanh hoặc đột ngột, ví dụ: flash [lóe sáng], dash [lao tới, ném mạnh], crash [đâm sầm xuống], hay tổ hợp âm vị /bl/ [cũng trong tiếng Anh] thường xuất hiện trong các từ biểu thị sự khó chịu, ghê tởm hay chán ngấy, ví du: bland smile [nụ cười nhạt nhẽo], blare [làm om sòm], blast [nguyền rủa] Thậm chí, tác giả còn thấy rằng, trong một số trường hợp, mối quan hệ giữa âm thanh ngôn ngữ [không chỉ là từ tượng thanh] và ý nghĩa chặt chẽ tới mức chúng có thể ảnh hưởng tới việc thay đổi ý nghĩa của từ trong quá khứ, khiến hiện nay một số tổ hợp âm trong tiếng Anh biểu thị những ý nghĩa tiêu cực thay vì ý nghĩa trung hòa như trước đây. Chẳng hạn, âm vị /u/ khi kết hợp với một số âm vị khác [ví dụ như với /l/, /ʃ/ hay /p/] thường biểu đạt những sự vật, sự việc được đánh giá tiêu cực, ví dụ: allure [cám dỗ, quyến rũ], shrew [người dàn bà đanh đá, độc ác], putrid [thối tha, đồi bại]. Những hiên tượng tương tự trong tiếng Pháp cũng đã được P. Guiraud [1971] đề cập đến trong tác phẩm La semantique. Trên địa bàn tiếng Việt, Nguyễn Hữu Quỳnh [1994] cũng đã nêu nhận xét rằng, một số vần và nguyên âm có khả năng biểu thị một nét nghĩa nào đó về trạng thái, họat động, tính chất.. Ví dụ: vần it trong tiếng Việt biểu thị một nét nghĩa chung là làm kín, làm chặt thêm của các từ bịt,khít,thít, trong khi vần óp mang nét nghĩa giảm thể tích, thu nhỏ khối lượng như trong các từ bóp, haytọp. Nghiêm túc hơn, các nhà phong cách học cũng đã bàn khá nhiều về giá trị tu từ học của các yếu tố ngữ âm trong các ngôn ngữ. Xa hơn nữa, W. Humboldt cũng đã nhìn nhận ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị ngữ âm trong các ngôn ngữ.

Bạn đang xem: Bình diện là gì

Nhìn một cách tổng thể, các nhà ngôn ngữ học này, ở những mức độ và góc độ khác nhau, đều thừa nhận tính có lí do nhất định của âm thanh ngôn ngữ. Họ cho rằng không phải lúc nào mối quan hệ giữa mặt âm và mặt nghĩa trong ngôn ngữ cũng đều mang tính võ đoán, rằng các ngôn ngữ có những lí do và cách thức khác nhau để lựa chọn các phương tiện ngữ âm nhằm biểu đạt những sự vật, hiện tượng, đặc trưng, hay tính chất trong thực tế khách quan. Sự lựa chọn này có liên quan đến bản thân các âm thanh ngôn ngữ và các mối quan hệ đối lập giữa chúng với nhau. Nói cách khác, trong một số trường hợp, người ta thừa nhận có sự hài hòa nhất định giữa mặt âm thanh và mặt nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ.

Xem thêm: Sinh Ngày 25 Tháng 8 Là Cung Gì ? Bật Mí Đặc Điểm Tính Cách, Tình Yêu, Sự Nghiệp

Sự thừa nhận giá trị ngữ nghĩa của các âm vị, hoặc phức thể âm vị, tạo tiền đề cho việc hình thành một bộ môn nghiên cứu mới: Ngữ nghĩa học âm vị

[semantyka fonemów lub fonosemantyka], bộ môn nghiên cứu giá trị ngữ nghĩa của cấp độ âm vị.

Như vậy, các nghiên cứu ngữ nghĩa học âm vị sẽ bổ sung những thông tin làm cho bức tranh về các bình diện ngữ nghĩa của ngôn ngữ được hoàn chỉnh hơn. Với ngữ nghĩa học âm vị, cấu trúc các bình diện của ngôn ngữ trở nên nhất quán hơn: trên bình diện biểu hiện, chúng ta nghiên cứu toàn bộ mặt cấu tạo hình thức của ngôn ngữ: đi từ âm vị đến văn bản, còn trên bình diện ngữ nghĩa, chúng ta xem xét toàn bộ mặt nội dung của ngôn ngữ, cũng đi từ âm vị đến văn bản. Điều này cũng có nghĩa là ngữ nghĩa học đối chiếu cũng quan tâm đến cả cấp độ âm vị của ngôn ngữ.

Investment banking là gì
19/6 là cung gì
What does collate mean when printing?
Crisis management là gì
Cốt truyện tiếng anh là gì
Root mean square là gì
Hai loại game bắn cá trung quốc được đông đảo người việt yêu thích
Year on year là gì
File webm là gì
Giới thiệu công cụ lập trình game cocos creator

Video liên quan

Chủ Đề