Bài thơ hầu trời nội dung là gì năm 2024

Hầu trời là một sáng tác xuất sắc thuộc tập thơ Còn chơi của Tản Đà. Bài thơ kể về một chuyến phiêu lưu tưởng tượng khi tác giả đưa người đọc đến thăm Thiên đàng. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm và nâng cao kỹ năng văn viết, hãy theo dõi các gợi ý và hướng dẫn bổ ích dưới đây.

Đề bài phân tích: Hãy tận dụng khả năng văn bản để phân tích bài thơ Hầu trời [trích từ tập thơ Còn chơi] của Tản Đà.

Mục Lục bài viết: 1. Dàn ý chi tiết 2. Bài mẫu số 1 3. Bài mẫu số 2 4. Bài mẫu số 3

Mẫu văn Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà đầy ấn tượng và đặc sắc

  1. Cấu trúc Phân tích bài thơ Hầu trời [Chuẩn]

1. Bắt đầu

* Giới thiệu tác giả và tác phẩm: - Tác giả trong ánh đèn hồng: + Tản Đà, gọi tên là nhà thơ nằm giữa hai thế kỷ. + Văn hóa kết nối từ trung đại đến hiện đại, đặt nền móng cho Thơ mới.

2. Phần thân bài:

* Tổng quan nội dung: - Xuất hiện trong tập thơ “Còn chơi” và ra mắt độc giả vào năm 1921. - Bài thơ là cuộc phiêu lưu “hầu trời” của một nhà thơ, có thể được tóm tắt theo thứ tự thời gian: + Giới thiệu về việc nhân vật lên trời đọc thơ. + Mô tả khung cảnh đọc thơ và thái độ của trời. + Kết thúc với một cuộc chia tay đầy xúc động.

* Phân tích chi tiết - Ngay từ những dòng đầu, Tản Đà để lại ấn tượng mạnh mẽ với sự dẫn dắt độc đáo: + Mặc dù câu chuyện là tưởng tượng, nhưng với việc lặp lại từ “thật” 3 lần, tác giả nhấn mạnh về sự thật. + Bắt đầu từ đêm tối, nhà thơ đun nước và thơ mình “vang cả ngân hà”, khiến Trời “mất ngủ”. → Gợi sự tò mò cho độc giả - Tiếp theo, nhà thơ kể về diễn biến của buổi “hầu trời”: + Đầu tiên, theo lệnh của Trời, thi sĩ trình bày thơ cho Trời và các thần tiên lắng nghe.

* Đánh giá tổng quan

- Mặc dù chỉ là sự tưởng tượng, nhưng cách viết tự nhiên và cách xây dựng câu chuyện với đầy đủ cốt truyện và nhân vật đã tạo nên một sự gần gũi và mới lạ cho độc giả. - Dù bài thơ đã kết thúc, nhưng dư âm mà nó để lại vẫn âm nhạc trong tâm trí độc giả.

3. Phần kết bài

Khẳng định giá trị của bài thơ: Với tác phẩm này, Tản Đà thực sự đem đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người khởi đầu cho phong trào Thơ mới.

II. Mẫu văn Phân tích bài thơ Hầu trời

Bí quyết Phương pháp phân tích đoạn thơ xuất sắc, dễ đạt điểm cao

1. Phân tích bài thơ Hầu trời, mẫu số 1 [Chuẩn]

Tản Đà [1889-1939], tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn nhà viết kịch và đồng thời là một trong những người dịch thơ cổ xuất sắc nhất của Việt Nam [đặc biệt là thơ Đường]. Trên đấu trường văn nghệ Việt Nam đầu thế kỷ XX, sự chiếm hữu của thực dân Pháp, cùng với sự bất lực của triều đình phong kiến trước thách thức của thời đại, đã khiến lịch sử dân tộc trải qua nhiều sóng gió mạnh mẽ, không chỉ về mặt kinh tế chính trị mà còn là văn hóa. Nho học dần mất đi vị thế, các thể loại thơ cổ, ý nghĩa sâu sắc ít dần trở nên cũ kỹ, lạc hậu và không còn phản ánh chính xác tâm huyết của thời đại. Điều đó thúc đẩy sự nổi lên và phát triển của một số tác giả biết làm mới và nhạy bén trước biến cố của thời đại, trong đó có Tản Đà. Nếu Hoài Thanh, Hoài Chân thường nhắc đến Thề non nước hay Tống biệt như là những bài thơ tiêu biểu của Tản Đà, bởi chúng mang đậm tình yêu quê hương, chủ đề quan trọng trong văn học trung đại và văn học mọi thời kỳ. Nhưng khi nghiên cứu kỹ lưỡng, ta mới thấy rằng, để đánh giá Tản Đà như một nhà thơ nổi bật cuối thời kỳ trung đại, với tài năng và khả năng sáng tác phong phú, đồng thời là “điểm nối giữa hai giai đoạn văn học cổ điển và hiện đại” - người đặt dấu ấn cho một giai đoạn thơ mới thịnh vượng gần một thập kỷ và lưu truyền giá trị hàng trăm năm. Thì chắc chắn, không thể bỏ qua tên tuổi và tác phẩm Hầu Trời - tác phẩm mang đầy đủ những yếu tố mới lạ, khác biệt trong cách thể hiện và hình thức thơ của Tản Đà thời kỳ chuyển đổi.

Hầu Trời, một tác phẩm được Xuân Diệu đánh giá cao với những lời nhận xét đầy ấn tượng rằng đây là một trong những bài thơ vững bền trước thời gian, kiêu hãnh với thời gian. Tác phẩm được xuất bản lần đầu trong tập Còn chơi [1921] với tổng số câu là 120, sau đó được in lại trong Tuyển tập Tản Đà nhưng bị rút ngắn xuống còn 114 câu.

Về ý kiến độc đáo của việc 'hầu trời' trong văn học Việt Nam, trước đây đã có nhiều câu chuyện dân gian với sự tương tác giữa thế giới thần tiên và con người như Cóc kiện trời, hoặc trong các truyện kỳ bí của Nguyễn Dữ như Chuyện người con gái Nam Xương hay Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tuy nhiên, khi đọc Hầu Trời, ta vẫn bị thu hút bởi nhiều khía cạnh, đặc biệt là cách tác giả đưa vào câu chuyện một cách độc đáo. Khúc thơ đầu tiên mở ra một không gian mơ mộng, huyền bí, chứa đựng nhiều ảo tưởng của thi sĩ. Điều này mang lại cho độc giả cảm giác tự nhiên khi chuyển từ thế giới thực tế vào giấc mơ của thi sĩ, khiến hầu trời của Tản Đà không chỉ là câu chuyện tưởng tượng hay huyền bí, mà là ý nghĩa trong giấc mơ của người viết. 'Đêm qua chẳng biết có hay không?' là một câu hỏi về giấc mơ có thực sự hay không, là thực tế hay ảo, tạo nên cảm giác bất ngờ, mơ hồ khi bước ra khỏi giấc mơ đẹp. Sau khi đặt ra một câu hỏi đầy nghi ngờ, tác giả tự trả lời cho mình rằng 'Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng/Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!/Thật được lên tiên – sướng lạ lùng', để khẳng định rằng giấc mơ đêm qua là có thật bằng cách phủ định liên tục với các từ 'chẳng', 'không', nhấn mạnh cảm xúc mà tác giả trải qua thông qua việc lặp lại bốn lần từ 'thật'. Một cách tinh tế, hấp dẫn và tự nhiên.

Đánh giá bài thơ Hầu trời để khám phá tài năng và cá tính đặc biệt của Tản Đà

Câu chuyện về hầu trời bắt đầu khi tác giả đọc thơ cho Trời và các tiên nhân nghe. Trước khi đọc thơ, Tản Đà tóm tắt về bối cảnh của thiên đình trong khi bản thân được đưa lên đỉnh cao, có cảnh 'Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ/Thiên môn đế khuyết như là đây' và 'Ghế bành như tuyết vân như mây' tái hiện không gian nguy nga, tráng lệ, đậm chất tiên chốn bồng lai. Không chỉ vậy, tác giả giới thiệu các nhân vật trên trời như Trời, Cơ, Tâm, Hằng Nga, Chức Nữ, Song Thành, Tiểu Ngọc - những vị tiên quen thuộc với chốn nhân gian qua các câu chuyện cổ tích, cùng với những nhân vật vô danh như tiên nữ, tiên nga hầu trên thiên đình,... tạo ra không gian sống động, đẹp đẽ và thực tế trong trái tim độc giả. Cảnh đọc thơ, một phần là sự kính trọng và trân trọng mệnh lệnh trời phải đọc thơ một cách trang trọng, hai là Tản Đà rất tự tin vào văn phong của mình, vì vậy trước chư tiên, thi sĩ tỏ ra cao quý và chuẩn bị cẩn thận, chờ đến khi 'Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc' mới bắt đầu đọc thơ với sự 'nhấp giọng', sau đó say sưa thể hiện 'Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi'. Tản Đà phô diễn tất cả tài năng văn chương trong chuyến này, 'đường cơn đắc ý đọc đã thích' như chưa từng được đọc. Không chỉ thế, ông còn bộc lộ thái độ tự hào về văn chương của mình thông qua cách tường thuật thái độ của chư tiên khi nghe văn ông:

“Trời nghe Trời cũng thấy hay Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Hằng Nga, Chúc Nữ nhíu mày Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay”.

Tất cả đều thể hiện sự ngưỡng mộ, tập trung thưởng thức thơ của Tản Đà, đặc biệt thơ ông còn được tiên khen, không phải là người bình thường, tục tử thì chắc chắn cũng đã hiểu rõ về tuyệt vời của những tác phẩm văn chương đó.

Ngoài ra, Tản Đà cũng rất phấn khích khi chia sẻ về những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của mình một cách linh hoạt và tự tin, hạnh phúc, qua những dòng văn như:

“Những đoạn văn con đã in hết rồi Hai cuốn Khối tình văn thuyết lý Hai Khối tình con là văn chơi Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gương, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch Đến quyển Lên tám nay là mười Nhờ Trời văn con còn bán chạy Chưa biết con in ra bao nhiêu?”

Sau đó, thi sĩ bắt đầu giới thiệu bản thân mình, tên gọi quê quán được nêu ra một cách phóng khoáng và đầy tự hào “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/Quê ở Á châu về Địa cầu/Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Tấn Đà thể hiện cách xử sự mạnh mẽ, tự tin và đầy bản lĩnh, đặc biệt là trong môi trường đèn lên chầu Trời, nơi ông tỏ ra như cá trong nước, tự tin khoe sự hiếm có của tài năng văn chương.

Đồng hành cùng thi sĩ là cảm xúc của những vị tiên khi nghe thơ, từng cá nhân thể hiện cảm xúc và thái độ riêng. Trời, tuy oai nghiêm làm chủ trời đất, nhưng lại 'lấy làm hay', thậm chí hứng chí 'bật buồn cười'. Tâm ngôi sao thấy sung sướng như 'nở dạ', Cơ thì thích thú 'lè lưỡi', Hằng Nga, Chức Nữ cảm nhận 'chau đôi mày', mặt ngọc ra chiều ngẫm nghĩ về ý văn sâu sắc của Tản Đà. Song Thành, Tiểu Ngọc hai thị nữ của Tây Vương Mẫu cũng phải 'lắng tai đứng', quên việc hầu hạ. Chung quy đều vỗ tay, thể hiện sự tán thưởng, hoan nghênh trước tài văn chương của Tản Đà. Những tiên ao ước tranh nhau dặn: 'Anh gánh lên đây bán chợ Trời!', xóa nhòa khoảng cách và thân phận, chỉ còn lại sự yêu mến văn chương của độc giả với người tài năng, trở thành tri âm tri kỷ, đối với người tác giả thì chẳng còn gì sung sướng hơn.

Sau câu chuyện hầu trời, từ lời bộc bạch của Tản Đà, đọc giả nhận ra câu chuyện đời của tác giả và của những người cầm bút đương thời. Tản Đà thúc thủ với Trời rằng “Trần gian thước đất cũng không có”, nỗi đau sâu sắc nhất của thi sĩ về cuộc sống khốn khổ nằm trong câu “Một năm ba trăm sáu mươi đêm/Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”. Bức tranh nghệ thuật của ông không chỉ là vẻ đẹp thơ mộng mà còn là hình ảnh cảm xúc đau đớn, cô đơn của một nhà văn đối diện với sự thực 'Văn chương hạ giới rẻ như bèo'. Những nghệ sĩ lâm vào cảnh bế tắc, rút hết bụng văn chương để mưu sinh, giống như con tằm rút cạn ruột để nhả tơ cho đời. Tận cùng nỗi đau đời là sự cô đơn, lạc lõng của Tản Đà và những nhà văn đương thời khi “văn chương hạ giới rẻ như bèo” và không ai để ý, xem trọng. Cảnh báo rằng người nghệ sĩ lâm vào cảnh khốn khó, buộc phải tìm sự đắc chí ở nơi khác, và Tản Đà chọn cõi trời để chứng minh và tìm kiếm sự đắc chí ấy. Nhưng cũng từ đó hé lộ sự cô đơn, lạc lõng khi phải rời xa đời trần ai đầy chật vật.

Bức tranh của Tản Đà không chỉ là về nghệ thuật thơ mộng mà còn là hình ảnh của những nghệ sĩ đau đớn, cô đơn trong sự thật nghệ thuật khắc nghiệt. Tản Đà tỏ ra tự tin và kiêu hãnh về tài năng, nhận thức rõ giá trị cá nhân của mình. Ông tìm kiếm sự thấu hiểu, tri âm, tri kỷ trong cõi tiên, nơi mà ông cảm thấy thoải mái, tự tin thể hiện tài năng một cách tự nhiên. Cũng là sự cảnh báo về sứ mệnh, trách nhiệm của người cầm bút, được thể hiện qua việc Thiên Tào tra sổ và Trời hỗ trợ Tản Đà. Tuy nhiên, cảnh báo này lại đồng thời hé lộ sự cô đơn, lo lắng của Tản Đà về sứ mệnh nặng nề mà Trời giao. Thất vọng với cuộc sống khốn khổ, Tản Đà thể hiện qua lời thúc giục của Trời: “Trời rằng: “Không phải là Trời đày./Trời định sai con một việc này/Là việc “thiên lương” của nhân loại,/Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Tản Đà thể hiện sự phân vân, đau đớn với sứ mệnh Trời khi mặc dù Tản Đà coi mình như “Cái cây che chống bốn năm chiều”, nhưng phải đối diện với việc rút hết bụng văn chương để mưu sinh, giống như con tằm rút cạn ruột để nhả tơ cho đời. Trời bộc lộ sự thấu hiểu với lời động viên: “Trời rằng: “Không phải là Trời đày./Trời định sai con một việc này/Là việc “thiên lương” của nhân loại,/Cho con xuống thuật cùng đời hay.” Tản Đà cảm thấy nghi ngại: “Trời lại sai con làm việc nặng quá./Biết làm có được mà dám theo.” Người văn sĩ chịu đựng biết bao thách thức, đau đớn, và lo sợ với sứ mệnh Trời, nhưng đồng thời làm nổi bật tình cô đơn và nghi ngờ của mình trước trách nhiệm nặng nề, không biết liệu có đủ dũng cảm để theo đuổi hay không.

Trải qua hành trình khám phá bài thơ Hầu trời của Tản Đà, chương trình Ngữ văn lớp 11 cung cấp những bài văn mẫu phong phú, như Đánh giá về tác phẩm thơ Hầu trời của Tản Đà, Sự độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời, Phân tích đặc sắc của Tản Đà trong bài Hầu trời, Hiểu biết về thơ Tản Đà qua bài Hầu trời, chứng minh tác phẩm của ông là 'một liên kết quan trọng giữa hai giai đoạn văn học',...

2. Phân tích bài thơ Hầu trời, mẫu số 2 [Chuẩn]

Mỗi khi nói đến người “nằm giữa hai thế kỷ” trong văn học, người ta nhắc đến ngay Tản Đà. Ông không chỉ là nhà văn đặc sắc giữa hai giai đoạn văn học trung đại và hiện đại, mà còn là người mở đường cho Thơ mới. Thơ của Tản Đà là sự thể hiện của cái tôi tự do, lãng mạn, của cái tôi yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. “Hầu trời” là một trong những bài thơ nổi bật thể hiện rõ cái tôi của ông.

Bài thơ xuất hiện trong tập “Còn chơi” và được công bố vào năm 1921. Tản Đà kể một câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ với cách kể tự nhiên, giọng điệu cuốn hút, kết hợp tinh tế giữa cảm hứng lãng mạn và thực tế. “Hầu trời” giống như một câu chuyện tự kể với cốt truyện, tình huống truyện, và nhân vật kể chuyện. Do đó, chúng ta có thể tóm tắt bài thơ dễ dàng theo thứ tự thời gian: bắt đầu với nhân vật giải thích tại sao mình được lên trời đọc thơ, mô tả khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời, sau đó kết thúc với cuộc chia tay tràn ngập nỗi nhớ thương.

Ngay từ những dòng đầu của bài thơ, Tản Đà tạo ấn tượng mạnh mẽ với sự dẫn dắt độc đáo của mình:

“Đêm qua không rõ có điều gì đặc biệt không Không hoảng sợ, không mộng mị Thật là hồn nhiên! Thật là kiêu sa! Thật là thân thể Thật sự được lên tiên – cảm giác kỳ diệu”

Dù câu chuyện ban đầu có vẻ kỳ cục, nhưng với cách kể của mình, tác giả đã làm cho người đọc tin tưởng vào sự thật, một cách tự nhiên và không giả tạo. Rõ ràng, câu hỏi mở đầu là để tác giả tỏ ra không chắc chắn về sự thật trong câu chuyện, nhưng ba câu thơ tiếp theo, lặp lại ba lần từ “thật”, là lời khẳng định sự thật với độc giả. Sau khi khẳng định về việc được lên trời, Tản Đà giải thích lý do thông qua những câu thơ. Câu chuyện bắt đầu từ một đêm tĩnh lặng, nhà thơ ngồi dậy, đun nước và thơ mình, “làm rơi cả vũ trụ” khiến thần tiên Trời “thức trắng đêm”. Câu chuyện có vẻ không tin nhưng qua cách kể hóm hỉnh, Tản Đà khiến người đọc trở nên tò mò hơn về những điều sẽ diễn ra.

Những bài văn Phân tích tác phẩm thơ Hầu trời lớp 11 đáng đọc

Sau đó, nhà thơ bắt đầu kể về diễn biến của buổi “hầu trời” một cách rất tự nhiên. Đầu tiên, theo mệnh lệnh của Trời, thi sĩ đã thể hiện tài năng đọc thơ của mình trước Trời và các chư tiên như sau:

“Phổ biến cho văn sĩ trình bày Thân phận khiêm tốn Trời ơi con xin đọc”.

Với một nhà thơ, việc sáng tác không chỉ là sở thích mà còn là đam mê sâu sắc. Thơ là nguồn cảm hứng khiến thi sĩ nổi loạn trong cảm xúc và hứng thú đến độ phi thường:

“Ngắm văn xuôi, lướt văn thơ Chuyển động sáng tác, chơi với văn chương Khi đắc ý với tác phẩm, đọc thật sự là niềm vui Thậm chí, thưởng thức trời nhấp giọng là điều tuyệt vời nhất”.

Với sự nhiệt huyết của thi sĩ, sự chú ý của người nghe là không thể phủ nhận, họ không chỉ tập trung mà còn thể hiện sự đánh giá và tôn trọng: “Hằng Nga, Chức nữ nhấc mày chăm chú”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”… Những chư tiên cũng không kém phần hứng khởi khi thi sĩ chia sẻ về tập thơ của mình: “Anh nâng lên đây như là chợ trời”.

Trong thế giới thơ, cái tôi luôn là điểm đáng chú ý. Thơ ca chỉ khi nào có cái tôi, nó mới trở nên đặc sắc. Và ở những câu thơ tiếp theo, Tản Đà đã thể hiện rõ cái tôi của mình một cách đặc sắc:

“Trời còn khen: “văn tuyệt vời! Văn trần đẹp đẽ thế không phải ít Văn học thăng hoa, đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây biến đổi! Êm dịu như gió thoảng, tinh khôi như sương! Đầy đặn như mưa sa, lạnh lùng như tuyết!”

Bằng cách sử dụng lời của Trời, tác giả đã khéo léo khen ngợi văn thơ của mình. Điều này được xem là một hiện tượng độc đáo trong văn chương. Không chỉ chứng tỏ sự tự tin vào tài năng của mình, thi sĩ còn muốn khẳng định tài năng, phẩm chất đặc biệt của mình. Khi so sánh những từ ngữ của mình với vẻ đẹp của thiên nhiên như sao băng, mây, gió, mưa, tuyết… Tản Đà thể hiện sự kiêu hãnh đối với vẻ đẹp và tài năng trong văn chương của mình.

Sau khi chia sẻ về bản lĩnh văn chương của mình, Tản Đà dùng bút kể về cuộc sống của tầng lớp nghệ sĩ thời kỳ đó:

“- Trời ơi, cuộc sống thực sự nghèo đó Trên đời này, đất đai còn chẳng có … Trời lại đặt trách nhiệm nặng nề quá Biết rõ có thể làm được nhưng liệu dám không”

Qua những hình ảnh chân thực, đoạn thơ chân dung một cách thực tế cuộc sống khó khăn của các nghệ sĩ và tình hình lộn xộn trong văn chương thời kỳ đó. Ngược lại hoàn toàn với tinh thần hứng khởi trước đó, đoạn thơ này mang một tâm trạng u buồn, đau lòng. Mặc dù câu chuyện về việc hầu trời là tưởng tượng, nhưng nhà thơ dường như tự an ủi bản thân, hy vọng vào một điều gì đó tốt đẹp hơn cho thế hệ của mình:

“Cho rằng: Con không cần nói Trời đã hiểu Dù ngồi cao cả, Trời hiểu rõ tất cả Điều quan trọng là con hãy trở về làm việc Không sợ những khó khăn như sương mù hay tuyết phủ”

Sau những lời dặn dò của Trời, cảnh chia tay đầy xúc động giữa thi sĩ và các chư tiên diễn ra như một bức tranh huyền bí:

“Dòng sương lụy rơi như những giọt ngọc Trải dọc trần gian, vạn dặm sóng khơi Thiên tiên ở lại, trích tiên nối bước Đi theo dòng không khí về với thế gian”

Mọi sự kiện diễn ra huyền bí tới mức khi thi sĩ tỉnh giấc, nhận ra đó chỉ là một giấc mộng, nhà thơ không ngừng tiêc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm Mỗi đêm chỉ biết đếm lên bao lần hầu Trời”.

Những dòng thơ đã đóng lại cuốn sách, đóng lại một câu chuyện, nhưng dư âm của nó vẫn tiếp tục. Mặc cho chỉ là tưởng tượng, nhưng cách viết tự nhiên, việc xây dựng câu chuyện với cốt truyện, nhân vật… đã mang lại sự gần gũi, mới mẻ cho người đọc.

Người ta nói, bài thơ “Hầu trời” không chỉ là một câu chuyện hóm hỉnh, vui vẻ mà còn truyền đạt những triết lý về cái tôi trong thơ ca đến với các nhà văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Tản Đà thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu là người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.

2. Phân tích bài thơ Hầu trời, mẫu số 2:

Nếu cái tôi của Xuân Diệu 'là Một, là Riêng, là Thứ nhất' thì cái tôi của Tản Đà là cái tôi lãng mạn, ngông nghênh, tự do thể hiện khát khao khẳng định bản thân giữa cuộc sống. Sự khao khát ấy được ông thể hiện rõ qua bài thơ 'Hầu trời'. Đây là một tác phẩm in trong tập 'Còn chơi' và được xuất bản vào năm 1921.

Ta đã chạm vào ước mơ lên thiên đình của Tản Đà qua bài thơ 'Muốn làm thằng cuội'. Chốn thiên đình, nơi bồng lai tiên cảnh, trở thành đề tài thân thuộc trong văn chương trung đại. Dường như Tản Đà không tìm thấy tri kỉ trong lĩnh vực thơ ở chốn hạ giới, nên ông quyết định tìm kiếm tri âm tại chốn thiên đình. Thơ ông được ví như cố rượu mới với sự đổi mới về hình thức, nghệ thuật, và ông được xem là 'gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại'. 'Hầu trời' viết dưới dạng lời kể tự sự, tường thuật việc nhà thơ tưởng tượng mình lên thiên đình gặp trời và các chư tiên để đọc thơ:

'Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng'.

Câu chuyện diễn ra vào 'đêm qua' yên bình, không gian trống vắng, nhưng lại 'chẳng biết có hay không', một phần thực, một phần mơ. Chuyện lên thiên đình của Tản Đà có thể khiến nhiều người hoài nghi về độ chính xác, nhưng nhà thơ khẳng định rằng đó là sự thật, không 'mơ mòng', không 'hoảng hốt'. Từ 'thật' lần nữa chứng minh câu chuyện không phải là tưởng tượng. Tản Đà đã gặp tiên và có cảm giác 'sướng lạ lùng', khó diễn đạt. Cảm giác đó đã làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Tản Đà khéo léo khi 'bắt đầu mạnh mẽ, đặt vấn đề khách quan, nghi ngờ theo khoa học, rồi bắt đầu khẳng định, đánh bại người đọc' [Xuân Diệu]. Mở đầu câu chuyện của nhà thơ rất lôi cuốn và độc đáo, thu hút sự chú ý, tò mò của độc giả.

Ông kể chi tiết về việc Trời gọi mình một cách tỉ mỉ. Tác giả nằm một mình vào lúc ba canh sáng, sau đó dậy đun nước để uống rồi ngâm văn. Nhưng 'chơi văn ngâm chán lại chơi trăng' thì đột nhiên xuất hiện hai cô tiên và nói rằng:

'Trời nghe hạ giới ai ngâm nga Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà Làm Trời mất ngủ,Trời đương mắng Có hay lên đọc, Trời nghe qua'.

Đó là lý do Trời sai tiên nữ xuống mời Tản Đà lên đọc cho Trời nghe. Niềm mong ước của Tản Đà đã thành hiện thực. Ông đi theo hai cô tiên 'lên đường mây' và nhìn thấy 'Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ' cùng cửa trời huyền bí. Chư tiên ngồi yên, Trời 'truyền cho văn sĩ đọc văn nghe'.

Phân tích bài thơ Hầu trời có dàn ý chi tiết

Thi sĩ có cơ hội thể hiện niềm đam mê của mình với văn chương:

'Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lí lại văn chơi Đương cơn đắc ý đọc đã thích Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi'.

Tản Đà biểu đạt lòng biết ơn với sự thiết đãi của Trời, khi Trời truyền cho văn sĩ ngồi ghế bành, thưởng thức chè trời 'nhấp giọng' bằng cách thể hiện tài năng của mình. Áng văn vần, văn xuôi của Tản Đà khiến Trời thích thú, 'cũng lấy làm hay'. Tiên nữ như Hằng Nga, Song Thành, Tiểu Ngọc, hay Chức Nữ đều 'lắng tai' nghe và vỗ tay cổ vũ. Tản Đà không dám dối trá với Trời khi kể tên các tập thơ như: 'Khối tình', 'Khối tình con', 'Thần tiền', 'Giấc mộng', 'Đài gương', 'Lên sáu', 'Đàn bà Tàu', 'Lên tám'. Tài năng của ông không chỉ giới hạn ở một loại văn mà phong phú trên nhiều thể loại khác nhau. Chỉ có trong văn chương, Tản Đà bộc lộ hết khao khát, đam mê, ước muốn của bản thân. Ông thể hiện lòng biết ơn dành cho Trời qua câu thơ:

'Nhờ Trời văn con còn bán được Chưa biết con in ra mấy mươi?'

Khi chưa biết in ra bao nhiêu tác phẩm để bán, Tản Đà đã nhận lời mời của các vị chư tiên: 'Anh gánh lên đây bán chợ Trời'. Văn chương của ông sẽ trở thành mặt hàng đắt giá chốn chợ Trời, chứ không 'rẻ như bèo' ở hạ giới.

Thưởng thức tài năng của Tản Đà, Trời và chư tiên hết lời khen ngợi:

'Trời lại phê cho: 'văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!''

Không ngần ngại mượn lời của Trời, nhà thơ tự dành lời khen cho thơ ca của mình. Cái Tôi của ông đầy khí phách và ngông nghênh. Dù có chút hài hước, cao ngạo, ông ý thức tài năng của mình và rất tự tin khi thể hiện bản ngã. Phép so sánh thơ của Tản Đà 'đẹp như sao băng', 'hùng mạnh như mây chuyển', 'êm như gió thoảng', 'tinh như sương', 'lạnh như tuyết' làm thấy thơ ông đẹp từ lời lẽ đến chí khí.

Rõ về tài năng, Tản Đà dõng dạc trả lời về tên tuổi, nơi ở của Trời:

'Dạ, bẩm lạy Trời con xin nói Con là Khắc Hiếu, Nguyễn là họ Quê ở Á Châu, địa cầu một góc Sông Đà núi Tản, nước Nam Việt.'

Giới thiệu của ông rõ ràng, minh bạch nhưng táo bạo khi bị 'Đày xuống hạ giới vì tội ngông'. Tản Đà tự hào là con của nước Nam Việt, quê ở Á châu, Địa cầu. Qua đó, ông kín đáo giới thiệu tên Tản Đà là sự kết hợp giữa núi Tản và sông Đà. Thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ:

'Sông Đà núi Tản là nơi mình Trần thế xưa nay được vài người Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc Thanh cao phô trắng nhành mai'.

Nhưng Trời không 'đày' Tản Đà xuống hạ giới, mà Trời sai ông làm 'thiên lương của nhân loại'. Thiên lương phụ thuộc vào sự tu dưỡng, và Trời giao cho ông nhiệm vụ hãy làm cho thiên lương của con người hưng thịnh ở chốn hạ giới. Đó cũng là trách nhiệm của các nhà văn, nhà thơ, vì văn chương là 'thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn' [Thạch Lam].

Nhận ra nhiệm vụ của những người viết văn, nhưng Tản Đà cũng trải lòng về khó khăn khi kiếm sống từ nghề này:

'Bẩm Trời, cuộc sống thực sự khó khăn Thước đất chẳng có, nghèo đói trước mắt Học mòn mẫm, văn nghệ làm lẻo Làm văn cần mực, thuê cửa hàng và in ấn Văn chương hạ giới, giá trị hạ thấp Lời lãi ít ỏi, mệt nhọc kiếm sống Thời gian khan hiếm, chi phí thì nhiều Lo âu ăn mặc, tuổi tác gia tăng Một cõi che chống bốn năm chiều Trời lại gánh nhiệm vụ nặng nề Làm đâu mà dám theo'.

Nhà thơ chân thành thổ lộ nỗi khó khăn của bản thân và nhân dân nói chung ở cuộc sống hạ giới, muốn Trời hiểu thấu. Văn chương, nghệ thuật không đem lại giàu sang, nhưng nói lên nỗi khổ, túng thiếu. Tản Đà muốn lên thiên đình để giãi bày với Trời, tìm tiếng nói tri âm. Cuộc sống xoay quanh nỗi lo cơm áo gạo tiền, 'học ngày một kém tuổi' làm Tản Đà chưa chắc có thể 'dám theo'.

Qua những tâm sự của nhà thơ, Trời an ủi rằng:

'Nói rằng: Con không cần phải lên miệng Trời Trời ở trên cao, mọi thứ Trời đều rõ Hãy về mà cống hiến sức mình Đừng ngại những gian khó, đó là thử thách!'

Lời khuyên của Trời sâu sắc và thấm thiết. Mọi tâm tư của Tản Đà, Trời đều biết và 'thấu hết'. Nghệ sĩ chân chính cần chấp nhận hiện thực khó khăn và đồng thời thực hiện nhiệm vụ làm thiên lương con người. Đây là trách nhiệm cao cả của những người sáng tạo văn chương, nghệ thuật trong thế giới hạ giới.

Kết thúc bài thơ, câu chuyện hầu Trời kết thúc. Trời sai Khiên Ngưu đóng xe, đưa Tản Đà về hạ giới. Trở về, lòng nhà thơ tràn đầy tiếc nuối. Tận sâu trong tâm hồn, ông mong muốn được lên hầu Trời mỗi đêm để thổ lộ nỗi niềm thầm kín.

'Mỗi đêm là một hành trình lên bầu trời Thắp đèn dưới vầng sao sáng lấp lánh!'

Bài thơ 'Hầu Trời' phản ánh sự bay bổng, ngông cuồng của Tản Đà và khát vọng khẳng định tài năng. Tác phẩm này theo dòng thơ tự do, diệu kỳ, mang đến không khí hóm hỉnh, giản dị. 'Hầu Trời' là bức tranh sống động về văn chương, châm ngôn của người 'hai thế kỉ' [Hoài Thanh].

Chủ Đề