25km bằng bao nhiêu hải lý?

Ngày 9/8/1997, tại Băng Cốc Thái Lan, Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và đồng nghiệp, Ngài Prachuab Chaiyasan, Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Thái Lan đã đặt bút ký Hiệp định về biên giới biển Việt Nam - Thái Lan, chấm dứt một phần tư thế kỷ tranh cãi giữa hai nước về giải thích và áp dụng luật biển trong phân định vùng chồng lấn Việt Nam - Thái Lan.

Vịnh Thái Lan (còn gọi là vịnh Xiêm) là một biển nửa kín, với diện tích khoảng 300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan (1.560 km), Việt Nam (230 km), Malaixia (150 km) và Campuchia (460 km). Vịnh thông ra Biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215 hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là 385 km (208 hải lý). Do đó, căn cứ vào các quy định mới Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, toàn bộ Vịnh là đối tượng của các yêu sách mở rộng quyền tài phán của các quốc gia ven biển ra tới hạn 200 hải lý. Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện, cùng có quyền mở rộng vùng biển của mình, do đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2.

Trong Vịnh, Thái Lan là nước đầu tiên đã thăm dò và khai thác dầu khí. Ngày 18/5/1973, Thái Lan đơn phương vạch ranh giới ngoài của thềm lục địa Thái Lan trong Vịnh và công bố các tọa độ của con đường này. Ranh giới này là đường trung tuyến giữa một bên là các đảo quan trọng của Thái Lan như Ko Phangun, Ko Samui và bờ biển Thái Lan... và bên kia là các đảo quan trọng và bờ biển của các quốc gia liên quan như đảo Rong, Xalem của Campuchia, Phú Quốc, mũi Cà Mau của Việt Nam... Đây là yêu sách tối đa của Thái Lan, khai thác việc xác định các "hoàn cảnh đặc biệt" theo Điều 6 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa mà Thái Lan là một bên phê chuẩn. Để vạch ranh giới này, Thái Lan đã bỏ qua các đảo xa bờ như đá Ko Kra, Ko Losin của Thái Lan, đảo Poulo Wai của Campuchia và quần đảo Thổ Chu của Việt Nam.

Đường yêu sách do chính quyền Việt Nam cộng hoà đưa ra năm 1971 được coi là đường trung tuyến được vạch giữa một bên là Hòn Khoai, Thổ Chu và Poulo Wai và bên kia là bờ biển Thái Lan và đảo Ko Phangun, không tính đến các đảo đá nhỏ Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan.

Sở dĩ các bên có yêu sách khác nhau là do lập trường có tính đến vị trí của các đảo, quần đảo Thổ Chu nằm cách đảo Phú Quốc 55 hải lý trong khi các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý tương ứng. Đảo xa bờ tuỳ theo vị thế của nó đều có hiệu lực trong phân định ranh giới biển giữa hai nước có bờ biển đối diện.

Trong thời gian từ năm 1977 đến năm 1982, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua một loạt các văn kiện pháp lý liên quan đến phần biển Việt Nam trong Vịnh. Đó là Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam và Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia ngày 7/7/1982. Trong các văn kiện này, Việt Nam đã không vạch một ranh giới chính thức nào cho thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Việt Nam nhấn mạnh sẽ cùng các quốc gia liên quan thông qua thương lượng trực tiếp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.

Ngày 22/11/1982, Bộ Ngoại giao Thái Lan tuyên bố phản đối tuyên bố đường cơ sở của Việt Nam và "bảo lưu mọi quyền mà luật quốc tế giành cho mình liên quan đến các vùng biển này và vùng trời trên đó".

Ngày 19/8/1992, Thái Lan bổ sung các đá Ko Kra (8023'49" B 1000 44' 13'' Đ) và Ko Losin (70 10' 14'' B, 1010 59' 59'' Đ) vào hệ thống đường cơ sở của tuyên bố ngày 11/6/1970. Bang Cốc dường như đã đòi hỏi phải tính đến các đảo đá nhỏ chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không người ở và không có một đời sống kinh tế riêng này trong phân định, trong khi lại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của các đảo xa bờ thuộc quốc gia khác như đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 - 600 dân, xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.

Trong vịnh Thái Lan, các phay chạy theo hướng Bắc - Nam tính từ Tây sang Đông bao gồm: bồn Champon, thềm Samui, bồn Tây, bồn Kra, đứt gãy ngầm Ko Kra và rãnh sâu Pattani có độ dày trầm tích 6 km được coi là khu vực triển vọng có dầu. Đường yêu sách năm 1971 do chính quyền Việt Nam Cộng hoà vạch bao gồm phần lớn phía Bắc và rìa ngoài của bồn Mã Lai, trong khi yêu sách của Thái Lan bao phủ phần Tây - Bắc. Phía Tây các lô 15, 16 và cấu trúc B, nơi có những phát hiện lớn về khí đều nằm chồng lên vùng Việt Nam yêu sách. Do vậy, các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong các lô này bị tạm thời gác lại. Nhằm khai thông quá trình thăm dò và khai thác dầu khí, Thái Lan đề nghị mở đàm phán với Việt Nam về vấn đề phân định biển. Thông cáo chung Việt Nam - Thái Lan ngày 12/1/1978 thể hiện hai nước đã đồng ý đàm phán về biên giới biển giữa họ. Tuy nhiên, sự bất đồng về việc giải quyết cuộc xung đột Campuchia đã gác lại vấn đề.

Tháng 6/1990, Thái Lan cấp đặc nhượng 8.000 km2 cho CFP - Total, bao gồm lô Total-1-B14, Total-1-B15 và Total-1-B16 nằm chồng lên các lô 40, 46, 51, 54, 55 và 58 mà Việt Nam đã cấp cho Petrofina (Bỉ) vào cùng thời gian đó. Tháng 6/1993, Total đã khoan giếng Ton Sak - 1, một cấu tạo nằm ở phía Đông của mỏ Bongkot và nằm sát đường yêu sách 1971 của Việt Nam. Trong năm 1994, tổ hợp công ty này đã khoan tiếp các giếng Ton Sak - 3, 4, 5, gặp khí condensat. Tranh chấp giữa hai nước lại đẩy hai bên một lần nữa tới bàn đàm phán. Hơn nữa, sự thay đổi tình hình chính trị trong khu vực và nhu cầu khai thác tài nguyên thiên nhiên đặt ra những vấn đề cần giải quyết thông qua một giải pháp cho tranh chấp. Ngày 15/11/1990, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Thái Lan trong chuyến thăm chính thức Việt Nam đã đề nghị với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một sự hợp tác chung phát triển dầu khí trong khu vực tranh chấp. Chuyến thăm Việt Nam ngày 17/9/1991, Thủ tướng Vương quốc Thái Lan cũng biểu lộ mong muốn giải quyết vấn đề phân định thềm lục địa giữa hai nước.

Tháng 10 năm 1991, trong lần gặp đầu tiên tại Băng Cốc Thái Lan của Uỷ ban hỗn hợp Việt - Thái về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật, hai bên đã thông qua biên bản liên quan đến vấn đề phân định các vùng biển như sau:

a) Hai bên cần hợp tác xác định ranh giới các vùng biển do hai nước yêu sách;

b) Hai bên cần cố gắng phân định biên giới biển trong khu vực chồng lấn giữa hai nước; và

c) Một sự phân định như vậy không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách.

Hai bên cũng đồng ý rằng, trong khi chờ đợi một sự phân định như vậy, không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực chồng lấn cho bất kỳ nhà thầu nào. Hai bên sẽ thông báo cho nhau không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực Việt Nam yêu sách chồng lên vùng phát triển chung giữa Thái Lan và Malaixia.

Trong bối cảnh đó, phía Thái Lan đề nghị trong trường hợp các cố gắng nêu ở điểm (b) thất bại thì hai bên có thể xem xét áp dụng khái niệm vùng phát triển chung phía Thái Lan.

Phân định vùng đặc quyền kinh tế cũng nằm trong mối quan tâm của chính phủ hai nước. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp của ngư dân Thái Lan trong các vùng biển của các nước láng giềng đã gây tổn hại không chỉ tới nguồn tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia này mà còn cả thanh danh của Chính phủ Thái Lan. Trong quan hệ với Việt Nam, Thái Lan đã nhiều lần thể hiện nguyện vọng ký kết một hiệp định về nghề cá và xác định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế. Đó là những biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn nạn đánh bắt cá bất hợp pháp. Ngày 23/2/1988, Vương quốc Thái Lan tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế của mình. Tuyên bố này không đưa ra một ranh giới thật sự nào của vùng đặc quyền kinh tế Thái Lan.

Như vậy, giữa Thái Lan và Việt Nam có hai vấn đề cần giải quyết, đó là phân định thềm lục địa và phân định vùng đặc quyền kinh tế. Vịnh Thái Lan không sâu và có bề rộng không vượt quá 300 hải lý nên bản thân nó đã tạo ra một hoàn cảnh hữu quan. Đường phân chia sẽ được xác định chủ yếu căn cứ vào các hoàn cảnh địa lý.

Do được đánh giá có tiềm năng dầu khí trên một thềm lục địa duy nhất trong Vịnh, hai bên hữu quan, Việt Nam và Thái Lan, đều có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc sản xuất dầu khí, có cùng mối quan tâm giành được phần thềm lục địa nhiều nhất có thể. Hơn nữa, các bên không quên giành được sự kiểm soát tối đa cột nước phía trên thềm lục địa phân chia, một vùng biển quan trọng đối với công nghiệp đánh bắt cá. Rõ ràng vùng đặc quyền kinh tế đóng một vai trò không thể bỏ qua trong phân định thềm lục địa.

Ngày 7 - 10/9/1992, cuộc họp cấp chuyên viên đầu tiên về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được tiến hành tại Băng Cốc. Phía Việt Nam đề nghị phân chia vùng chồng lấn hình thành giữa hai đường 1971 và 1973, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt với Điều 74 và 83 của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 về phân định theo nguyên tắc công bằng. Phía Thái Lan đòi hỏi lấy đường 1973 làm cơ sở phân định, đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh đường 1971. Nói cách khác, Thái Lan không chấp nhận sự tồn tại vùng chồng lấn giới hạn bởi các đường 1971, 1973 và hiệu lực của đảo Thổ Chủ trong phân định. Cuộc họp tiếp theo tại Hà Nội từ ngày 20 - 23/5/1993, nhằm thúc đẩy đàm phán, phía Việt Nam đã đề nghị chia 50/50 vùng chồng lấn 1971 - 1973, nhưng phía Thái Lan vẫn giữ lập trường cũ.

Tới vòng đàm phán III từ ngày 10 - 13/1/1995, phía Thái Lan đã thể hiện có chuyển biến tích cực khi không bác bỏ đường 1971, và nêu nguyên tắc "mọi đường phân chia phải phản ánh một giải pháp công bằng" - nguyên tắc mà phía Việt Nam đã đề cập đến ngay từ đầu.

Như vậy, hai bên đã thống nhất cần áp dụng nguyên tắc công bằng trong phân định để đi đến một giải pháp công bằng. Hai bên đều đồng ý áp dụng phương pháp trung tuyến trong phân định. Tuy nhiên, hai bên lại có bất đồng sâu sắc trong việc giải thích thế nào là công bằng, cần phải tính đến các yếu tố công bằng nào trong phân định và đường trung tuyến được tính giữa bờ và bờ hay giữa đảo và đảo. Phân định thềm lục địa Việt Nam - Thái Lan chính là giải quyết sự không thống nhất giữa các bên về xác định hiệu lực của các đảo. Điều này thể hiện cuộc đấu tranh pháp lý dai dẳng giữa các bên trong suốt các vòng đàm phán tiếp theo: vòng IV từ ngày 5 - 9/6/1995, vòng V từ ngày 28 - 31/8/1995. Phía Việt Nam, căn cứ Điều 121 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 cho rằng, quần đảo Thổ Chu mà đảo lớn nhất là đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 - 600 dân xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không có người ở và không có một đời sống kinh tế riêng, nên không thể được coi như đảo Thổ Chu. Các đá này nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý. Phía Thái Lan cho rằng vị trí quần đảo Thổ Chu, nằm cách đảo Phú Quốc 55 hải lý, tạo một hiệu lực sai lệch đường biên giới biển có thể. Thái Lan công nhận đảo có quyền có hiệu lực nhưng không phải là một hiệu lực toàn phần. Theo Thái Lan, vấn đề xác định hiệu lực đảo trong phân định còn rất khác nhau, chưa có một tiêu chuẩn thống nhất, thể hiện qua thực tiễn quốc tế và các phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế. Thái Lan đề nghị cho đảo Thổ Chu hưởng 25 - 30% hiệu lực và chấp nhận dành tối đa cho phía Việt Nam 30% diện tích vùng chồng lấn. Tuy nhiên tới vòng VI, những biến chuyển chính trị trên chính trường Thái Lan đã tác động đến tình hình đàm phán.

Sau khi quan hệ giữa hai nước phát triển thêm với chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Thái Lan tháng 3 năm 1997 và kết quả kỳ họp lần thứ nhất của Uỷ ban Hỗn hợp Việt - Thái về hợp tác kinh tế cũng như thiết lập trật tự trên biển và nghề cá, đàm phán đã tiến triển trở lại. Trong cuộc đàm phán nối lại vòng VIII tại Đà Lạt, từ ngày 30/5 - 3/6/1997, hai bên đã đồng ý giải quyết đồng thời cả hai vấn đề phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế bằng một đường ranh giới duy nhất.

Khu vực phân định mà Hiệp định ngày 9/8/1997 điều chỉnh được xác định trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách. Khu vực này được giới hạn ở phía Bắc và phía Nam bằng các đường yêu sách 1971, 1973. Phía Tây được giới hạn bởi đường "dàn xếp tạm thời" giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia năm 1991 trong một tuyên bố chung thoả thuận hai bên không tiến hành bất kỳ hoạt động phát triển dầu khí nào ở ngoài đường trung tuyến giữa Thổ Chu và Poulo Wai cho đến khi có một giải pháp cuối cùng. Phía Đông được giới hạn bởi ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia năm 1979. Tuy nhiên Việt Nam bảo lưu quyền của mình trong vùng chồng lấn ba bên Việt Nam - Th ái Lan - Malaixia. Việc lấy ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia làm ranh giới cho vùng cần giải quyết chỉ có ý nghĩa là mọi giải pháp giữa Việt Nam và Thái Lan không gây ảnh hưởng gì tới yêu sách của Malaixia, bên thứ ba, trong vùng này.

Sau chín vòng đàm phán, hai bên đã đi đến thoả thuận:

1. Đường phân chia thoả thuận là một đường thẳng kẻ từ điểm C (70 49'0" B, 103002'30" Đ), tới điểm K (8046'54"B; 102012'11"Đ). Điểm C chính là điểm nhô ra nhất về phía Bắc của khu vực phát triển chung Thái Lan - Malaixia được xác định rõ trong bản ghi nhớ ngày 21/2/1979, và trùng với điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa của Malaixia năm 1979. Điểm K nằm trên đường thẳng cách đều Thổ Chu và Poulo Wai, đây là đường "dàn xếp tạm thời" Việt Nam - Campuchia năm 1991. Với hiệu lực 32,5% của đảo Thổ Chu, đường phân định thoả thuận này trên thực tế cho thấy Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích vùng chồng lấn.

2. Đường biên giới biển CK tạo thành biên giới phân định thềm lục địa giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan, đồng thời cũng là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Mỗi bên ký kết đều thừa nhận các quyền chủ quyền và tài phán của bên kia trên vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nằm trong phạm vi đường biên giới biển được xác lập bởi Hiệp định.

3. Trong trường hợp có cấu trúc dầu hoặc khí duy nhất hoặc mỏ khoáng sản có tính chất bất kỳ nào nằm vắt ngang đường biên giới thì hai bên phải có trách nhiệm trao đổi thông tin, cùng tìm kiếm thoả thuận sao cho các cấu trúc hoặc mỏ này được khai thác một cách hiệu quả nhất và chi phí cũng như lợi tức từ việc khai thác sẽ được phân chia một cách công bằng.

4. Hai bên cũng cam kết sẽ tiến hành đàm phán với Malaixia về khu vực yêu sách thềm lục địa chồng lấn giữa ba nước, nằm trong vùng phát triển chung Thái Lan - Malaixia được xác định bởi Bản ghi nhớ giữa Vương quốc Thái Lan và Malaixia về thành lập cơ quan quyền lực chung khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực thềm lục địa xác định của hai nước trong vịnh Thái Lan, ký tại Chiềng Mai ngày 21/2/1979.

Hiệp định ngày 9/8/1997 đã mở ra một trang mới không chỉ trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam - Thái Lan mà cả trong lịch sử phân định vịnh Thái Lan. Hiệp định bao gồm những điểm nổi bật sau:

- Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái Lan. Ngoài tranh chấp giữa Việt Nam và Thái Lan, vẫn tồn tại vấn đề phân định biển giữa Việt Nam - Campuchia, Campuchia - Thái Lan, Việt Nam - Thái Lan - Malaixia và Việt Nam - Campuchia - Thái Lan.

- Đây là hiệp định về phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực, đồng thời cũng là hiệp định về phân định toàn bộ các vùng biển đầu tiên trong khu vực. Trong khu vực, đã có Hiệp định về phân định thềm lục địa giữa Inđônêxia và Malaixia ngày 27/10/1969 và ngày 21/12/1971, phân định thềm lục địa giữa Inđônêxia và Thái Lan ngày 17/12/1971 và phân định thềm lục địa giữa Thái Lan và Malaixia ngày 21/12/1971; Bản ghi nhớ Thái Lan - Malaixia ngày 21/2/1979 về thiết lập Cơ quan quyền lực chung nhằm khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực xác định trong vịnh Thái Lan, Hiệp định về khai thác chung Việt Nam - Malaixia ngày 5/6/1992, nhưng đây là lần đầu tiên có một hiệp định phân chia cả thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước thành viên ASEAN có tranh chấp biển.

- Hiệp định này đã khẳng định xu thế có thể thoả thuận về một đường biên giới biển duy nhất phân định đồng thời thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong các vùng biển không rộng quá 400 hải lý giữa các bờ biển đối diện nhau.

- Cùng với việc ký kết Hiệp định về phân định, hai Chính phủ còn đạt được thoả thuận về hợp tác bảo đảm an ninh trên biển và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh thông qua việc tổ chức tuần tra chung giữa Hải quan Thái Lan và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; tổ chức tuyên truyền, giáo dục ngư dân hai nước tôn trọng quy định về đánh cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật.

- Quá trình yêu sách kéo dài từ những năm 1971, 1973, nhưng quá trình đàm phán để đạt được hiệp định giải quyết vấn đề đã được tiến hành trong một thời gian ngắn. Trong vòng năm năm, từ 1992 đến 1997, với chín vòng đàm phán, hai bên đã nhanh chóng đi đến kết quả cuối cùng, thể hiện thiện chí của cả hai nước Việt Nam - Thái Lan, tinh thần hợp tác phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Nên nhớ Thái Lan và Malaixia đã mất hơn 10 năm đàm phán để tìm một giải pháp cho tranh chấp thềm lục địa giữa họ trên vùng chồng lấn rộng 7.250 km2. Năm 1979, họ mới đạt được một thoả thuận về thành lập Cơ quan quyền lực chung phát triển chung vùng chồng lấn đó và phải tới năm 1992 cơ quan này mới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Việc giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác vấn đề phân chia vùng chồng lấn đã thể hiện quyết tâm của hai nước trong khu vực trong việc thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, mà Việt Nam và Thái Lan đều là các nước thành viên.

- Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được với các nước láng giềng. Việt Nam là nước có số lượng các tranh chấp biển liên quan nhiều nhất trong số các tranh chấp biển của khu vực. Hiệp định ngày 26/7/1997 có tác động nhất định thúc đẩy các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp biển giữa Việt Nam với các nước hữu quan trên tinh thần khoản 7, Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

- Hiệp định phân định biển này tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước Việt Nam - Thái Lan, góp phần đảm bảo ổn định an ninh trật tự trên biển, đẩy mạnh sản xuất dầu khí giữa hai nước. Nó mãi mãi là một mốc son trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.

2.1.4. Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia

2.1.4.1. Tình hình tranh chấp về chủ quyền các đảo và ranh giới biển trước khi ký kết Hiệp định vùng nước lịch sử năm 1982

a. Khái quát

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có vùng biển kế cận nhau. Trong lịch sử, hai bên có vấn đề tranh chấp chủ quyền đòi hỏi một số đảo ven bờ và chưa tiến hành đàm phán phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Năm 1982, hai bên đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên theo một đường mà Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié đề xuất năm 1939, thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản lý; các hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán như cũ; mọi hoạt động liên quan đến thăm dò dầu khí trong vùng nước lịch sử phải có ý kiến nhất trí của bên kia mới được tiến hành.

Hai bên còn phải tiếp tục đàm phán để xác định ranh giới biển trong vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Năm 1983, hai bên đã ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, trong đó nêu rõ hai bên sẽ tiếp tục giải quyết vấn đề tồn tại trên theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước, phù hợp với pháp luật quốc tế và thực tiễn quốc tế.

b. Giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền đảo

Giữa bờ biển Việt Nam và Campuchia có trên 150 hòn đảo lớn và nhỏ, được chia thành bẩy cụm và một số đảo lẻ. Ngoài một số đảo lớn như Phú Quốc có diện tích 573 km2, Phú Dự - 25 km2, Thổ Chu - 10 km2 và một số đảo như Hòn Dứa, Nam Du trên dưới 5 km2, còn lại các đảo đều nhỏ có diện tích dưới 1 km2.

Cho tới đầu thế kỷ XVII, các đảo trên còn hoang vu chưa có người đến ở. Có một số đảo là sào huyệt của cướp biển từ Triều Châu và Quảng Đông (Trung Quốc) tới.

Năm 1671, Mạc Cửu, người Quảng Đông (Trung Quốc) đã chiêu mộ nhân dân ra khai khẩn, bình định cướp biển và lập nên một trấn gồm bẩy xã, trong đó bao gồm phần lớn các đảo ven bờ của Campuchia hiện nay. Năm 1708, Mạc Cửu được Chúa Nguyễn phong làm Tổng binh cai quản trấn Hà Tiên (1714). Từ đó, việc khai phá đất hoang và quản lý các đảo cũng được triều đình nhà Nguyễn tích cực xúc tiến.

Sau khi chiếm xong Nam Kỳ, từ năm 1869, Pháp đã tiến hành khảo sát các đảo trong vịnh Thái Lan. Căn cứ vào kết quả khảo sát, ngày 25/5/1874, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định số 124, tổ chức các đảo ven bờ Việt Nam và Campuchia thành một quần đảo trực thuộc tỉnh Hà Tiên, Nam Kỳ.

Từ năm 1913 bắt đầu nảy sinh các tranh chấp về thẩm quyền đặc nhượng khai thác tài nguyên và quyền thu thuế, việc bảo vệ trị an trên các đảo nằm dọc theo bờ biển Việt Nam - Campuchia.

Để giải quyết các mâu thuẫn về quản lý giữa Khâm sứ Cao Miên và Thống đốc Nam Kỳ và bảo đảm an ninh trật tự trên vùng biển này, ngày 31/1/1939, toàn quyền Đông Dương đã viết một bức thư, số 867 - API (sau này có ý kiến lầm tưởng đó là Thông tư Brévié) quyết định vạch một đường phân chia quyền quản lý hành chính và cảnh sát giữa hai bên. Đường này được mô tả trong thư như sau: "...tôi quyết định rằng tất cả các đảo nằm ở phía Bắc một đường vuông góc với bờ biển xuất phát từ đường biên giới giữa Cambodge và Nam Kỳ và lập thành một góc 1400 G với kinh tuyến Bắc, đúng theo bản đồ kèm theo đây, từ nay sẽ do Cambodge quản lý. Đặc biệt, chính quyền bảo hộ sẽ đảm nhiệm vấn đề cảnh sát của các đảo này. Tất cả các đảo ở phía Nam con đường này, kể cả toàn bộ đảo Phú Quốc, sẽ tiếp tục do Nam Kỳ quản lý. Đã quyết định con đường được vạch như vậy chạy vòng qua Bắc đảo Phú Quốc, cách các điểm nhô ra nhất của bờ biển phía Bắc đảo Phú Quốc 3 km".

Bức thư cũng nêu rõ: "Đương nhiên là ở đây chỉ đề cập vấn đề hành chính và cảnh sát, còn vấn đề quy thuộc lãnh thổ của các đảo này hoàn toàn được bảo lưu".

Điều cần nói nữa là, đến nay cả hai bên Việt Nam và Campuchia đều không có bản đồ thể hiện đường Brévié kèm theo bức thư này. Theo lời văn này, có nhiều cách thể hiện các đường Brévié theo các cách hiểu khác nhau (ít nhất là có bốn cách vẽ đường Brévié khác nhau) và không thể khẳng định được cách vẽ nào là đúng.

Nghị định số 104/1368 của Bollaert, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương ban hành ngày 13/4/1948 về hành hải và đánh cá cũng không coi đường Brévié là đường ranh giới trên biển. Nội dung này quy định rõ tại Điều 7 "Vùng biển Nam Kỳ bao gồm lãnh hải và vùng tiếp giáp của đảo Phú Quốc thuộc Nam Kỳ". Trong Điều 6 của văn bản này cũng quy định, lãnh hải có chiều rộng 3 hải lý và vùng tiếp giáp là 20 km tính từ mực nước triều thấp nhất.

Các học giả trên thế giới trong đó có Sarin Sahk (sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Campuchia) cũng không coi đường Brévié là đường biên giới biển. Trong luận án tiến sĩ của mình, được Hoàng thân Sihanouk viết lời tựa và xuất bản tại Pari năm 1966, Sarin Sahk đã viết "Câu cuối cùng của thông tư này quá rõ ràng. Vấn đề chủ quyền được bảo lưu. Nhưng nếu vấn đề này được bảo lưu thì điều đó không có nghĩa là nó được coi như có lợi cho nước này hay nước kia. Vấn đề còn treo lại, hoàn toàn được treo lại."

Trong suốt quá trình lịch sử của hai nước qua các chế độ khác nhau ở Campuchia và miền Nam Việt Nam, đường Brévié chưa bao giờ được thừa nhận là đường phân chia chủ quyền các đảo và đường biên giới biển.

Như vậy, từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1939, về lịch sử và pháp lý, toàn bộ các đảo giữa Việt Nam và Campuchia thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chỉ từ năm 1939, Campuchia mới chính thức quản lý về mặt hành chính và cảnh sát các đảo ở phía Bắc đường Brévié. Tuy vậy, chính quyền Nam Kỳ và sau đó là chính quyền Sài Gòn không chấp nhận, vẫn coi các đảo Wai, Phú Dự, Tiên Mối và nhóm Bắc Hải Tặc thuộc chủ quyền Việt Nam. Đến năm 1956, Campuchia đưa quân ra chiếm đảo Phú Dự, chiếm nhóm đảo Bắc Hải Tặc năm 1958 và đảo Wai năm 1966.

Năm 1957, Quốc vương Campuchia ra sắc lệnh quy định đường cơ sở thẳng của Campuchia là đường nối liền các điểm chuẩn trên đất liền và các đảo ven bờ của Campuchia và quy định lãnh hải của Campuchia là 5 hải lý. Sắc lệnh này cũng quy định ranh giới trên biển với các quốc gia kế cận là đường vuông góc với đường cơ sở kéo ra biển 5 hải lý (đối với Việt Nam, đường này còn lệch về phía Việt Nam hơn so với đường Brévié), ranh giới ngoài thềm lục địa của Campuchia là đường đẳng sâu 50 m.

Trong năm 1972, chính quyền Lonnol ra Sắc lệnh về ranh giới thềm lục địa (số 439 - 72/PRK, ngày 1/7/1972) và Sắc lệnh quy định hệ thống đường cơ sở và lãnh hải Campuchia (số 518 - 72/PKR, ngày 12/8/1972) quy thuộc các đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam vào lãnh thổ Campuchia.

Năm 1976, chính quyền Campuchia Dân chủ nêu yêu sách lấy đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì theo họ "đường này đã được sử dụng như đường biên giới trong gần 40 năm qua". Cũng trong năm đó, ta đã chính thức trao lại đảo Wai cho Campuchia.

Ngày 31/7/1982, Cộng hoà Nhân dân Campuchia đã ra tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng bao gồm cả các đảo nằm xa bờ như đảo Wai.

Ngày 7/7/1982, hai nước Việt Nam và Campuchia đã ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa hai nước. Hiệp định này đã giải quyết được những vấn đề hết sức quan trọng như sau:

- Hiệp định đã xác định giới hạn cụ thể của vùng nước lịch sử thuộc chế độ nội thuỷ chung của hai nước Việt Nam và Campuchia. Ngoài vùng nước này là các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền riêng của mỗi nước. Đây cũng là điều hết sức quan trọng tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để hai nước quản lý, bảo vệ các vùng biển của mình.

- Hai bên thoả thuận "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia đảo trong khu vực này". Đây là lần đầu tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các bên đối với các đảo giữa hai nước. Hiệp định này đã nâng đường Brévié từ ranh giới quản lý hành chính và cảnh sát thành đường phân chia chủ quyền đảo giữa hai nước nhưng cũng xác nhận giữa hai nước chưa có đường biên giới biển.

- Hai bên "sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước trong và ngoài vùng nước lịch sử". Sau khi ký Hiệp định vùng nước lịch sử, hai bên vẫn tiếp tục đàm phán để phân định đường biên giới biển giữa hai nước trong và ngoài vùng nước lịch sử.

- Việc tuần tiễu, kiểm soát trong vùng nước lịch sử này sẽ do hai bên cùng tiến hành. Trên thực tế, mặc dù các lực lượng tuần tra, kiểm soát và chính quyền địa phương của hai bên đã có các cuộc gặp trao đổi nhằm bảo đảm an ninh trật tự chung trong vùng nước lịch sử nhưng vẫn còn tình trạng mất an ninh, trật tự, các vụ bắt giữ bất hợp pháp tàu thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam đang hành nghề hợp pháp trên biển, một số vụ cướp biển vẫn còn xảy ra. Sắp tới hải quân hai nước sẽ tổ chức tiến hành tuần tra chung trong vùng nước lịch sử theo thoả thuận giữa hai Bộ Quốc phòng.

- Việc đánh bắt hải sản của nhân dân địa phương trong vùng này vẫn tiếp tục theo tập quán làm ăn từ trước tới nay. Như vậy, nhân dân hai nước cùng có quyền khai thác nguồn lợi hải sản một cách hợp pháp trong vùng nước lịch sử. Công dân của nước khác không được phép vào đánh bắt trong vùng nước này.

Đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, khoáng sản, v.v. trong vùng nước lịch sử sẽ do hai bên cùng thoả thuận; khi không có thoả thuận không bên nào được đơn phương tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên trong vùng nước lịch sử.

2.1.4.2. Ý nghĩa và nội dung Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia

Mặc dù Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 không có quy định cụ thể về vùng nước lịch sử nhưng thực tiễn quốc tế đã thừa nhận sự tồn tại của vùng nước lịch sử và vùng nước đó thuộc chế độ pháp lý nội thuỷ của các quốc gia ven biển. Trong phán quyết về vụ án "Ngư trường của Nauy" năm 1951, Toà án quốc tế đã đưa ra định nghĩa "vùng nước lịch sử là vùng nước mà người ta coi là nội thuỷ, trong lúc vùng nước đó nếu thiếu một danh nghĩa lịch sử thì không có tính chất nội thuỷ đó". Trên thế giới đã có trên 20 nước công bố các vịnh, vùng nước lịch sử của riêng hoặc chung giữa hai hoặc ba nước.

Danh nghĩa lịch sử của vùng nước này được dựa trên các điều kiện sau:

- Điều kiện địa lý đặc biệt của vùng nước đòi hỏi phải có một chế độ pháp lý đặc biệt;

- Lịch sử chiếm hữu, sử dụng, khai thác lâu dài và liên tục;

- Vùng nước có ý nghĩa đặc biệt về chiến lược, an ninh quốc phòng, kinh tế đối với quốc gia ven biển.

Từ thực tiễn quốc tế trên chúng ta thấy rất rõ ràng rằng vùng nước nằm giữa các quần đảo Thổ Chu và đảo Phú Quốc của Việt Nam và đảo Wai và bờ biển của Campuchia có đủ điều kiện là vùng nước lịch sử chung giữa hai nước vì:

- Về mặt địa lý: Vùng nước này là vùng biển nông với độ sâu phía ngoài quần đảo Thổ Chu và Wai khoảng 40 m, phía trong có độ sâu trung bình khoảng từ 20 đến 30 m. Vùng biển này hoàn toàn được các đảo và bờ biển của hai nước bao bọc. Vùng biển này gắn liền với bờ biển và là một bộ phận hữu cơ của phần đất liền hai nước Việt Nam và Campuchia. Mặt khác, vùng biển này cũng chịu tác động mạnh của sự biến đổi không ngừng của bờ biển cực kỳ không ổn định, khiến cho địa hình vùng biển cũng luôn thay đổi theo thời gian.

- Về mặt lịch sử: Toàn bộ vùng biển và các hải đảo trong khu vực đã thuộc về hai nước từ lâu đời. Nhân dân hai nước đã quản lý, khai thác sử dụng vùng nước này một cách liên tục.

- Về mặt chiến lược, an ninh quốc phòng, kinh tế: Vùng biển này có ý nghĩa hết sức quan trọng về an ninh quốc phòng và kinh tế đối với nhân dân hai nước trong suốt lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.

Nói tóm lại, Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia có ý nghĩa hết sức quan trọng là đã giải quyết được vấn đề chủ quyền các đảo giữa hai nước, một vấn đề tranh chấp phức tạp kéo dài nhiều năm chưa giải quyết được, tạo cơ sở pháp lý để hai nước quản lý, bảo vệ, khai thác các vùng biển của mình, góp phần tạo môi trường an ninh trật tự chung trên biển, củng cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.

Trong thời gian tới, căn cứ vào Luật biển quốc tế và quy định của Hiệp định, hai nước Việt Nam và Campuchia còn có nhiệm vụ tiếp tục đàm phán, giải quyết vấn đề hoạch định đường biên giới biển trong vùng nước lịch sử và lãnh hải cũng như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa liên quan giữa hai nước ở khu vực này.